← Quay lại trang sách

Chương 35

“Tôi đã nói chuyện với Đức cha Tổng giám mục Westminster” Henry thông báo khi ông xuất hiện trước cửa phòng chúng tôi sáng hôm sau. “Cha hiệu trưởng của St. Alban sẽ tiếp tôi lúc mười một giờ”.

“Chỉ ông thôi sao?” tôi hỏi.

“Tôi tin mình đã quên không đề cập tới chuyện tôi có người đi cùng” Henry nói. “Tôi chắc cha hiệu trưởng cũng là người linh hoạt”.

Tại sân bay Stansted ở tây bắc London, chẳng ai nhìn hộ chiếu của tôi đến lần thứ hai, bất chấp những vết cong queo và những chỗ ngấm nước mỗi lúc một nhiều. Hộ chiếu của Henry bị kiểm tra đến lần thứ hai, nhưng sau một cái nháy mắt, nhân viên an ninh đã tỏ ra kín tiếng. Ngoài ra không ai nhận ra ông. Ông đi qua sân bay như một ông lão mệt mỏi, và chẳng khiến ai bận tâm tới. Ba chúng tôi cùng lên một chiếc máy bay phản lực sơn màu vàng và xanh của Ryanair, và không bao lâu sau chúng tôi đã ở trên không trung.

Tôi nhìn qua cửa sổ trong khi chúng tôi bay trên dãy Pyrenees và đồng bằng Castille màu nâu thẫm, thỉnh thoảng xen lẫn những vệt xanh lục quanh co uốn khúc của những dòng sông. Tới nơi, chúng tôi chui vào taxi và lao xuống sườn một ngọn đồi hướng về phía Valladolid. Hai bên đường nhô lên những quả đồi có đỉnh bằng phẳng giống như những ngọn núi mặt bàn, được phủ bên trên bằng thảm cỏ màu nâu vàng, điểm xuyến đôi chỗ bằng những gốc cây đơn lẻ. Những nhà chinh phục hẳn đã ngắm nhìn phong cảnh cằn cỗi khắc nghiệt của miền bắc Mexico và miền nam Hoa Kì hiện nay với nỗi nhớ quê hương. Phong cảnh đó có lẽ làm họ cảm giác như đang ở nhà.

Thành phố hiện ra trong tầm mắt chúng tôi một cách thật đột ngột – một đám kho hàng nằm rải rác, những tòa nhà mới xây dựng, một cây cầu bắc qua dòng sông phẳng lặng chảy chậm rãi, và rồi chúng tôi bị nuốt chửng vào lòng châu Âu cổ kính. Những ngôi nhà với cửa sổ cao và ban công duyên dáng đổ bóng xuống các đường phố. Người dân ngồi thư thả thưởng thức đồ uống tại những quán cà phê vỉa hè và tản bộ dưới những tán cây hay qua những dãy cửa hàng trong chợ và những quảng trường được tô điểm bằng đài phun nước. Chúng tôi đi dọc một bức tường gạch dài. Tôi có thể nhìn thấy một mái vòm màu trắng nhô lên trên đỉnh tường.

“ El Real Colegio de Ingleses ” người lái xe taxi của chúng tôi thông báo.

Bước chân xuống đường, tôi nhắm tịt mắt lại vì ánh nắng Tây Ban Nha chói chang và sắc như dao găm. Khung cửa lớn hai cánh dẫn vào nhà thờ bị khóa chặt. Đi quá một chút về cuối phố có một lối vào khác nhỏ hơn nằm quay lưng ra phố. Chúng tôi bấm chuông và đợi.

Vài phút sau, đích thân cha hiệu trưởng ra mở cửa. Đức cha Michael Armstrong, hiệu trưởng Học viện Hoàng gia St. Alban, là một người phương phi với mái tóc màu xám và chiếc mũi dài, nhọn như của một vị thánh Byzantine; ông mặc bộ áo tu sĩ màu đen có thắt đai đỏ. Đức cha tự giới thiệu, thái độ lịch sự lạnh lùng với tất cả sự ấm áp nồng hậu của đá granit.

