← Quay lại trang sách

Chương 37

Màn đêm buông xuống một cách chậm chạp đến mức làm người ta phát điên. Cơn mưa ngớt dần thành một làn sương mờ. Vào lúc mười giờ, bầu trời màu xanh cô ban đã sẫm lại thành màu đen của mực pha loãng. Đến mười giờ rưỡi, tôi nhờ Barnes giữ hộ bản sao Tuyển tập cũng như tập sách Sân khấu thời Elizabeth của Chambers cùng những bức thư chúng tôi đã tìm thấy, rồi Ben, Henry và tôi rời xe đi bộ. Henry đi riêng một đường. Ben mang theo chiếc túi thể thao đi sau tôi chừng mười bước chân.

Ánh đèn pha ô tô lấp loáng trong đêm mưa. Mọi người vội vã chạy từ các bậc cửa tới những chiếc xe đang đợi sẵn. Đi qua hai tòa nhà, chúng tôi ngửi thấy mùi hoa đậu tía tràn ngập khu vườn ở góc phố nơi đã từng có ngôi nhà của Shakespeare, ngôi nhà tốt thứ nhì thành phố. Hai vai co rụt lại bởi hơi lạnh sau cơn mưa, tôi rẽ trái đi xuống Chapel Lane, thường hoàn toàn vắng tanh vào giờ này. Nếu những người gác vườn được vũ trang vẫn còn đó, thì tôi đã không trông thấy họ, và có lẽ họ cũng không quan tâm tới một cậu thanh niên tóc sẫm đi một mình.

Tới cuối phố, chúng tôi tới Swan - cổng ra theo phong cách Victoria của nhà hát Hoàng gia Shakespeare, nơi vài khán giả vẫn đang nán lại sau buổi diễn, có lẽ hi vọng được nhìn thấy các diễn viên. Rẽ sang phải, Ben bắt kịp tôi và chúng tôi đi theo con đường chạy sát dòng sông đang lững lờ trôi, tiếng bước chân của chúng tôi âm vang trong đêm vắng. Đi qua quán Dirty Duck bên tay phải, bậc thềm quán bẩn thỉu vắng ngắt trong một đêm ẩm ướt, còn các chủ nhân đã tụ tập cả vào quầy bar bên trong, chúng tôi đi qua chiếc phà kép bằng dây cáp và bờ kè nơi đậu thuyền cho thuê bên tay trái, rồi đi qua công viên nằm giữa phố và con sông.

Những đám mây âm u trên bầu trời đã che khuất mặt trăng. Vòng qua một khúc quanh, chúng tôi nhìn thấy nghĩa địa nhà thờ ở ngay phía trước, và Ben dừng bước. Từ phía công viên bên trái chúng tôi, Henry xuất hiện từ trong bóng đêm. Ra hiệu cho chúng tôi ở yên đó, Ben đi lên trước, dừng lại trước một bảng thông báo, như thể anh ta đang đọc thời gian biểu phục vụ. Một lát sau, anh ta vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi tiến lên.

Phía trong cổng, một con đường lát đá phiến, hai bên là hai hàng cây chanh đã bị cắt cụt không thương tiếc, dẫn tới nhà thờ lúc này đang lờ mờ hiện lên trong màn đêm phía trước mặt. Những ngọn đèn đêm có vẻ như đang nổi bồng bềnh trong màn sương, hắt xuống con đường thứ ánh sáng ma quái. Hai bên đường, bóng tối đã phủ xuống dày đặc. Tôi chỉ có thể nhìn thấy những tấm bia mộ nhô lên nghiêng ngả giữa những đám cỏ mọc cao.

Chúng tôi tránh khỏi vùng ánh sáng, nấp đằng sau hai tấm bia mộ cao. Tôi nghe thấy tiếng bước chân trên con đường đá, rồi một tiếng huýt sáo, tiếp theo là tiếng huýt sáo lần hai, rồi tiếng bước chân nhẹ hơn trên cỏ.

“Chào buổi tối, George” một giọng đàn ông vang lên.

“Mưa đã ngừng sớm hơn, đúng không nào?” George đáp lại vui vẻ, đi theo con đường được chiếu sáng ra phía nhà thờ. Có vẻ là người gác nhà thờ.

Người cảnh sát gác đêm tiếp tục đi qua những ngôi mộ về phía chúng tôi, khuôn mặt anh ta chập chờn trong ánh sáng như ma trơi. Đúng lúc anh ta đi qua bên cạnh, Ben im lặng tiến lại sau lưng, lấy một cánh tay chẹn lấy cổ anh ta, lôi người gác đêm vào sau một tấm bia mộ.

Nghẹt thở, đôi mắt vừa có vẻ hoảng sợ vừa tức giận, người gác đêm vùng vẫy quyết liệt. Ben cúi xuống, siết chặt cánh tay, và người đàn ông nằm yên lặng.

Đặt anh ta xuống, Ben liếc nhìn về phía nhà thờ. Tại cửa vào, người gác nhà thờ đã quay lại, một chùm chìa khóa nặng kêu lanh canh trong tay. Ông ta đứng ở đó một lúc, nghiêng đầu lắng nghe. Rồi lắc đầu quay lại phía cánh cửa.

“Trói anh ta lại.” Ben nói, và anh ta lao nhanh về phía nhà thờ, không thèm ngoái nhìn lại.

Phía trước, người gác nhà thờ đã mở cửa bước vào bên trong. Ben theo sau không một tiếng động. Không thể nhìn thấy thêm gì nữa. Mặt xám ngắt, Henry lôi một cuộn dây thừng từ trong chiếc túi thể thao ra và đưa cho tôi. Tôi cúi xuống viên cảnh sát. Trông anh ta như đã chết. Tôi đang dính vào chuyện gì thế này?

