← Quay lại trang sách

Chương 38

Chiếc hộp Athenaide đặt vào lòng tôi có kiểu dáng thời Victoria, được làm bằng gỗ khảm trai và mun. “Tôi không hiểu” tôi bối rối nói.

“Tất cả mọi thứ trên đời đều để bán” Athenaide trả lời, giọng có vẻ hối tiếc hơn là tự hà. “Mã báo động, chìa khóa nhà thờ, thậm chí cả cảnh sát. Tối hôm qua chúng tôi đã dùng tiền đúng chỗ”.

Bên trong chiếc hộp có một cuốn sổ nhỏ bọc bìa da màu đen. Một cuốn nhật kí. Tôi định cầm lên, nhưng Athenaide đã đặt tay lên tay tôi. “Tôi đã cho Matthew biết tất cả những gì tôi biết. Nhưng bây giờ, đầu tiên cô phải kể cho chúng tôi những gì cô đã khám phá ra”.

Tôi vội vã kể lại cho họ về Westminster Abbey, dinh thự Wilton, và Valladolid, nhưng tôi vẫn cảm thấy miễn cưỡng về chiếc trâm đang cài bên trong áo Jacket của mình. Không rõ lí do gì, tôi đã bỏ qua nó. Athenaide quan sát tôi chăm chú. Tôi có cảm giác bà ta biết tôi chưa nói tất cả. Tuy vậy, khi tôi kết thúc, bà thu tay về và gật đầu.

Nhấc cuốn sổ khỏi hộp, tôi mở ra. Tháng Năm năm 1881, trang đầu tiên đề ngày tháng như vậy với nét chữ nắn nót mà tôi biết rõ. Chữ viết của Ophelia Granville.

“Hồi kí của bà ta” Athenaide nói trong khi tôi cúi xuống đọc.

Ngồi cạnh tôi, Matthew sốt ruột cựa quậy liên tục. “Tôi có thể tóm tắt mười năm đầu tiên cho cô trong hai phút. Mẹ bà ta qua đời khi còn rất trẻ; cha của bà là bác sĩ điều hành một trại điên dành cho bệnh nhân nữ ở thị trấn nhỏ Henley-in-Arden. Các ‘vị khách’ của họ, như bác sĩ Fayrer gọi bệnh nhân của mình, ở trong một cánh của tòa dinh thự cũ rộng lớn. Vị bác sĩ cùng con gái sống ở cánh bên kia”.

“Điều kiện không thể gọi là lí tưởng với một cô bé” Athenaide nhận xét. “Vì vậy, mỗi khi thu xếp được, vị bác sĩ luôn đưa con gái tới gần Stratford để chơi với những đứa con của vị mục sư”.

“Những đứa con của mục sư Granville J. Granville” Matthew nói.

“Granville?” tôi hỏi.

“Cô bé không quan tâm lắm tới những cô con gái của mục sư” Matthew kể tiếp. “Ông mục sư có một cậu con trai lớn ở Oxford, nhưng Jeremy là người cô bé thích nhất”.

“Jem Granville là con trai của mục sư giáo phận Stratford?”

“Có lẽ là vậy” Athenaide nói. “Một ngày Chủ nhật, khi Ophelia lên mười, ông mục sư có thêm một người khách nữa cùng ăn trưa với gia đình Fayrer. Một quý bà người Mỹ cao ráo, mắt xanh có mái tóc đen điểm bạc. “ Điên khùng như một người Ireland ” Ophelia mô tả bà ta. “ Giống như một người đội lốt hải cẩu hay một cô tiên thường đi ra đi vào các ngôi nhà ở trên đồi ”. Kể từ khi đến nơi, quý bà này nắm quyền chỉ huy trong phòng khách, làm mê hoặc cả nhà với những câu chuyện của mình về một hệ thống triết học thực dụng thiên tài ẩn giấu bên trong các vở kịch của Shakespeare. Bộ óc vĩ đại nhất thời Elizabeth đã sáng tạo ra chúng dưới vỏ bọc giải trí, bà đã nói như vậy, làm cho con người xứng đáng hơn để đón nhận những học vấn cao siêu hơn, để họ học căm thù bạo quyền và đấu tranh cho tự do”.