Đưa chúng tôi đi qua gian tiền sảnh rất âm vang, ông dẫn chúng tôi đi nhanh dọc một dãy hành lang sơn trắng lợp ngói đất nung. Tôi đã nghĩ tới một văn phòng, nhưng chúng tôi lại bước vào không gian lặng lẽ tranh tối tranh sáng của một nhà thờ. “Tất cả sinh viên đã rời trường và chỉ còn lại một bộ khung tại học viện trong mùa hè” cha hiệu trưởng nói. “Chúng tôi tận dụng lúc vắng người để sơn lại các văn phòng và thay tất cả cửa sổ. Vào lúc này thì đây là chỗ nói chuyện tốt nhất”.

Đó là một nhà thờ nhỏ theo phong cách baroque Tây Ban Nha. Tôi chợt nhận ra bàn thờ Chúa, được sơn màu xanh lục và đỏ, in đầy hình các thánh thếp vàng, rất giống với sân khấu của nhà hát Quả cầu. Ở giữa là tượng Đức Mẹ đồng trinh mà các thủy thủ Anh đã làm hư hại trong cuộc cướp phá Cadiz năm 1596, và từ đó đến nay bức tượng Đức Mẹ đã được những người đồng bào Công giáo thờ phụng trân trọng. Mary, nữ hoàng của thiên đường. Mũi giáo và cả hai cánh tay của bức tượng đã bị phá hủy. Lavinia. Ý nghĩ vụt hiện lên trong đầu, tôi tránh không dám nhìn khuôn mặt sứt sẹo của bà nữa.

“Henry, tôi được thông báo là ngài đang lần theo dấu Shakespeare”. Giọng nói của cha hiệu trưởng mang thổ âm của vùng bắc Anh. Có lẽ là Yorkshire. “Tôi e rằng ngài không phải là người đầu tiên. Chúng tôi đã bị quấy rầy hết lần này tới lần khác”. Ông giang tay với vẻ chán nản cam chịu, nhưng khuôn miệng ông lại rất kiên quyết. “Ngài sẽ không tìm thấy ông ta hay Marlowe ở đây đâu. Nếu ngài muốn, tôi có thể cho ngài xem chương mục về Marlowe - hay Morley - trong hồ sơ đăng ký nhập học của học viện. Trong đó đã ghi chú rất rõ đó là một bí danh”. Ông mỉm cười lạnh lùng. “Trong thời gian của những cuộc thanh trừng, tên của những người chết là tấm mặt nạ hữu hiệu để bảo vệ người còn sống”.

“Thế thì thật may cho chúng tôi, vì chúng tôi không tìm Marlowe” Henry nói. “Đúng là chúng tôi đang lần theo dấu Shakespeare, nhưng chúng tôi không trông đợi tìm thấy ông ở đây”.

Đôi mắt đức cha Armstrong thoáng hiện vẻ ngạc nhiên. “Vậy các vị muốn tìm ai?”

“Một người có thể biết rõ về Shakespeare” Henry nói.

“Tại đây? Ngài nghĩ Shakespeare có thể có một mối quan hệ với học viện này?”

Tôi lấy chiếc trâm ra và mở chiếc khung ảnh bí mật ở mặt sau, giữ nó mở để cha hiệu trưởng có thể nhìn thấy chân dung người đàn ông trẻ tuổi và bức tượng chịu nạn người này đang cầm. “Chúng tôi tìm người này”.

Vẻ nghiêm khắc của đức cha Armstrong dịu bớt. “Đẹp quá!” ông khẽ nói. “Của Hilliard đúng không?”

“Chúng tôi hi vọng là vậy” Henry nói.

“Chắc chắn là chân dung một người tử vì đạo” cha hiệu trưởng nói. “Tôi đã nghe kể về những bức tranh này, nhưng chưa từng thấy tận mắt… Tên anh ta là gì?”