Bốn phút sau, Ben từ bên trong nhà thờ quay ra. Chúng tôi nửa khiêng nửa kéo người cảnh sát vào trong nhà thờ, và Ben đóng cửa lại. Cánh cửa đóng sập vào với một tiếng động nặng nề vang trong đêm như tiếng sấm từ xa vẳng lại. Ben bật đèn bấm lên. Cả người gác nhà thờ cũng đang nằm bất tỉnh dưới sàn nhà lát đá, bị trói gô lại và bịt miệng một cách rất chuyên nghiệp khiến tôi rùng mình. Chùm chìa khóa của ông ta nằm bên cạnh. Ngay gần đó, trên tường có một ngọn đèn xanh đang phát sáng liên tục; ông ta đã tắt hệ thống báo động trước khi bị Ben đánh ngất.

Trong khi tôi tìm chìa khóa dùng để khóa cửa ra vào, Ben siết chặt lại các mối dây tôi đã buộc để trói tay viên cảnh sát, rồi bịt miệng anh ta lại giống như người gác nhà thờ. “Bây giờ đến lượt cô” anh ta nói, đưa tôi chiếc đèn bấm. Quay khỏi phía hai người đàn ông nằm dài hai bên cửa, tôi đi vào trong giáo đường, Ben và Henry theo sau.

Ngoài vùng ánh sáng của chiếc đèn bấm, xung quanh đều tối đen hoàn toàn. Không thể nhìn thấy được điện thờ ở phía cuối nhà thờ; cả những vòm trần phía trên đầu chúng tôi cũng vậy. Cả không gian bên trong toát lên mùi lạnh lẽo của đá và cái chết. Giống như phần lớn các nhà thờ khác, tòa nhà này được thiết kế theo hình chữ thập, với thánh đường chính là trục dài. Chúng tôi đi qua chỗ hai nhánh chữ thập giao nhau, tháp chuông và mái vòm của nhà thờ vươn cao phía trên chúng tôi, qua những nhà nguyện mở sang bên trái hoặc bên phải, và cuối cùng đi vào trong thánh thất. Những hàng ghế cho dàn đồng ca trải dài ra cả hai phía.

Ben chĩa đèn bấm lên trên. Luồng sáng lướt nhanh qua những ô kính màu của cửa sổ phía đông. Phía dưới, bàn thờ Chúa thếp vàng sáng long lanh như một hình ảnh hồi tưởng về ngôi đền của vua Solomon. Nhưng đây không phải là mục tiêu của chúng tôi. Tôi hướng tay anh ta sang trái.

Trên bức tường phía bắc, bức tượng tưởng niệm Shakespeare nằm lơ lửng trên cao như một hồn ma hiện lên trong một buổi lên đồng, bàn tay bằng đá của bức tượng cầm chắc lấy cây bút giống một thư kí hơn là một thi sĩ, vầng trán nhẵn nhụi của ông mang nếp nhăn do tuổi tác nhiều hơn do lòng mộ đạo. Gần bốn thế kỉ qua, cái nhìn của ông đã giữ kín bí mật của mình. Ngôi mộ nằm ngay phía dưới, một tảng đá hình chữ nhật được lát mỗi bên lan can của ban thờ được trang trí, ngăn cách với bàn thờ Chúa.

Chúng tôi trèo qua lan can, đứng quanh tảng đá. Phía trên tảng đá có khắc vài dòng chữ. Henry đọc lên thành tiếng, giọng nói của ông vọng lại quanh vòm trần:

Những người bạn tốt hãy vì Chúa mà dừng

Quấy rầy cát bụi yên nghỉ nơi đây

Sẽ được ban phước lành những ai để yên phiến đá này

Đáng nguyền rủa thay những kẻ động đến di cốt ta.

Không được cùng một đẳng cấp với Romeo và Juliet hay Hamlet . Nhưng vẫn là những dòng thơ mạnh mẽ, khó giải thích về cách gieo vần, hay cách diễn tả lời nguyền. Một lời ban phước, mãi mãi gắn liền cùng một lời nguyền rủa.

Có thật đây là một lời nguyền không? Ophelia đã nghĩ như vậy. Bà ta đã viết gì nhỉ? Chúng tôi đã phạm tội với cả Chúa trời và con người . Trong nhà thờ tối đen, tôi chợt rùng mình ớn lạnh.

Chúng tôi cởi áo mưa ra trải quanh phiến đá đậy mộ; từ trong chiếc túi thể thao, Ben lấy ra đục và xà beng, rồi chúng tôi thận trọng bắt tay làm việc. Chúng tôi phải cậy phiến đá lên và nhấc qua một bên mà không được làm vỡ.

Suốt một hồi tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng kim loại khẽ va chạm vào đá và tiếng thở của chúng tôi. Tôi ngồi xuống nghỉ tay một lát. Ở đâu đó phía sau, một tiếng động nhỏ phá vỡ sự yên tĩnh và tôi sững người. Như thể những đôi mắt tạc vào đá của những vị thánh và ác quỷ xung quanh chúng tôi đã sống dậy, tôi chắc chắn chúng tôi đang bị theo dõi.

Tôi từ từ đứng dậy quay lại. Bóng đêm vẫn dày đặc như cũ.

Một quầng sáng chói mắt chiếu vào mặt tôi. Sinclair, tôi hoảng hốt chợt nghĩ.

“Katharine!” một giọng nói vang lên. Không phải Sinclair. Không phải cảnh sát. Athenaide. “Tránh khỏi ngôi mộ!” bà ta nói.

Tôi chần chừ.

“Làm vậy đi.” Ben khẽ nói.

Tôi bước sang một bên, tránh khỏi luồng sáng, và hiểu ra tại sao. Athenaide đứng phía trước những băng ghế của dàn đồng ca, đưa tay thẳng về phía tôi, và trong tay bà ta là một khẩu súng ngắn với nòng dài khác thường. Một khẩu súng có lắp giảm thanh.

“Xa hơn nữa”.

Tôi nhích ra xa hơn.

“Cô ấy không có thứ bà muốn.” Henry nói.

“Tôi muốn Katharine.” Athenaide nói.

“Không!” Ben vừa nói vừa bước lên phía trước.

“Nhúc nhích là tôi bắn liền, ông Pearl”.

Anh ta đứng im.