“Delia Bacon” tôi nói. “Chắc chắn như vậy”.

“Jem và Ophelia đã gọi bà là ‘Quý bà Shakespeare’”. Matthew nói.

Vậy Ophelia đã gặp Delia. Bên ngoài, mưa vẫn đập vào cửa kính xe. Chúng tôi để Stratford lại phía sau, và lúc này đang lao nhanh qua những cánh đồng tối đen. Athenaide tiếp tục câu chuyện. “Người đàn ông tới từ Stratford, cô Bacon tuyên bố, là kẻ giả mạo, một chiếc mặt nạ cho tác giả thực sự, để đánh lạc hướng sự giận dữ của chính quyền độc đoán. Nhưng đã đến lúc đưa sự thật ra ánh sáng, bà nói tiếp. Và như thể đang tiết lộ một bí mật lớn lao, bà kéo mọi người lại gần. Những điều xấu xa người ra làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ ”.

“Nhưng đó cũng chính là câu trích dẫn tôi tìm thấy trong cuống Tuyển tập ở Valladolid” tôi nói. “Cũng là câu Ophelia đã dùng trong bức thư gửi bà Folger”.

Lật sang những trang sau của cuốn nhật kí, Athenaide chỉ vào một đoạn:

Sự thật, cô Bacon thì thầm, nằm ẩn trong những tài liệu được cất giữ trong một khoang trống dưới ngôi mộ của người họ chọn làm tấm bình phong - Shakespeare người Stratford. Bà ấy đã tìm thấy một số bằng chứng về việc này trong những bức thư của Francis Bacon - những bức thư bằng thơ, bà vừa nói vừa nháy mắt. “Những cái tên của tôi được chôn vùi cùng thân thể ”.

Tôi cau mày. Câu trích dẫn này cũng xuất hiện trong cuốn Tuyển tập ở Valladolid, nhưng không phải của Francis Bacon. Và cũng bị trích dẫn sai - ‘Những cái tên’ ở số nhiều thay vì một cái tên - và đây là một câu của Shakespeare, từ một trong những bài sonnet. Nhưng Delia đã luôn tin Francis chính là Shakespeare.

“Mục sư cho phép Delia mở ngôi mộ ra” Matthew nói. Một tuần sau, vào một đêm rét mướt tháng Chín, bà đã tới nhà thờ để thực hiện việc đó, nhưng bà không chỉ có một mình. Trí tò mò bị kích thích bởi cảm giác phiêu lưu, Jem và Ophelia đã lén ra khỏi giường chui vào nấp trong nhà thờ trước khi bà tới. Hai đứa trẻ đã theo dõi bà.

Delia xuất hiện giữa những cơn gió xoáy lạnh buốt và từng đợt lá rơi. Giơ cao chiếc đèn bão trong thánh thất tối tăm, bà đọc lời nguyền khắc trên tấm đá đậy mộ lên thành tiếng. Sau đó bà mở một chiếc túi vải, lấy ra một tấm thảm trải trước ngôi mộ, rồi quỳ xuống. Lấy ra một chiếc đục từ trong túi, bà vung nó lên quá đầu như một con dao. Nấp sau băng ghế cầu nguyện, Ophelia dúm người lại.