“William” Henry nói với một nụ cười tinh quái, “nhưng không phải là Shakespeare”.

Đức cha Armstrong chặc lưỡi. “Chẳng lẽ vẻ nghi ngờ của tôi lại lộ liễu đến vậy sao? Ngài sẽ không thể tin được những câu hỏi kì quặc, dai dẳng mà chúng tôi nhận được… Ngài có biết họ không?”

“Không” tôi nói.

“Một mốc thời gian?”

“Không thật chính xác. Nhưng có lẽ anh ta chắc chắn phải ở đây vào năm 1621. Chúng tôi nghi ngờ rằng anh ta không quay về Anh”.

“Công việc phụng sự Chúa có thể thực hiện ở nhiều nơi”.

“Anh ta có thể đã đi Tân Thế Giới; đến tây Tây Ban Nha” Ben nói.

“Như thế thật không bình thường, với một người Anh” Đức cha nhìn lại bức chân dung nhỏ. “Đặc biệt với một thành viên dòng Jesuit, nếu suy đoán từ dòng tôn chỉ này… Hồ sơ đăng kí nhập học cũ của học viện có thể giúp ích ít nhiều. Hãy đi theo tôi”.

Ông dẫn chúng tôi ra khỏi nhà thờ quay lại qua một mê cung những dãy hành lang lợp ngói, băng qua một khoảng sân với những cây ô liu nằm tắm ánh mặt trời. Rồi chúng tôi dừng lại trước một cánh cửa khóa trái. Đức cha mở khóa, và tôi nhìn thấy phía bên trong cánh cửa là một thư viện lưu trữ với những hàng dài sách bìa da chữ mạ vàng.

Từ một trong các giá sách, cha hiệu trưởng rút ra một tập sách nặng bìa xanh. Một bản in lại, không phải bản gốc. Có vẻ như viết bằng tiếng Latinh. Ông giở nhanh các trang cho tới năm 1621, sau đó đưa ngón tay trơ béo núc chậm rãi lần qua các chương mục. Ông dừng lại một lát, tiếp tục tìm kiếm, rồi lật ngược lại. “Tôi nghĩ rồi. Chỉ có một người phù hợp với miêu tả của các vị. Tên anh ta là William Shelton”.

Tôi biết cái tên này. “Người đầu tiên dịch Don Quixote sang tiếng Anh cũng mang họ Shelton” tôi nói.

“Cô thuộc bài đấy” cha hiệu trưởng nói với vẻ tán thưởng. “Người đó có lẽ là người anh Thomas của William. Mặc dù có một số người từ lâu khăng khăng cho rằng chính William là người dịch, nhưng chấp nhận để bản dịch được coi là của anh trai mình nhằm giúp nó được xuất bản. Các vị biết đấy, một tu sĩ Jesuit như William không được chấp nhận ở nước Anh. Nhưng chắc chắn William là người dễ tiếp cận hơn tới cuốn Don Quixote . Và cũng là người biết tiếng Tây Ban Nha”.

“Anh ta có mối quan hệ nào với gia đình Howard không?” Ben hỏi.

“Bá tước Northampton giúp anh ta tới đây và đứng ra bảo lãnh cho anh ta. Điều này rất cần thiết vào thời đó, khi có rất nhiều gián điệp rình mò”.

“Một người của nhà Howard giúp anh ta vào đây?”

“Điều đó quan trọng lắm sao?”

“Có thể. Anh ta có để lại một lá thư hay giấy tờ nào khác không?”

Đức cha Armstrong lắc đầu. “Tôi e là họ tự giữ những lá thư của mình. Chúng tôi không có giấy tờ nào loại đó cả”. Ông nhìn tôi với đôi mắt sắc như dao. “Hãy tin chúng tôi. Nếu chúng tôi có bút tích của Shakespeare, tôi nghĩ là chúng tôi phải biết”.