“Bà muốn gì ở tôi?” tôi lấy hết bình tĩnh hỏi.

“Muốn cứu cô khỏi tay hai tên sát nhân”.

“Cái gì?”

“Nghĩ xem, Kate” một giọng khác vang lên từ phía những băng ghế kê giáp bức tường phía bắc. Matthew. “Ai đã có mặt ở đó, mỗi khi có người bị giết? Ai đã ở văn khố Preston cùng với cô?”

“Tôi.” Ben nói.

“Đúng thế.” Matthew nói, giọng nói bình thản của ông ta đầy căm ghét. “Anh đã ở đó”.

Thám tử chánh thanh tra Sinclair cũng đã nói như vậy, và tôi đã phủ nhận mà không cần suy nghĩ gì. Lần này cũng vậy. “Không”.

Matthew tiếp tục. “Anh ta đã ở đâu, Kate, khi tiến sĩ Sanderson bị giết? Chuyện anh ta để cô lại một mình trong thư viện thật tiện lợi phải không nào?”

“Tôi cũng bị tấn công tối hôm đó” tôi đanh giọng trả lời. “Ben đã cứu sống tôi”.

“Có thật không? Hay chính anh ta tấn công cô, rồi sau đó quay trở lại ra vẻ cứu cô?”

Tôi hồi tưởng lại sự việc ở Capitol. Một mớ hỗn loạn - bị tấn công, đánh trả, bước chân chạy đi, chạy tới.

“Suy nghĩ đi, Kate.” Matthew lại nói. “Hãy nghĩ kĩ lại về mỗi vụ giết người, một cuộc tấn công”.

Tại Widener, kẻ tấn công tôi đã biến mất rồi ngay sau đó Ben xuất hiện. Liệu anh ta có phải là hắn không? Anh ta có thể đã vòng qua các giá sách, vứt bộ đồ đen đi và giấu vào giữa những cuốn sách. Có thể.

Thật ngớ ngẩn.

Ở Cedar, anh ta đã rời văn khố trước tôi để đi mua sandwich. Có phải anh ta đã lộn trở lại, giết Maxine ngay sau khi tôi rời khỏi đó? Cũng có thể. Chỉ vậy thôi. Ở Capitol, anh ta tìm thấy tôi trong bụi mộc lan đúng lúc khiến kẻ tấn công tôi phải bỏ đi. Chính anh ta đã cho rằng vụ tấn công đã được dàn cảnh. Nếu hắn thực sự muốn cô chết thì cô đã lạnh ngắt từ lâu lúc tôi tìm thấy cô , anh ta đã nói như vậy. Không lẽ cả việc giải cứu đó cũng là dàn cảnh để tôi tin anh ta?

Không. Anh ta đã cứu tôi.

Còn gì nữa? Dinh thự Wilton. Tại Wilton, anh ta luôn ở bên cạnh tôi. “Anh ấy không thể giết bà Quigley được,” tôi nói, cô gắng giữ bình tĩnh.

“Vậy thì tôi dám lấy linh hồn mình ra đánh cược” Athenaide nói, “là Henry có thể”.

Tôi cau mày. Henry đã biến mất cùng bà Quigley trong bao lâu? Mười? Mười lăm? Hai mươi phút? Đủ lâu để giết bà ta rồi quay lại căn phòng bên cạnh, tự rạch má mình và ngã xuống sàn nhà.

Hai kẻ sát nhân, Athenaide đã nói vậy. Có thật Ben và Hnery là đồng bọn không? Liệu có thể như vậy? Một lần nữa, tôi quay lại từ đầu và điểm qua lần lượt từng sự kiện. Mỗi lần, một trong hai người lại giúp tôi ra khỏi thế bí - cung cấp quần áo, phương tiện đi lại, tiền. Thậm chí cả hộ chiếu. Ben không chỉ bảo vệ tôi, anh ta đã vi phạm pháp luật của hai quốc gia trong khi làm điều đó.

Và nếu gộp cả hai người lại, họ hoàn toàn có thể đã giết tất cả những người xấu số kia.

“Tại sao?” tôi phản đối. “Tại sao lại giết những người khác? Tại sao lại để tôi sống?”

“Họ cần cô.” Athenaide nói.

Đó cũng chính là điều Ben đã nói về bà ta: rằng bà ta cần tôi để tìm ra vở kịch. Sau đó tôi sẽ bị thủ tiêu… Liệu có phải anh ta đã đem gán cho bà chính những động cơ hành động của mình?

“Nhưng có ai đó cố gắng ngăn cản việc tìm ra vở kịch, Athenaide. Tại sao Henry làm điều đó?”

“Ông ta không cố gắng ngăn cản việc này” bà ta nói. “Ông ta cố gắng kiểm soát nó. Tôi nghĩ rằng Henry cực kì thèm muốn có được vở kịch đó. Giả thiết của tôi là ông ta đầu tiên được nghe về nó qua Roz, và từ lúc đó ông ta đã mơ có được vai Quixote cho mình. Còn hồi kết nào tuyệt vời hơn cho một sự nghiệp sân khấu so với việc để lại dấu ấn của chính mình lên một nhân vật chính của cả Shakespeare lẫn Cervantes? Ông ta muốn vở kịch đó cho chính mình, và khi Roz không thể hứa hẹn sẽ chia sẻ, ông ta đã giết bà”.

“Đồ điếm dối trá!” Henry lắp bắp.

Athenaide không để ý đến ông, tiếp tục tập trung vào tôi. “Nhưng với cô thì ông ta cần sự giúp đỡ. Vậy là ông ta thuê anh ta. Như Ben đã nói với cô, anh ta đã được trả tiền. Có điều là bởi Henry chứ không phải Roz”.

“Anh ấy là cháu của Roz, Athenaide”.

Sau đó tất cả lim lặng trong khoảnh khắc.

“Thật đáng kinh ngạc” Matthew nói. “Đặc biệt vì Roz là con một”.

Tôi nhìn Ben, hi vọng một lời phản bác.

Một khối cơ nhỏ trên quai hàm anh ta khẽ chuyển động. “Tôi cần cô tin tôi”.

