← Quay lại trang sách

Chương 36

“Có cuốn Tuyển tập nào ở Stratford không?” Ben hỏi trong khi chiếc máy bay rời đường băng quay trở lại Anh.

“Không phải là bản gốc. Strarford có ý nghĩa với những ngôi nhà hơn là những cuốn sách. Tuy vậy ít nhất ở đó cũng có một bản sao rất đẹp của Tuyển tập ”.

“Ở đâu?”

“New Place - ngôi nhà Shakespeare mua cho mình sau khi đã nổi tiếng. Hoặc là tại Nash’s House, ở ngay bên phải, đại loại như vậy. New Place là ngôi nhà tốt thứ nhì trong thành phố khi Shakespeare mua lại, nhưng đã bị đổ nát từ lâu. Bây giờ ở đó là một khu vườn. Nash’s House, ở ngay bên cạnh, là ngôi nhà của cháu gái ông. Tại đó triển lãm các bản in tác phẩm của Shakespeare, với một phần quan trọng dành cho Tuyển tập Đầu tiên ”.

Ben văng tục. “Vậy thì an ninh tại đó sẽ rất chặt. Và chắc chắn tại nơi Shakespeare ra đời cũng vậy. Sinclair sẽ không bỏ qua điều gì”.

“Quan trọng là nhà thờ” Henry nói. “Đã không có nhân viên an ninh nào ở Westminster Abbey”.

“Tôi không thể coi đó là Stratford” Ben nói. “Nhất là sau những gì xảy ra ở tòa dinh thự Wilton”.

Gã khốn kiếp đã đốt cháy một di sản quốc gia vào đúng phiên trực của tôi , Sinclair đã nói vậy. Tôi muốn tóm hắn . Từ những gì tôi biết về thám tử chánh thanh tra Sinclair, ông ta sẽ không dừng lại chừng nào chưa tóm được con mồi - một điều rất tốt, nếu như ông ta đã không đánh đồng kẻ sát nhân với tôi.

Không phải vì hắn ở quá xa. Tôi thầm nghĩ với cảm giác cay đắng, nhớ tới bà Quigley nằm chết trong tay Ben. Liệu tên sát nhân có tìm đường tới bà ta - hay tới Maxine và tiến sĩ Sanderson - hay không nếu tôi không dẫn hắn tới đó? Đây không phải lỗi của cô . Ben đã nói vậy. Nhìn bóng chiếc máy bay lướt trên mặt đất, tôi cố vật lộn với bản thân để tin vào điều đó.

Phía bắc dãy Pyrenees, mây bắt đầu cụm lại giống như những bộ lông cừu trôi bồng bềnh theo gió. Qua eo biển, chúng đã biến thành một tấm thảm dày xám ngắt. Máy bay của chúng tôi chìm vào trong đó, những tia nước mưa đập vào cửa sổ. Trời mưa như trút nước khi chúng tôi hạ cánh xuống London. Barnes chờ chúng tôi ở cửa ra, và không bao lâu sau chúng tôi đã trên đường đi về phía tây dưới cơn mưa, tới Stratford.

Đã lâu tôi không tới đây. Tất cả những gì tôi còn nhớ là những ngôi nhà có đầu hồi được làm một nửa bằng ván gỗ nằm ngả vào nhau và nhô ra những đường phố đông đúc. Và giọng nói của Roz.

Thành phố đã từng thịnh vượng vào thời Trung cổ và Phục hưng, nhưng sau đó lụi dần thành một nơi nghèo nàn, bình lặng. Khi nhà tổ chức nhanh mồm nhanh miệng của đủ trò lừa bịp P. T, Barnum tỏ ý muốn mua lại ngôi nhà nơi Shakespeare ra đời và chở tới New York bằng đường biển, người Anh đã kinh hoàng bừng tỉnh quyết bảo vệ di sản của họ. Một di sản không tồi cho một người như Barnum, tôi thầm nghĩ.

Roz đã không đồng ý. Bà ghét nơi đó còn hơn cả nhà hát Quả cầu. Ít nhất, bà nhận xét một cách cay độc, nhà hát Quả cầu còn không tự nhận rằng Shakespeare đã từng biểu diễn trên cái sân khấu mới được xây dựng lại của mình. Ngôi nhà nơi Shakespeare ra đời, bà tiếp tục bình phẩm, cũng bịp bợm như vậy, nhưng đạo đức giả và đáng nguyền rủa hơn nhiều. Cũng chẳng kém cạnh gì so với gánh xiếc ruồi hay xác ướp nàng tiên cá của Barnum. Chẳng có một chút bằng chứng nào dù bằng cái móng tay chứng minh rằng Shakespeare đã từng đặt chân vào cái ngôi nhà vẫn được hàng triệu người tôn thờ là nơi ông sinh ra đời - một ngôi nhà thực ra phần lớn được xây dựng vào thế kỉ mười chín. Thế nhưng các vị hướng dẫn viên vẫn chỉ cho những kẻ dễ bị lừa phỉnh thấy chiếc giường được coi là nơi Shakespeare đã cất tiếng khóc chào đời. Còn ngôi nhà nơi chắc chắn ông đã từng sống - New Place, ngôi nhà tốt thứ nhì Stratford - giờ chỉ còn là một cái hố trên mặt đất.