“Nếu bút tích đó rõ ràng từ anh ta” tôi đáp trả. “Tất nhiên những người trao đổi thư tín với các ngài sử dụng các bí danh, cũng giống như các tu sĩ của các ngài vậy. Shelton đã đi đâu?”

“Anh ta được phép bỏ lời thề với dòng Jesuit để gia nhập dòng Franciscan. Và tới năm 1626, anh ta được cử tới Tân Tây Ban Nha - tới Santa Fe - cùng thầy Alonso de Benavides. Anh ta mất tích và được coi là đã tử vì đạo dưới tay những người Indian trong một chuyến đi vào khu vực hoang vu phía tây nam Santa Fe”.

Dạ dày tôi hơi thắt lại.

“Tuy vậy chúng tôi có một cuốn sách đã từng thuộc về cha Shelton” cha hiệu trưởng nói. “Không mấy người biết về nó, nhưng tôi nghĩ có lẽ các vị nên xem qua”. Bước tới góc xa của thư viện, ông lấy ra một cuốn sách dày bọc bìa da đỏ, mở ra và đưa cho tôi.

“Hài kịch, kịch lịch sử và bi kịch của William Shakespeare” tôi đọc. “Được xuất bản theo những bản sao lại từ đúng bản thảo gốc”. Dưới dòng chữ này là bức tranh khắc với chiếc đầu hình quả trứng của Shakespeare nổi bồng bềnh trên cổ áo xếp. Tôi đang cầm một cuốn Tuyển tập Đầu tiên .

“Kiệt tác thời Jacobean” Ben nói và huýt sáo khe khẽ.

Cha hiệu trưởng cầm lại cuốn sách. Tôi nhìn lên lo lắng. Chẳng lẽ ông ta chỉ cho tôi xem có vậy?

“Tôi nghĩ cô sẽ quan tâm tới bìa sách” ông nói.

Henry và Ben xúm lại cạnh tôi. Bìa da của cuốn sách được mạ vàng hình một con đại bàng đang quắp một đứa trẻ trong móng vuốt. Đột nhiên có vẻ như cuốn sách đang rung động trong tay tôi như thể tôi vừa tỳ tay lên bàn phím đàn piano.

“Cô biết biểu tượng này?” ông hỏi.

“Derby” tôi thì thầm.

“Derby” ông lặp lại. “Cuốn sách được bá tước Derby gửi cho cha Shelton”.

“Bá tước đời thứ sáu” tôi nói. “Tên ông ta cũng là William”.

Trong khoảng thời gian im lặng sau đó, căn phòng như căng tai ra, còn những cuốn sách đang ngả về phía chúng tôi từ trên giá để lắng nghe.

“Tên tôi là Will” Ben thì thầm.

“William Stanley” tôi nói rõ.

“Stanley?” Henry ngờ vực nói. “Giống như là…”

“Giống như W. S.” Ben nói.

Có tiếng gõ cửa, tôi giật bắn. “Vào đi” cha hiệu trưởng nói. Một tu sĩ trẻ ló đầu vào phòng. “Thưa cha, cha có điện thoại”.

“Hãy ghi lại lời nhắn”.

“Đó là đức cha tổng giám mục Westminster”.

Cha hiệu trưởng bực bội xin lỗi.

“Tôi không thích chuyện này” Ben nói khi cánh cửa đóng lại. “Hãy làm những gì cần thiết rồi chúng ta rời khỏi đây ngay”.

Có một máy photocopy cũ trong góc phòng. Tôi bật nó lên, và chiếc máy rè rè khởi động. Trong lúc máy đang làm nóng, tôi mở cuốn Tuyển tập ra.

“Stanley?” Henry lại hỏi lần nữa, mắt nhìn tôi chằm chằm.

“Không có liên hệ nào hết” tôi nói ngắn gọn, lần giở nhanh cuốn sách tìm kiếm những chỗ đánh dấu - ghi chú ngoài rìa, gạch chân, chữ kí - bất cứ thứ gì được thêm vào bằng tay.