“Con người thật của Benjamin Pearl, Katharine” Athenaide nói, “là một sát thủ được huấn luyện kỹ càng. Một chiến binh, tôi có thể nói vậy, nếu anh ta xứng đáng với danh dự đi cùng từ này. Ít nhất anh ta cũng có vẻ bề ngoài của một người có danh dự. Anh ta từng được tặng Chữ thập Victoria - không phải một huân chương mà nữ hoàng ngày nào cũng tự tay trao tặng. Vì sự anh dũng trong một cuộc đột kích của SAS tại Sierra Leone đã giúp cứu sống tám mươi thường dân nhưng cũng làm mười hai quân nhân đặc nhiệm của Anh thiệt mạng. Tuy nhiên, từ đó đến nay đã có nhiều câu hỏi được đặt ra cho rằng rất có thể anh ta phải chịu trách nhiệm chủ yếu về những thiệt hại nhân mạng chứ không phải về những người được cứu. Có một lô kim cương đáng giá một gia tài nho nhỏ liên quan đến vụ đó. Đúng không ông Pearl?”

Khuôn mặt Henry trắng bệch đầy tức giận, nhưng Ben vẫn lạnh lùng, bình thản một cách tập trung. Tất cả những gì tôi đã biết về họ chợt quay cuồng rồi tái hiện ra trong một hình dạng khác hẳn. Bọn họ đã sát hại Roz, Maxine, tiến sĩ Sanderson, và một người phụ nữ tốt bụng ở Wilton có “tội ác” duy nhất là đã ra tận cửa đón tiếp họ. Và họ đã lợi dụng tôi như những thợ săn dùng chó săn, để đánh hơi con mồi cho họ.

Tôi nhìn thấy những gì sắp xảy ra chỉ một phần trăm giây trước khi diễn ra thực sự. Henry vừa gầm lên vừa lao vào Athenaide. Cùng lúc, Ben quăng chiếc đục trong tay mình vào Matthew, đánh văng khẩu súng ông ta đang cầm trên tay. sau đó anh ta lao về phía tôi, trong đôi mắt anh ta là cái nhìn lạnh lùng giận dữ.

Ở giữa gian thánh thất, chiếc đèn bấm của Athenaide rơi xuống sàn tắt phụt đi. Bóng tối bao trùm lấy chúng tôi, và tôi né người đi để tránh Ben.

“Chạy đi, Kate!” Matthew hét lên. Tôi đập mạnh chiếc đục của mình về hướng Ben. Anh ta kêu khẽ rồi ngã lăn xuống sàn. Lao qua người anh ta trong bóng tôi, tôi chạy trở vào thánh đường.

Phía sau, tôi nghe thấy tiếng vật lộn, rồi tiếng nổ khẽ của hai phát đạn bắn ra từ súng hãm thanh.

Rồi tất cả lặng im.

Ai đã bị bắn?

“Kate!” đó là giọng của Ben, vang vọng khắp nhà thờ.

Tôi lùi lại tựa người vào băng ghế của dàn đồng ca.

“Tìm cô ấy!” anh ta nói cụt ngủn.

Chẳng lẽ cả Athenaide và Matthew đều bị giết rồi? Một tiếng thét bắt đầu trào lên trong người tôi, tôi vội đưa tay bịt miệng để kìm lại.

“Cánh cửa duy nhất còn hoạt động là cửa chúng ta dùng để vào. Ở phía cuối thánh đường”. Henry nói, thở dốc một hồi.

Nếu họ tới cửa trước tôi, họ sẽ nhốt tôi lại bên trong.

Tôi khẽ nhón chân đi qua chỗ giao nhau của chữ thập thì cảm thấy có gì đó chuyển động ở phía bên ngách. Vậy là Matthew và Athenaide? Tôi rẽ sang bên ngách.

Athenaide đang đứng ngay đằng sau tấm bình phong bằng gỗ chạm trổ che phía trước nhà nguyện nằm ở phía nam của tâm chữ thập. Tôi lách người vào bên cạnh bà, bà nắm chặt lấy tay tôi trong lúc chúng tôi nằm dán người xuống đằng sau tấm bình phong. Nếu Ben và Henry tìm ra chúng tôi, họ sẽ dồn chúng tôi vào đường cùng. Nếu không, chúng tôi sẽ có cơ may trốn ở đây cho tới khi ánh sáng ban ngày đưa mọi người vào nhà thờ.

Chúng tôi nấp ở đó, cố gắng lắng nghe trong bóng tối. Matthew đang ở đâu? Đã chết, hay đang hấp hối nằm trên sàn? Tiếng bước chân nhẹ nhàng lén lút bước vào gian giữa của nhà thờ rồi đi qua trước nhà nguyện vào thánh đường.

Athenaide đứng vụt dậy, kéo tôi đứng lên theo. Nắm chặt lấy khuỷu tay tôi, bà kéo tôi ra ngoài gian giữa nhà thờ rồi quay trở lại thanh thất. Xem ra bà biết rõ mình đang đi đâu. Có thể có một khoảng trống đằng sau bàn thờ Chúa ở đâu đó phía trên. Đằng sau hay bên dưới. Tôi chợt nghĩ các nhà thờ thường có các khe trống ở nơi này - hay các cửa sập dẫn xuống hầm mộ.

Ở bên cạnh thánh thất, một chiếc đèn bấm bật sáng. Tiếng bước chân bắt đầu vang lên gấp gáp quay ngược trở lại thanh thất. Chúng tôi tăng tốc - nhưng thay vì hướng tới bàn thờ, Athnaide kéo tôi tới bức tường phía nam của nhà thờ. Đi quá ban đồng ca một chút có một khung cửa vòm đã từng dẫn xuống hầm chứa xương, một hầm mộ nhỏ dùng để lưu giữ hài cốt. Nhưng hầm mộ này đã bị phá hủy từ lâu, và cánh cửa bị bịt kín. Chúng tôi đứng trước cánh cửa gỗ sồi nặng nề. Tôi lùi lại, nhưng Athenaide vẫn nắm chặt lấy tôi.