“Một khu vườn” tôi đã phản đối “không phải một cái hố”.

“Một khu vườn nơi đã từng là đáy tầng hầm ngôi nhà của ông” Roz đáp trả. “Những cây đậu tía đang mọc lên từ bể chứa phân của ngôi nhà. Hoa hồng nở trên những bãi phân của ông”.

Ông đã ra đời đâu đó tại Stratford, tôi có thể suy luận, và gần như chắc chắn ở phố Henley, nơi những tư liệu còn lại cho biết cha ông sở hữu một vài ngôi nhà, mặc dù tôi đành phải thừa nhận chúng ta không biết rõ là những ngôi nhà nào. Nhưng tất nhiên tôn thờ một ngôi nhà cụ thể sẽ dễ dàng hơn nhiều đứng giữa một con phố và rải sự ngưỡng mộ của bạn suốt dọc một khoảng không gian mà bạn cũng không rõ giới hạn.

“Tôn giáo” Roz đã từng nhận xét khá thô bạo. “Ma túy của đám đông”.

“Một loại ma túy” tôi nhận xét, “đang trả lương cho bà”.

“Nếu cô phải tôn thờ” bà nói, “hãy tôn thờ những từ Shakespeare viết ra. Nếu cô phải chọn một nhà thờ, hãy tới nhà hát”.

Ở đây, ít nhất tôi cũng đã làm theo lời bà.

“Hãy thử nghĩ về điều đó xem” bà kết thúc một cách thoải mái, “nếu nói đến hiện tại, nhà thờ là một tòa nhà đích thức thời Shakespeare còn lại trong thành phố. Và ông vẫn nào ở đó, nhờ ơn Chúa”.

Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ . Ophelia đã cố gắng lật ngược nó. Có đúng vậy không?

Chúng tôi sẽ tìm ra.

Trong xe rất yên ắng trừ tiếng bánh xe lăn trên con đường trơn ướt sũng nước mưa và tiếng cần gạt nước khẽ đều đặn chuyển động. Thành phố đột ngột hiện ra sau những cánh đồng xanh ngắt và những quả đồi. Đi vòng quanh những con phố uốn lượn vòng vèo, chúng tôi băng qua cây cầu bắc trên sông Avon và rẽ xuống Hight Street.

Chúng tôi dừng lại ở nơi dừng chân ưa thích của Henry, khách sạn Shakespeare, cách nhà thờ không xa. Một tòa nhà dài còn lại từ thời Tudor với những mảng vữa thạch cao trắng và những tấm ván gỗ sẫm màu, với đầu hồi dốc và hơi nghiêng theo thời gian, nhưng nó vẫn rất duyên dáng. Bên trong, nội thất của khách sạn cực kì sang trọng. Henry thuê một dãy phòng và yêu cầu mang bữa tối lên phòng. Sau đó chúng tôi vòng ra phía sau, và tôi kín đáo tuồn vào trong khách sạn.

Sau khi tôi đã được an toàn đưa vào phòng, Ben đi ra ngoài xem xét tình hình an ninh tại nhà thờ. Trong khi Henry nằm ngủ gà gật trên một chiếc ghế tựa có lưng dựa thoai thoải, tôi ngồi trên một trong những chiếc giường, nhìn chằm chằm vào những tờ copy từ cuốn Tuyển tập tại Valladolid.

Biểu tượng của Derby ở lớp bìa phía trong cho thấy William Stanley đã sở hữu cuốn Tuyển tập - chứ không phải ông ta đang sáng tác ra nó. Ngay cả câu trích dẫn Shakespeare bên trong cũng không phải là bằng chứng cho điều này. Nhân vật “tôi” của bất kì bài sonnet nào chỉ là một đầu mối rất lỏng lẻo - một tấm mặt nạ mà bất cứ ai cũng có thể đeo. Điều có thể rút ra từ câu trích dẫn là Derby biết một trong những bài sonnet của Shakespeare, bên cạnh một mẫu nhỏ của vở Julius Caesar .

Điều đó không khiến ông ta trở thành Shakespeare.

Nhưng nó là một đầu mối. Mảnh mai như một sợi tơ trong mạng nhện, nhưng cũng vững chắc như vậy.