“Với cô, hay với Shakespeare?” Henry kiên quyết hỏi. “Hãy trả lời cả hai”.

Tôi tìm tới hết cuốn sách nhưng không tìm thấy gì. Chi tiết duy nhất đáng quan tâm là biểu tượng của Derby trên trang bìa. “Với tôi” tôi bực bội trả lời. “tôi không thể phản bác nếu Derby là một ứng cử viên ngoài lề nữa cho Shakespeare… Nếu ông muốn hỏi vậy”. Tôi nói thêm, trong lúc Henry bật rủa.

Tôi lại giở qua cuốn sách lần nữa, lần này chậm rãi hơn, đồng thời giải thích về tư cách ứng cử viên của Derby. Có giáo dục, ưa vận động, xuất thân quý tộc, William Stanley, bá tước Derby đời thứ sáu, hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu của một người có thể đã viết ra những vở kịch của Shakespeare. Ch và anh trai của ông ta đều đỡ đầu những đoàn kịch có tiếng, vì vậy ông ta lớn lên với bầu không khí sân khấu ngay trong nhà mình. Mặc dù về danh nghĩa ông ta theo đạo Tin lành, nhưng chỗ dựa quyền lực của gia đình ông tại Lancashire là một căn cứ vững chắc của tín ngưỡng Thiên chúa cổ xưa. Ông ta là một nhạc công có tài, đồng thời say mê săn bắn và nuôi chim ưng săn. Ông ta tiêu pha rộng rãi, biết một chút về luật, và đã từng đi thăm thú châu Âu. Bá tước thành hôn với con gái cả của bá tước Oxford, rồi sau đó, do sự dèm pha của một viên trung úy nham hiểm, đã suýt nữa để sự ghen tuông phá tan cuộn hôn nhân mới mẻ của mình. Ông ta là người đỡ đầu và cũng là đệ tử của John Dee, nhân vật lịch sử có thật đằng sau người phù thủy vĩ đại trong vở kịch của Shakespeare, Prospero.

“Trên hết” tôi kết thúc, “ông ta đã từng viết kịch. Ít nhất, chúng ta có lời chứng của một điệp viên Jesuit cho biết như vậy”.

“Điệp viên Jesuit?” Henry nghi ngờ phản đối.

“Người này được cử đi điều tra Derby như một ứng cử viên cho vị trí lãnh đạo cuộc nổi dậy của người Thiên chúa giáo. Hắn ta báo cáo lại rằng bá tước không phải là người có thể trông cậy nhiều, vì ông ta “bận rộn viết hài kịch cho đám diễn viên bình dân”.

“Chúa ơi” Ben nói. “Cô đã đọc vở kịch nào của ông ta chưa?”

Tôi lắc đầu. “Chúng đều đã thất lạc. Thật trớ trêu, nếu tính tới chuyện bức thư của tay gián điệp đã bị chặn lại và lưu trữ cẩn thận trong hồ sơ của triều đình”.

“Vậy là tư cách ứng viên của Derby bắt đầu giống với Oxford rồi” Ben nói.

“Khá hơn, về một số mặt”.

“Vì tên của ông ta chăng?” Henry mỉa mai. “Cứ năm chú nhóc ra đời ở nước Anh thì có một đứa được đặt tên là William”.

“Còn có nguyên nhân địa lí nữa” tôi nói. “Derby sinh ra ở vùng đất phù hợp với ngữ điệu của các vở kịch; Oxford thì không. Derby cũng dễ mến hơn Oxford. Có vẻ như ông ta chưa bao giờ chỉ tay gọi bạn bè mình là những kẻ phản bội, ít nhất là vậy. Hơn nữa, cuộc đời của ông ta diễn ra vài đúng thời điểm. Không giống như Oxford, ông ta vẫn còn sống trong suốt thời gian các vở kịch được sáng tác”.

“Nếu Derby hoàn hảo đến vậy, tại sao lại coi ông ta là ứng cử viên ngoài lề?” Ben hỏi.