Tiếng bước chân đã đi tới gian giữa. Tia sáng của chiếc đèn bấm quét quanh thánh thất, vẫn còn cách chúng tôi chừng ba bốn mét. Nhưng bây giờ không thể nghĩ đến chuyện chạy tới bàn thờ nữa. Chúng tôi ép sát người vào bức tường phía nam - và cánh cửa khẽ xoay trên các bản lề được bôi trơn cẩn thận mở ra bên ngoài.

Chúng tôi đã ra bên ngoài, ngay dưới trời đêm.

Matthew. Tôi quay lại.

Nhưng Athenaide đã đóng cánh cửa lại sau lưng chúng tôi và kéo tôi đi qua giữa những ngôi mộ. Đi vòng vèo giữa những nấm mồ và màn sương trắng xóa, chúng tôi chạy về phía đông qua phía sau nhà thờ. Tôi chững lại đột ngột khi mặt đất trở thành dốc đứng. Chúng tôi đã ra tới bờ sông. Nhưng Athenaide vẫn tiếp tục đi, leo qua những đám lau sậy.

Sau lưng chúng tôi, cửa nhà thờ bật mở và ánh đèn bấm chiếu xuyên qua màn đêm.

“Kate!” Ben gọi to.

Tôi lóp ngóp bước theo sau Athenaide. Phía dưới, một chiếc thuyền đang bồng bềnh trên mặt nước, bị che khuất một phần trong đám lau sậy. Chúng tôi trèo lên thuyền, nằm dán xuống đáy.

Matthew. Tôi cố không ngĩ đến cảnh ông ta đang nằm trên sàn nhà thờ, vết thương không ngừng rỉ máu. Lí do duy nhất đã khiến ông ta có mặt ở đây là để gúp tôi, và bây giờ ông đã chết hoặc sắp chết. Một lần nữa tôi lại muốn thét lên, và lại kìm được.

Chúng tôi nghe tiếng Ben khạc nhổ và chửi rủa phía trên, tìm kiếm chúng tôi giữa những ngôi mộ. Cuối cùng, anh ta vòng sang phía khác của nhà thờ. Nhưng Athenaide vẫn nằm yên.

Ở phía trên, có tiếng bước chân khẽ lần ra bờ sông, dừng lại ở rìa đám lau sây. Cả hai chúng tôi đều cứng người lại căng thẳng, Athenaide đưa một tay ra, chĩa súng lên bờ.

“ Vero .” một giọng nói thì thầm.

“Nihil verius.” Athenaide trả lời.

Đám lau sậy tách ra kêu xào xạc, rồi Matthew trèo vào trong thuyền. Ông ta đưa tay khẽ nắm lấy vai tôi trong khi Athenaide cuối cùng cũng tháo xong neo thuyền. Sau đó ông ta cầm lấy các mái chèo và bắt đầu chèo ngược dòng sông.

Ông ta giữ lấy chiếc thuyền đi sát bờ, hầu như được che khuất hoàn toàn bởi những cành cây mọc chìa ra sông và các đám lau sậy. Tiếng mưa rơi đã làm át đi cả âm thanh của mái chèo lẫn tiếng chiếc thuyền của chúng tôi rẽ nước. Đi quá công viên, chúng tôi tới chỗ chiếc phà chạy bằng cáp. Matthew nhanh chóng buộc thuyền, và chúng tôi trèo lên bờ ẩn vào giữa các thân cây.

Phía trước, một chiếc xe hơi rẽ xuống phố. Khi chiếc xe đến trước mặt chúng tôi, một cánh cửa xe mở ra. Không đợi cho xe dừng hẳn, Athenaide chui vào ngồi lên băng ghế sau, và tôi làm theo bà. Matthew chui vào xe ngay sau tôi.

“Coventry.” Athenaide nói, và người lái xe gật đầu.

Tôi nhìn lại phía sau. Không có bước chân chạy tới. Không có chiếc xe nào. Không có bất cứ chuyển động nào khác trên con phố vắng lặng.

“Ngôi mộ” tôi thì thầm. “Đó là lí do họ không bám theo”.

“Chắc chắn rồi.” Athenaide nói, lấy một bình giữ nhiệt đựng cà phê từ ngăn tủ trong cửa xe ra.

“Nhưng họ sẽ mở ngôi mộ ra” tôi bồn chồn, vươn người qua trước mặt Athenaide để với lấy tay nắm cửa xe.

Athenaide đặt một tay lên đầu gối tôi. “Mặc kệ họ”.

“Bà không hiểu được đâu” tôi than vãn. “Họ sẽ tìm thấy những gì Ophelia để lại đó. Nếu không phải là thứ họ muốn thấy, họ sẽ phá hủy nó.”

“Không, họ không thể” bà nói, đưa tay tìm quanh chân mình. Cầm lên một chiếc hộp bằng gỗ hồng sắc khảm trai, bà ta đặt vào lòng tôi và mỉm cười. “Chúng tôi đã có mặt ở đó trước”.

Khoảng ngưng

Tháng Tám năm 1612

Suốt sáu năm trời, cô đã chờ đợi thời cơ của mình. Giờ đây, thời điểm cô chờ đợi đã sắp tới.

Trước đó trong buổi tối, Henry, hoàng tử xứ Wales, đã khoản đãi các họ hàng trong hoàng tộc và toàn thể triều đình tại một ngôi nhà mùa hè được dựng trên đỉnh đồi trong công viên ở Woodstock. Khi những vì sao bắt đầu chiếu sáng qua những cành cây, bàn ăn đã được dọn đi, nhà vua và hoàng hậu cũng đã đi khỏi, còn các triều thần trẻ tuổi lúc này cũng bắt đầu khiêu vũ trên bãi cỏ.