Con quái vật chimera lại là một câu chuyện khác.

Đại bàng, thiên nga, lợn rừng, lợn thịt, chim ưng quắp một cây thương: Đặt bên cạnh lá thư của Will gửi con Thiên nga Ngọt ngào nhất, hình vẽ trong cuốn Tuyển tập gợi ý rằng tất cả bọn họ đều tham dự vào sự tạo thành Shakespeare. Nhưng như thế nào?

Nhưng có thể còn đi xa hơn. Có thể lúc này lúc khác, một trong số họ đưa ra một cốt truyện, hay cho mượn một cuốn sách - Hãy xem qua câu chuyện này một lần, tôi nghĩ ông sẽ thích nó . Để đổi lại, có thể họ nhận được cơ hội đánh giá sớm hơn cácsáng tác của ông, được đề nghị một hai câu thoại, hay một cái tên. Có thể mỗi người trong số họ đều có một vài dự án ưa thích - Bacon và Những người vợ vui vẻ , phu nhân Pembroke và Antony , Oxford và Hamlet , Derby và Cơn bão táp . Và ở thái cực đối diện của các khả năng - liệu có phải các thành viên hiện diện trong hình quái vật đã tự sáng tác tất cả, phối hợp hay riêng rẽ, và chỉ sử dụng William Shakespeare như một sứ giả và một chiếc mặt nạ?

Cửa phòng hé mở và Ben bước vào, ướt sũng mưa, mang theo một chiếc túi thể thao có vẻ như đựng thứ gì đó nặng hơn những đôi giàu tập chạy bộ. “Trong thành phố đầy ắp cảnh sát. Lại là Sinclair, không nghi ngờ gì nữa. Nhưng họ phần lớn tập trung ở ngôi nhà nơi Shakespeare ra đời và Nash’s House, nơi những cuốn sách được trưng bày. New Place, ở ngay bên cạnh, có lẽ đã trang bị vũ khí cho những người làm vườn hoặc nhận được vài nhân viên cảnh sát chìm không được kín đáo cho lắm. Vẻ mặt tích cực, tất cả những gì cón lại cho nhà thờ là một đội tuần tra ngoại vi”.

Henry cúi người ra trước, đôi mắt chợt trở nên linh động. “Chúng ta vào trong bằng cách nào?”

“Chúng ta đàng hoàng yêu cầu người gác nhà thờ” Ben nói, “khi ông ta tuần đêm lúc mười một giờ để kiểm tra ánh sáng và cửa”. Anh ta khó chịu trước cái nhìn nghi ngờ của tôi. “Tôi sẽ đưa cô vào trong. Hãy lo nghĩ về những gì phải làm một khi chúng ta đã vào được bên trong”.

Một nhân viên phục vụ tới với chiếc khay đầy món ăn, và Henry cùng Ben bắt đầu thưởng thức ngon lành thịt bò nướng, đậu đỏ và bánh pudding Yorkshire. Tôi lắc đầu. Tôi không thể nuốt được gì. Tôi đến bên cửa sổ mở toang cánh ra, ngắm nhìn mọi người bước ra từ những khung cửa được thắp sáng và vội vàng chạy đi dưới cơn mưa. Đoàn người đổ dồn từ các quán ăn tới các nhà hát đã bắt đầu xuất phát.

Vào khoảng năm 1593, Shakespeare đã chứng kiến một sự nở rộ không chỉ về số lượng sáng tác, mà cả về giọng điệu, sự cuốn hút, và sự tinh vi. Trong vòng sáu hay bảy năm, mỗi năm ngòi bút của ông cho ra đời hai kiệt tác, đôi khi tới ba, trước khi ông giảm xuống còn một tác phẩm mỗi năm. Rất có thể, Richard II , Romeo và Juliet, Giấc mộng đêm hè , và Vua John đều được sáng tác trong vòng một năm rưỡi. Phần lớn tác giả sẵn sàng đổi tất cả để có được số lượng và chất lượng tác phẩm như vậy sau sáu thập kỉ, chứ không nói tới sáu năm.

Cách duy nhất để giải thích điều này là một sự nở rộ rực rỡ, không thể giải thích được của tài năng. Nhưng nếu có năm bộ óc đã nuôi dưỡng cho sự nở rộ đó, thay vì một, thì sao? Liệu có phải sự nở rộ đó đánh dấu việc hình thành một nhóm sáng tác nhỏ, đại diện bằng con quái vật ghép lại từ năm phần riêng biệt?