Một lần nữa, tôi đã giở tới trang cuối cùng cuốn Tuyển tập mà không tìm thấy gì. Tôi tuyệt vọng gập nó lại. “Ông ta có mọi thứ ủng hộ mình trừ một điểm quan trọng hơn cả: một mối liên hệ rõ ràng với Shakespeare”.

“Cho tới giờ” Ben nói.

Tôi nhìn lại biểu tượng của Derby gồm con đại bàng và đứa trẻ đóng trên bìa cuốn sách. Đó là một mối liên hệ, được rồi. Hoàn toàn hiển nhiên. Nhưng về cái gì?

Chiếc máy photocopy báo hiệu đã sẵn sàng. Tôi thở dài đặt úp cuốn sách lên tấm kính và bấm nút.

Ánh đèn của chiếc máy quét dọc theo trang sách khi cánh cửa ra vào bật mở và cha hiệu trưởng quay trở lại. Đóng cửa, ông đứng khoanh tay trước ngực giống như một thầy tu võ sĩ thời Trung cổ, quen thuộc với thanh kiếm không kém gì cây thánh giá. Liếc nhìn bằng khóe mắt, tôi trông thấy Ben đang đi tới cửa.

“Các vị đã không hoàn toàn trung thực với tôi” ông lên tiếng, đặt một tay lên cuốn sách. “Tổng giám mục vừa báo cho tôi biết có một kẻ nào đó đang đốt những bản Tuyển tập ở khắp nơi tại hai lục địa” ông nói tiếp. “Và giết người để tiếp cận những cuốn sách đó”.

Tôi miễn cưỡng trả lại cuốn sách. “Có kẻ nào đó đang đốt và giết” tôi khẽ nói, “nhưng không phải chúng tôi”.

Mắt ông nhìn vào chiếc máy photocopy. “Không, cô chỉ đang copy mà không xin phép thôi. Hành động này có thể coi là ăn cắp. Cô muốn tìm cái gì?”

“Shakespeare” tôi trả lời. Điều này hoàn toàn đúng.

“Trong cuốn sách này?”

“Thông qua nó” Henry nói.

“Vậy các vị đã giải mã được hình vẽ bí ẩn đó chưa?”

Tôi ngước nhìn lên. Ben cũng dừng lại gần cửa. “Hình vẽ nào vậy?” tôi hỏi. Tôi đã bỏ qua thứ gì sao?

Cha Armstrong nhìn chúng tôi một lượt. “Nếu tôi chỉ cho các vị” ông nói với vẻ khó chịu, “các vị phải cung cấp cho tôi tất cả những gì các vị có thể sẽ biết được về cha Shelton”. Tôi chợt hiểu ra ông ta không đòi hỏi; ông ta đang đặt giá.

“Nếu tôi hiểu được thứ tôi sắp nhìn thấy” tôi gằn giọng trả lời.

Ông ta nhìn tôi một hồi; tôi có thể cảm thấy ông ta đang cân nhắc giữa sự nghi ngờ và tò mò. Gật đầu cộc lốc không nói không rằng, ông quay lại chiếc bàn, đặt cuốn sách xuống và mở nó ra. Ông ta bóc lớp bên trong của bìa trước ra, và tôi nhận ra ở một số nơi, một lớp bảo vể đã được dán đè lên bản gốc.

Trên trang giấy bên dưới có một hình vẽ màu mực đã phai ngả sang nâu. Một con vật kì quái với cái cổ dài và đầu của một con thiên nga, đôi cánh dang rộng của một con đại bàng tạo thành hình đầu lợn rừng, hai chân và đôi cánh của một con đại bàng. Móng vuốt của một chân quắp lấy đứa bé đựng trong chiếc giỏ; chân kia giữ một cây thương.

Tôi nặng nề ngồi phịch xuống.

“Quái vật chimera” Henry kinh ngạc nói.