Một nhóm các quý bà nhún nhảy chuyển động thành một đường cong, những cổ áo xếp của họ lượn sóng nhấp nhô như những đôi cánh mong manh trong khi họ lượn vòng quanh hoàng tử. Giữa đám đông các phu nhân, một chiếc găng tay rơi xuống đất. Đó là một vật tuyệt đẹp, màu trắng như ngà voi có thêu kim tuyến, các ngón tay dài và mảnh mai đến khó tin, ống găng tay được thêu chỉ vàng, nạm ngọc trai và rubi.

Trong bóng tối bên cạnh lùm cây, người phụ nữ tóc đen, khuôn mặt tái xanh căng thẳng, đang đứng quan sát. Đúng như đã được chỉ dẫn, người đàn ông mà cô lựa chọn, một kẻ mới tới đang nóng lòng gây ấn tượng, vội vàng cúi xuống để nhặt lấy chiếc găng. Cô thấy anh ta đã nhận ra kí hiệu của chủ nhân chiếc găng - một chữ H được trang trí cầu kì - và tay anh ta dừng lại nửa chừng. Trong khoảnh khắc, cô nghĩ lòng can đảm đã bỏ rơi anh ta. Dù sao thì chiếc găng tay cũng thuộc về France Howard, nữ bá tước Essex, và không ai dám xem nhẹ gia đình Howard.

Để đề phòng trường hợp đó, cô đã dùng một cách gián tiếp để đảm bảo rằng nhà quý tộc này, cho dù vẫn còn lạ nước lạ cái ở triều đình, được nghe những lời đồn đại về hoàng tử và nữ bá tước tóc vàng quyến rũ. Anh ta đã tận mắt chứng kiến đôi mắt của hoàng tử dõi theo nữ bá tước một cách thèm muốn như thế nào.

Anh ta đã giữ được sự can đảm, nhặt chiếc găng lên, nhưng không trả lại cho chủ nhân. Thay vào đó, anh ta đưa nó cho hoàng tử một cách kính cẩn, chiếc mũ cắm lông cầm trong tay, mắt cúi nhìn xuống đất.

Xung quanh họ, âm nhạc đã tắt dần. Những cuộc đối thoại cũng thưa dần rồi im hẳn. Thay vì làm theo phép xã giao, nhà quý tộc ngước mắt nhìn lên. Hoàng tử đang chằm chằm nhìn vào anh ta như thể anh ta đã dâng cho ngài một thứ rác rưởi bẩn thỉu nhặt dưới chuồng lợn lên. Rời mắt khỏi anh ta, hoàng tử đưa mắt nhìn vào nữ bá tước. Nàng hơi nhún người chào theo phép lịch sự, hai má ửng đỏ. “Ta sẽ không động vào nó” hoàng tử lạnh lùng nói một cách khinh bỉ. “Nó đã được người khác sử dụng”. Quay lưng lại, hoàng tử lao ra khỏi ngôi nhà mùa hè, các bằng hữu của ông vội vàng đuổi theo.

“Cô đã làm gì vậy?” chàng quý tộc rên rỉ.

“Làm điều tốt cho anh” người phụ nữ trả lời, rồi theo sau hoàng tử đi ra ngoài.

Đó là sự trả thù hoàn hảo. Con gái của cô đã bị ông bác và cha ruột của nữ bá tước cướp đi một cái tên. Đổi lại, cô muốn tên của con gái họ - và cả họ nữa - bị dẫm xuống bùn.

Cuối cùng thì việc này đã dễ dàng hơn cô nghĩ. Tất cả những gì cô phải làm là thông báo sự thật. Frances Howard, nữ bá tước Essex, đã làm toàn bộ phần còn lại. Phải thành hôn với một bá tước mà cô ta căm ghét và đang cố gắng đòi hủy hôn, Frances Howard đã được gia đình mình bố trí để quyến rũ hoàng tử. Đây là một vụ đánh cược khá mạo hiểm, vì người chồng bị căm ghét của Frances là một trong những người bạn thân thiết nhất của hoàng tử. Thành công của nữ bá tước sẽ là minh chứng cho sắc đẹp và sức mạnh của sự quyến rũ nàng sở hữu. Dần dần, Essex và hoàng tử xa lánh nhau. Tuy nhiên, trong khi những đôi mắt khác quan sát ngọn lửa đam mê mỗi lúc một nóng bỏng của hoàng tử một cách lo ngại, thì người phụ nữ tóc đen theo dõi Frances. Và những gì cô nhìn thấy tỏ ra rất có ích.

Bề ngoài, cô nàng đang làm theo bổn phận của mình. Nhưng kín đáo hơn, nữ bá tước đang lén lút hẹn hò với một người khác - kẻ mà hoàng tử căm ghét hơn bất cứ ai: gã tình nhân trẻ tuổi đẹp trai của cha ông, Robert Carr.

Từ tốn nhưng chắc chắn, người phụ nữ đã tạo ra một manh mối khiến hoàng tử nghi ngờ. Ngay buổi sáng hôm đó, cô đã bố trí để hoàng tử, trở về sau một chuyến cưỡi ngựa đi dạo vào sáng sớm, đến một nơi cho phép ông chứng kiến cảnh Carr từ trong phòng nữ bá tước đi ra.

Hoàng tử đã ở trong tâm trạng cáu gắt suốt cả ngày hôm đó. Lúc này, bên ngoài ngôi nhà mùa hè, người phụ nữ lắng nghe những người bạn của hoàng tử đang giúp ông bình tĩnh trở lại. Bá tước Essex, người chồng bị cắm sừng của Frances và là người bạn từ thuở nhỏ của hoàng tử, xuất hiện dưới ánh đuốc, dắt tới một con ngựa, tiếng nhạc ngựa kêu leng keng như những chiếc chuông bạc nhỏ. “Hãy giận dữ như ngài muốn. Nhưng đừng trách một mình Frances. Cô ta đã sinh ra trong một gia đình rắn độc. Cô ta phải làm theo mệnh lệnh”.

Hoàng tử lên ngựa. “Khi ta trở thành vua” hoàng tử căm hận nói, “ta sẽ không để một tên nào còn sống sót trong bọn chúng”. Rồi thúc ngựa lao đi. Những người khác vội vã đuổi theo.