Nhưng không có gì xảy ra. Delia rùng mình ớn lạnh - một tay ôm lấy ngực chỗ trái tim , Ophelia viết, tay kia giơ cao chiếc đục như một thiên sứ gác cửa thiên đường với một thanh gươm rực lửa . Bà ngồi yên ở tư thế đó cho tới khi chuông nhà thờ đổ mười tiếng. Như thể được giải thoát khỏi cơn mê, bà vứt chiếc đục xuống rồi đứng dậy. Một tiếng cười hoang dại bật ra, vang xa rồi tắt ngấm. “ ’Sự thật là gì ? ’ Pilate bỡn cợt nói ” bà đã hét lên như vậy, “ và không nán lại trả lời ”. Để mặc chiếc túi ở dưới sàn, bà vội vàng bước ra khỏi nhà thờ và bỏ chạy vào màn đêm.

“Nhưng nếu Delia không mở ngôi mộ ra” tôi hỏi, “thì ai đã làm việc đó?”

“Bọn trẻ” Athenaide nói.

Ophelia và Jem.

“Sử dụng những dụng cụ của Delia” Matthew nói, giở sang một trang khác. Ông đọc thành tiếng:

Một luồng không khí tù đọng lâu ngày tỏa ra. Không có hài cốt nào cả. Không có bức tượng tang lễ nào. Không có chiếc rương đựng giấy tờ hay vàng bạc nào. Thậm chí không hề có lấy một con giòi đã khô, hay một con nhặng chết. Không có gì cả, ngoài một khoảng trống không và phía dưới, một phiến đá phẳng khác. Không, có một đường - một hình khắc lờ mờ trên phiến đá. Trong khi Jem giữ phiến đá nắp mộ, tôi đã in lại hình khắc đó bằng giấy và bút chì cô Bacon để lại .

Ở trang đối diện, Ophelia dán vào một tờ giấy rời được phủ lớp bút chì. Những đường trắng mờ mờ tạo thành bức hình mà tôi đã nhìn thấy một lần: chiếc cổ dài và chiếc đầu thiên nga, đôi cánh đại bàng tạo thành chiếc đầu lợn rừng, và một đứa bé bị quắp trong móng vuốt của một chân, chân kia là một cây thương. “Quái vật chimera” tôi nói.

“Nó vẫn còn ở đó” Athenaide nói, đôi mắt bà sáng rực.

“Hai người đã nhìn thấy nó?”

Matthew gật đầu. “Hai người bọn họ đã không thể giải nghĩa được hình khắc này” ông ta nói. “Ít nhất gia sư của Jem đã nhận ra đó là một con chimera, nhưng ông ta chưa từng nhìn thấy con quái vật nào với các bộ phận cấu thành như vậy. Khi được lũ trẻ kể lại đã tìm thấy hình vẽ ở một nhà thờ, ông ta nói rằng đó có thể là một kí hiệu của Satan”.

Một tháng sau, khi Delia được đưa tới trại điên ở Henley, Ophelia đã cho bà xem bản sao lại này. Delia đã bị kích động dữ dội, cả người run lên. “ Đáng nguyền rủa thay những kẻ động đến di cốt ta ” bà lẩm bẩm nói đi nói lại. “ Đáng nguyền rủa thay …”. Vài tuần sau, người cháu trai của bà đã tới đưa bà về Mỹ.

Trong lần tới thăm Stratford sau đó, Ophelia đã nói với Jem cô bắt đầu thấy sợ hãi về lời nguyền và muốn trả lại bản sao đó. Nhưng Jem đã từ chối giúp đỡ. “Em cũng sẽ hóa điên như cô Bacon mất” anh ta lạnh lùng nói.

“Kẻ cắp nhóc con” Athenaide nói. “Chắc hẳn anh chàng cũng sợ không kém cô bé”.

Đó là lần cuối cùng Ophelia gặp anh ta trong gần một thập kỉ. Jem đã chuyển tới Oxford, rồi sau đó, qua bạn bè, anh ta trở thành gia sư cho bá tước trẻ của gia đình Pembroke.

“Tại dinh thự Wilton” tôi nói.