“Đại bàng, thiên nga, lợn rừng, lợn thịt” Ben nói. “Bá tước Derby - Will, phu nhân Pembroke, con thiên nga ngọt ngào nhất. Bá tước Oxford, con lợn rừng, và Francis Bacon, con lợn thịt”.

“Còn nữa” tôi khẽ nói, chỉ tay vào hai chân con vật. “Hình bên phải, với đứa trẻ - anh đã đúng, đó là con đại bàng của Derby. Nhưng chân bên kia, với một cây thương - tôi nghĩ nguyên bản đó là một con chim ưng”.

“Biểu tượng của Shakespeare” Henry nói. “Chim ưng với cây thương”.

Cô Bacon đã đúng . Đúng hết lần này tới lần khác … Như thể có ai đó đang xoay một chiếc kính vạn hoa, những mảnh rời rạc của thứ mà tôi nghĩ tôi đã biết bắt đầu tách ra và di chuyển; bức tranh bắt đầu hiện ra không phải là kết quả tôi dám chắc mình muốn nhìn thấy. “Tất cả đều ở trong đó” tôi chậm chạp nói

“Trong cái gì?” cha hiệu trưởng hỏi.

“Việc tạo ra cuốn sách này” Henry nói.

Tôi lắc đầu. Will đã viết gì nhỉ? “ Như những tòa lâu đài trên mây - những trò chơi và những chuyện vặt vãnh - mà con quái vật chimera của chúng ta đã xây dựng nên không thể nào hòa tan hoàn toàn vào bóng tối của những đêm tàn phá ”. Có phải họ đã cùng nhau đặt hàng những vở kịch, rồi sau đó xuất bản chúng? Hay họ đã làm gì hơn thế?

Dưới hình vẽ con quái vật, ai đó đã viết mấy dòng trích từ một bài sonnet với nét chữ rất tinh tế. Henry đọc những câu thơ lên:

Tên tôi được chôn vùi cùng thân thể.

Và không còn lưu lại nữa để làm ban hay tôi xấu hổ.

Vì tôi hổ thẹn về những gì chính mình mang tới

Và bạn hẳn cũng cảm thấy vậy, khi yêu những thứ chẳng đáng gì .

Bàn tay viết những câu thơ này cũng chính là bàn tay đã viết lá thư gửi con Thiên nga Ngọt ngào nhất và kí tên “Will”.

Ở phía dưới trang giấy, một câu khác được viết nguệch ngoạc bằng nét chữ ít trau chuốt hơn: Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ .

“Julius Caesar” Ben nói.

“Không” tôi nóng nảy nói. “Ophelia, Ophelia của Jem” tôi giải thích cho những khuôn mặt đầy bối rối phía trước mình. “Không phải câu nói của Hamlet. Bà ta đã trích dẫn đúng câu này trong bức thư gửi bà Folger”. Giáo sư Child, bà viết như vậy, đã cảnh cáo bà ta không được giữ im lặng. Và bà ta đã giữ lời hứa bằng cách đảo ngược câu nói trên. Bà đã viết thế nào nhỉ” Tôi viết cho bà… rằng những điều tốt đẹp chúng ta làm sẽ còn sống mãi, trong khi những điều xấu xa sẽ bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của chúng ta .

Về việc Shakespeare chỉ vào sự thật, Ophelia Granville đã nói đúng nghĩa đen, theo cách ẩn dụ như những phù thủy trong vở Macbeth. Thế nếu bà cũng nói theo nghĩa đen về việc chôn sâu thì sao? Bà đã chôn sâu thứ gì cùng nắm xương tàn của bà?

Tôi chợt hiểu ra. Không phải cùng nắm xương tàn của bà.

Cô Bacon đã đúng. Đúng hết lần này tới lần khác . Có nghĩa là hai lần đúng. Không chỉ một. Đầu tiên và trước hết, Delia Bacon đã tin rằng các tác phẩm của Shakespeare do Francis Bacon sáng tác khi ông đứng đầu một hội kín. Nhưng bà cũng tin rằng sự thật về danh tính tác giả đã bị chôn sâu dưới huyệt mộ của Shakespeare.