Người phụ nữ nán lại cho tới khi tất cả đã đi khuất để bước ra khỏi bóng tối. Nhưng cô ta vừa đi ra khoảng trống thì nghe thấy một ai đó phía sau mình và quay lại. Một người khác cũng đã nấp lắng nghe câu chuyện lúc này xuất hiện dưới ánh đuốc. Một người đàn ông với mái tóc bạc trắng, bộ râu trắng cắt ngắn và đôi mắt lạnh lùng sáng quắc. Bá tước Northampton, thủ lĩnh của gia đình Howard.

Cô gái lạnh người. Ông ta đã cáo lui cùng nhà vua và hoàng hậu; cô chắc chắn như vậy. Tại sao ông ta lại có mặt ở đây?

“Thưa cô” bá tước vừa nói vừa đưa cô gái đang run rẩy quay trở lại vũ hội. “có lẽ cô bị lạc đường”.

Cô đã làm gì vậy?

Công khai tấn công hoàng tử sẽ là tự sát. Tuy nhiên, gia đình Howard không cam chịu để vết nhơ trên danh dự con gái của họ qua đi mà không đáp trả. Sự trả thù họ tính toán rất tinh vi. Họ sẽ loan đi khắp London những câu chuyện kể và bài hát về một người phụ nữ chung thủy với chồng, bị cưỡng ép và hủy hoại bởi một hoàng tử đã từng là bạn của người chồng. Họ sẽ không đưa ra cái tên cụ thể nào, nhưng sự ám chỉ sẽ rất rõ ràng. Trung tâm của sự báo thù này sẽ là một vở kịch được sáng tác bởi nhà soạn nhạc kịch tài năng nhất London: William Shakespeare.

Wiliiam Shakespeare đã lấy làm tiếc phải nói rằng mình không nhận đơn đặt hàng cá nhân.

Gia đình Howard có thể hiểu điều này, nhưng dưới những điều kiện nhất định, họ đoan chắc ông sẽ cho họ một ngoại lệ.

Sau khi xem xét các điều kiện, Shakespeare đồng ý. Họ làm mọi điều để đảm bảo chắc chắn việc này; là thị thần của nhà vua, bá tước Sufolk ở vị trí lý tưởng để có thể đe dọa đến nhà hát. Nhưng không phải cái gậy mà là củ cà rốt đã khuất phục được Shakespeare.

“ Quixote ?” Theophilus, huân tước Howard de Walden, hoài nghi. “Tại sao Cervantes lại có sức hấp dẫn lớn như vậy?” Cuốn sách vừa mói được dịch, với lời đề tặng dành cho Theo, và biết rõ ràng lúc này đang là đề tài đàm luận của tất cả những ai biết đọc ở London, ông ta cảm thấy có một chút quan tâm như của chủ sở hữu.

“Mồi câu không phải là Cervantes” ông bác của huân tước trả lời, giọng nói không giấu vẻ coi thường sự thiếu tinh tế của Theo.

“Thế thì là ai?” Theo hỏi.

“Người đã dịch cuốn sách” cha huân tước, bá tước Sufolk, bực bội trả lời.

Tối hôm đó, Theo ép buộc Thomas Shelton, đã bị dọa cho chết khiếp, phải đưa ra lời giải thích. Thomas đã không tự mình dịch cuốn sách, mặc dù lời đề tặng đầy phỉnh nịnh ở đầu cuốn sách dành cho Theo là của anh ta. Bản dịch là kết quả làm việc của người em trai William Shelton, nhưng cuốn sách không bao giờ được xuất bản dưới cái tên này. Cậu thanh niên là một người không được chấp nhận ở Anh – một tu sĩ Jesuit đang sống tại Tây Ban Nha, ông bác của Theo biết rõ điều này.

“Bằng cách nào?” Theo hỏi.

“Đức ông Northampton gửi cậu ấy tới đó”, Shelton run rẩy trả lời.

Như vẫn thường xảy ra, ông bác của Theo đã đoán đúng. Trong một căn nhà ở quận Blackfriars của London, Shakespeare đang vùi đầu vào kiệt tác của Cervantes.

Ít lâu sau, cuối cùng Northampton cũng biết cuộc phiêu lưu tình ái của cháu gái ông ta và Robert Carr. “Không phải là một cuộc phiêu lưu ái tình” Frances, khuôn mặt thâm tím, nước mắt lưng tròng, nói với ông bác và cha mình. “Một đam mê lớn”.

Tuyên bố này chẳng gây được chút ấn tượng nào với Northampton cũng như Suffolk. Một mối liên kết với sủng thần được yêu quý nhất của nhà vua tất nhiên chẳng thể nào so sánh được về thanh thế hay vững chắc so với một mối liên kết với con trai của nhà vua. Mặt khác, nếu nói về quyền lực và tiền bạc, đây là một mối liên kết không hề tồi. Nhà vua muốn các sủng thần của mình cưới vợ; không những không ghen tuông với các bà vợ của họ, nhà vua còn có chiều hướng tỏ ra rất hào phóng. Nhưng lợi ích chỉ tồn tại chừng nào nhà vua còn sống. Bất cứ liên quan nào tới Carr cũng sẽ là tai họa khi hoàng tử lên kế vị.

Frances nhìn ông bác và cha mình rồi kiêu kì đi ra khỏi phòng.

Đến tháng Mười, khi táo chín và lá cây bắt đầu rụng, hoàng tử Henry đột nhiên ốm nặng và lên cơn sốt. Hai tuần sau, vào đầu tháng Mười một, hoàng tử qua đời. Tin đồn về một vụ đầu độc lan truyền. Northampton nhìn cháu gái với đôi mắt lạnh lùng. Cô cháu im lặng bình thản nhìn lại.

Con đường của gia đình đã rõ ràng. Với cái chết của hoàng tử, họ quyết định nhắm tới Carr và bắt đầu gây sức ép để hủy bỏ cuộc hôn nhân đầu tiên của Frances một cách quyết liệt.

Sau đó, vào tháng Mười hai, vở kịch mới của Shakespeare, có tên là Cardenio , được đặt lên bàn của Suffolk, và họ nhận ra đã tự tạo nên một rắc rối.