Trong số họ, Derby nhiều khả năng nhất là người đã “khám phá” ra William Shakespeare người Stratford. Liệu có phải con trai của một bá tước miền bắc và con trai của một người làm găng tay quê ở Stratford đã gặp nhau tại một buổi diễn tại Stratford, Coventry, hay Chester - hay thậm chí tại Knowsley Hall hay Lathom Park, những dinh thự ở miền bắc của các bá tước Derby? Nhà hát là một mảnh đất tự do nơi nhiều tầng lớp xã hội có thể hòa lẫn. Liệu có phải bằng cách nào đó mà hai William Shakespeare này đã gặp gỡ nhau? Đánh giá lẫn nhau, mỗi người đều thấy người kia thú vị, hay ít nhất có ích? Có phải Shakespeare đã rời Stratford tới London khi còn là một diễn viên trong đoàn kịch của bá tước Derby không?

Thật điên rồ. Tôi đang biến thành Delia. Cô Bacon đã tưởng tượng rằng Bacon chính là Shakespeare; cô Stanley cũng đang bắt đầu tưởng tượng Stanley ở vị trí của ông. Delia đã từng muốn mở ngôi mộ của Shakespeare; tôi dự định sẽ làm điều đó lần nữa vào ngay tối hôm nay.

Delia đã đúng. Đúng hết lần này tới lần khác .

Delia đã hóa điên.

Vơ vội lấy cuốn sách của Chambers, tôi lấy ra tất cả những bức thư đã kẹp vào đó. Những lá thư rơi ra như cánh của những con ngài đã chết, rơi thành một tập trên tấm thảm trải sàn. Tôi quỳ xuống sắp xếp chúng, hầu như không để ý thấy Ben và Henry ngồi bên bàn đang há hốc mồm nhìn chằm chằm vào tôi.

Tôi có chứng cứ, chết tiệt thật. Chiếc thẻ tra cứu của Roz. Lá thư của Jeremy Granville gửi cho giáo sư Child, lá thư của Ophelia gửi Jem. Rồi lá thư viết sau đó rất lâu của bà ta gửi cho Emily Folger. Bức thư nữ bá tước Pembroke gửi con trai - Chúng ta đang có Shakespeare tại đây . Thư của Will gửi con Thiên nga Ngọt ngào nhất. Hình vẽ trong cuốn Tuyển tập . Và cuối cùng, cũng đẹp nhất, là bức chân dung nhỏ của người đàn ông trẻ tuổi với hậu cảnh là những ngọn lửa giấu trong chiếc trâm của Ophelia.

Chúng tôi đã biết những gì? Thực sự biết gì?

Shakespeare đã viết một vở kịch dựa trên câu chuyện về Cadenio trong tiểu thuyết Don Quixote của Cervantes - và vở kịch có vẻ đề cập tới một câu chuyện khủng khiếp trong lịch sử gia đình Howard. Nhà hát Quả cầu bị cháy và vở kịch biến mất.

Nhiều năm sau, Will - rất có thể là Derby - viết thư cho “con Thiên nga Ngọt ngào nhất” - có lẽ là nữ bá tước Pembroke - dể nói rằng ông ta không e ngại gì việc xuất bản một cuốn Tuyển tập , chừng nào Cardenio được để ra ngoài - và ông ta sẽ giải thích tất cả cho một ai đó đang ở Học viện Hoàng gia St. Alban, ở Valladolid. Cho dù Derby còn gửi thứ gì khác tới Tây Ban Nha hay không, chắc chắn ông ta đã gửi một bản Tuyển tập Đầu tiên của Shakespeare in rất đẹp, được đóng hình biểu tượng của ông, cho một cha William Shelton nào đó - em trai người đã dịch tác phẩm của Cervantes sang tiếng Anh, hoặc cũng có thể chính là dịch giả.

Để cuốn sách lại thư viện của học viện, cha Shelton tới Tân Tây Ban Nha và chết trong vùng của người Indian, đâu đó tay nam Santa Fe, nhưng không ai biết rõ ở đâu.

Trừ khi Granville đã tìm thấy ông ta.

Làm thế nào Jem biết mình cần tìm kiếm ở đâu?

Ông ta có một mối quan hệ với Ophelia Fayrer, người phụ nữ này lại có liên hệ với Delia Bacon, người tin rằng ngôi mộ của Shakepeare nắm giữ bí mật về thi sĩ.

Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ .

Ophelia tin rằng bà và Jem đã phạm tội chống lại cả Chúa trời và con người, bà đã cố làm tất cả để chuộc tội bằng cách trả lại mọi thứ về đúng chỗ của chúng.

Tên tôi được chôn vùi cùng thân thể , Derby đã viết câu này.

Đó là điều mà Delia từng tin về ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Stratford: rằng ngôi mộ đó chứa đựng thân thế thực sự của thiên tài mà bà tôn thờ một cách ám ảnh như vậy.

Đi theo chân một người phụ nữ điên liệu có phải là việc làm điên rồ không?