Tôi chỉ vào bài sonnet được viết trong cuốn sách của Derby: Tên tôi được chôn vùi cùng thân thể . “Delia Bacon tin như vậy” tôi nói. “Bà đã cố chứng minh điều đó”.

“Đã cố gắng?” Henry, lúc đó đang giải thích câu chuyện cho cha hiệu trưởng, dừng phắt lại. “Ý cô là gì cơ?”

“Bà đã được cho phép khai quật ngôi mộ tại nhà thờ Trinity ở Stratford. Bà đã thức trắng đêm ở một mình trong nhà thờ, với ý định mở ngôi mộ ra, nhưng cuối cùng bà không làm được. Ít nhất, đó là những gì bà đã viết cho người bạn ở Nathaniel Hawthorne”.

Nhưng từ lúc đó, Delia bắt đầu chìm sâu rất nhanh vào sự điên rồ. Nếu bà đã mở ngôi mộ ra thì sao? Và tìm thấy điều gì đó? Chuyện gì đã xảy ra với thứ bà khám phá được?

Có lẽ bí mật đã ra đi cùng bà, khóc than và lảm nhảm, tới một trại điên ở rừng Arden, nói có một cô gái trẻ tên là Ophelia đang sống. Con gái người bác sĩ điều trị cho Delia.

Ophelia còn nói gì nữa nhỉ? Tôi lục lại trí nhớ của mình. Rằng bà và Jem đã phạm tội chống lại cả Chúa trời và con người, nhưng bà đã trả lại tất cả những gì tôi có thể về đúng chỗ của chúng .

Tôi tránh không nhìn vào mắt Ben và Henry. Ngôi mộ của Shakespeare là điều mà cả ba chúng tôi đang nghĩ tới. Stratford. Nhưng không ai dám nói thành lời.

“Chúng tôi phải đi” Henry nói.

“Tôi nghĩ đó là tất cả những điều tôi muốn biết vào lúc này” cha hiệu trưởng nói, đột ngột trở nên nghiêm nghị. Ông cầm cuốn sách lên, và tôi cũng đứng lên theo, sợ rằng ông sẽ mang nó đi, và không ai trong chúng tôi còn có cơ hội nhìn lại nó. Thật ngạc nhiên, ông mang cuốn sách tới máy photocopy và copy lại hình vẽ con quái vật. Cầm bản copy vẫn còn nóng cùng với bản copy bìa sách tôi đã làm trước đó, ông đưa cả hai cho tôi.

“Cảm ơn cha” tôi ngỡ ngàng nói.

“Nếu cô tìm thấy dấu vết nào của người tu sĩ, hãy báo cho tôi biết”.

Tôi gật đầu. Chúng tôi đã mặc cả; tôi phải giữ lời.

“Bây giờ” cha hiệu trưởng nói nhanh. “Tôi đồng ý với Henry. Các vị nên rời khỏi đây”. Ông dẫn chúng tôi đi nhanh ra cửa trước, chiếc áo chùng đen có đai đỏ quệt nhẹ vào tường. “Cầu Chúa giúp các vị có những chuyến đi an toàn và những ngày bình yên” ông nói trong khi chúng tôi bước ra ngoài dưới bầu trời Tây Ban Nha nắng chói chang và vẫy taxi. Tôi thoáng nhìn thấy ông lần cuối trên ngưỡng cửa, giữ cuốn sách trước ngực như thể một chiếc khiên, rồi chúng tôi lao nhanh leo ngược lên ngọn đồi hướng ra sân bay.

Tôi nhìn chăm chú vào những bản copy đang cầm trong tay. Tên tôi được chôn vùi cùng thân thể .

Không ai nói gì. Chúng tôi đều biết chúng tôi sắp đi đâu và tại sao. Có vẻ như chuyến đi sẽ chẳng an toàn mà cũng không thể bình yên.