Tên của vở kịch đúng là một sự trùng hợp lạ lùng, nhưng không phải một sự trùng hợp có thể chấp nhận được. Trong vở kịch vốn định dùng để bêu riếu hoàng tử và thanh minh cho Frances, cái tên Cardenio có vẻ quá gần với Carr. Tệ hơn nữa, trong vở kịch, Cardenio là người hùng lãng mạn có nhiệm vụ giải thoát nhân vật nữ chính khỏi tay một hoàng tử nham hiểm. Ban đầu nhân vật này dự định sẽ tượng trưng cho Essex, người chồng đầu tiên của Frances - nhưng giờ thì chẳng ai hiểu như vậy. Thậm chí đã có tin đồn Frances bỏ rơi hoàng tử để chạy theo Carr. Vở kịch này sẽ chỉ đổ thêm dầu vào lửa. Mà vấn đề không chỉ là đổi tên nhân vật. Tất cả mọi người đều đã đọc Don Quixote . Câu chuyện về Cardenio sẽ bị nhận ra, cho dù cái tên được gán cho nó có là gì đi nữa.

Shakespeare được yêu cầu rút lại vở kịch.

Trước khi ông kịp trả lời, có ai đó đã nói đến tai nhà vua về một vở kịch dựa trên cuốn sách mới xuất hiện, Quixote. Nhà vua đã yêu cầu đích danh vở kịch đó cho lễ cưới của con gái mình.

Ngay cả Suffolk cũng không thể ỉm đi một lời yêu cầu trực tiếp của nhà vua. Đến tháng Giêng, Cardenio được trình diễn trước triều đình. Tức điên lên trong hậu trường, Suffolk tìm cách đểvở kịch đáng nguyền rủa sớm bị quên đi. Nhưng sự lãng quên đã không kéo dài. Đến tháng Sáu, đoàn kịch của nhà vua thông báo việc ra mắt công chúng trở lại của vở kịch tại nhà hát Quả cầu. Một lần nữa, Shakespeare lại được yêu cầu rút lại vở kịch.

Vì những lí do mà ông không tiết lộ, Shakespeare từ chối.

Vào một buổi chiều tháng Sáu đẹp trời, người phụ nữ tóc đen nắm tay cô con gái năm tuổi của mình, với mái tóc đen nhánh như của một cô bé Digan, và giúp cô bé bước lên các bậc thang dẫn tới tầng giữa của nhà hát Quả cầu.

“Con của ai?” Will đã có lần hỏi. “Con của ai vậy?”

“Tên nó là Rosalind” người phụ nữ trả lời. “Gọi ngắn gọn là Rose”.

“Một sự lãng phí linh hồn cho sự hổ thẹn vô ích” ông ta đã than thở. Những lời nói vẫn còn làm cô căm hận.

Cô bé đang phấn khởi, cắn một quả cam và mở to mắt ngắm nhìn xung quanh trong khi các tầng nhà hát đông dần người. Cô bé chưa từng được tới nhà hát trước đó. “Chúng ta sẽ thấy ông ấy chứ?” cô bé hỏi mẹ không biết lần thứ bao nhiêu. “Ông Shakespeare ấy?”

“Sau đây” mẹ cô trả lời.

Cô đã không tới Quả cầu trong một thời gian dài. Cô đã quên mùi cơ thể, mùi phấn sáp tỏa ra ngột ngạt, rồi mùi kẹo và bánh nướng mà những đứa trẻ không lớn tuổi hơn con gái cô đang ăn ngấu nghiến. Rồi những màu sắc: màu xanh quên mùa trên áo khoác của những người học việc xen lẫn với những gam màu sang trọng trên y phục của những người quyền quý, vẻ lòe loẹt phô trương của những cô gái làng chơi đang đi tìm khách.

Shakespeare chắc đang ở nơi ông ta ưa thích nhất, cùng với các diễn viên trong phòng nghỉ phía sau sân khấu. Quan sát đám đông khán giả. Quan sát cô.

Sau một hồi kèn trumpet rộn rã, buổi trình diễn bắt đầu, đưa khán giả tới Tây Ban Nha.

Đến gần cuối cảnh đầu tiên, một tờ giấy nhỏ được dúi vào tay cô. Cô nhìn quanh nhưng không thấy ai để ý tới mình. Cô nhìn xuống tờ giấy. Giờ đây tôi trở thành nấm mồ cho danh dự của chính mình , trên tờ giấy viết, một ngôi nhà âm u chỉ dành cho cái chết . Những từ hoàn toàn xa lạ với cô.

Một lát sau, một trong những cậu thanh niên đóng rất đạt các vai nữ đi vật vờ trong sân khấu trong vai một tiểu thư trẻ tuổi bị cưỡng bức đang giày vò, nức nở gào thét chúng những từ đó. Đến lúc này người phụ nữ mới cảm thấy có những con mắt đang theo dõi mình. Cô nhìn xuống nơi cô biết Shakespeare thích nhìn ra từ phía sau sân khấu, nhưng cảm giác đó không xuất phát từ nơi này. Đôi mắt của cô từ từ chuyển tới một trong những lô ghế dành cho các khán giả quyền quý nằm bên phải. Nhưng tất cả các khuôn mặt đều đang bị cuốn hút vào vở kịch.

Rồi có một người ngẩng lên, và người phụ nữ nhìn thấy mái tóc bạc trăng và khuôn mặt xương xẩu của bá tước Northampton. Đôi mắt bá tước bắt gặp cái nhìn của cô, và ông ta gật đầu với một nụ cười nham hiểm. Sau đó đôi mắt ông ta chuyển sang nhìn vào cô bé gái.

Mắt dổi mắt, đó là phương châm sống của ông ta. Một tu sĩ đổi lấy một tu sĩ. Một người con gái đổi lấy một người con gái.

Người phụ nữ nắm lấy tay con gái mình. “Chúng ta về thôi”.

“Nhưng, mẹ ơi…” cô bé kêu lên.