Cậu nhóc bá tước, Matthew tiếp tục, mới được thừa kế danh hiệu và ngôi nhà từ người bác sống ở nước ngoài và qua đời mà không hề biết hết những bí ẩn của gia đình mình. Có những bằng chứng về dấu vết của Shakespeare tại ngôi nhà đó, nhưng đó là tất cả.

“Jem có tìm thấy những bức thư không?” tôi hỏi, hai bàn tay nắm chặt lấy cuốn nhật kí.

Matthew mỉm cười. “Chính con chimera đó đã đưa anh ta quay lại tìm Ophelia”.

Ophelia và Jem đã cùng nhau so sánh những hình tượng trong bức thư của con Thiên nga Ngọt ngào nhất với bức hình do Ophelia sao lại. Và Jem bắt đầu ghép chúng với từng người: Phu nhân Pembroke - thiên nga, Bacon - lợn rừng, Shakespeare - chim ưng và cây thương, bá tước Derby - đại bàng và đứa trẻ. Người duy nhất anh ta bỏ qua chính Là Oxford, con lợn rừng thứ hai.

Cô Bacon đã tin rằng Shakespeare là một âm mưu, Jem nói với Ophelia như vậy - và anh ta bắt đầu tin rằng bà có lí. Cách suy luận của anh ta cũng tương tự những lí lẽ của Ophelia: “ Những cái tên của tôi được chôn vùi cùng thân thể”. Anh ta lí luận rằng bằng chứng như vậy phải nằm ở những ngôi mộ. Ngôi mộ của Shakespeare đã được đánh dấu bằng con quái vật, anh ta nhận xét; và tin rằng những ngôi mộ còn lại cũng vậy.

Nhưng ngôi mộ của phu nhân Pembroke đã từ lâu nằm ẩn kín đâu đó dưới nhà thờ lớn ở Salisbury. Còn về mộ của Bacon, đài tưởng niệm của ông nằm trong nhà thờ địa phận St. Alban, nhưng ngôi mộ thật của ông đã thất lạc từ lâu. Và cho dù Jem có biết đến Oxford, thì tôi nghĩ điều này cũng không ích gì. Nhà thờ nơi Oxford được an táng đã bị san phẳng vào thế kỉ mười tám, và nơi an nghỉ cuối cùng của bá tước cũng không còn dấu vết.

Như vậy chỉ còn ngôi mộ của Derby, ở Lancashire.

Một tuần sau, Ophelia và Jem bỏ nhà trốn đi.

Hầm mộ cũ của các bá tước Derby nằm ở Ormskirk, thị trấn thương mại nằm trên vùng đất thấp bằng phẳng trông ra biển về phía tây, phía sau thị trấn dựa vào những quả đồi. “Cái tên này có nghĩa là ‘Worm’s Church’”, Jem giải thích. “Nhà thờ của Rồng, theo tiếng Viking cổ”. Tại ngôi nhà thờ cũ Thánh Peter và Thánh Paul của giáo phận, anh ta đã kéo Ophelia vào một nhà nguyện nằm trong góc, phía trong trống trải chỉ có hai bức tượng cẩm thạch đã hư hại rất nhiều của một hiệp sĩ và phu nhân của ông ta. Ở giữa nhà nguyện, một chiếc cửa sập mở xuống một cầu thang dốc dẫn xuống phía dưới.

Ra hiệu cho Matthew im lặng, tôi tự đọc tiếp:

.... mùi của xương cốt và bụi bặm, của đá lạnh lẽo và những người chết. Có chừng ba mươi chiếc quan tài xếp trên những chiếc giá vòng quanh tường. Ở giữa hầm mộ là những phần mộ đá, trên nắp có tạc tượng. Một số ít là những phu nhân mặc xiêm y dài, nhưng phần lớn là đàn ông, một vài người đội tóc giả, một số khác mặc áo giáp, và ba người mặc áo chẽn đi tất dài tới gối. Một trong những người này cầm trong tay chiếc két nhỏ bằng đá. Trên đó có khắc hình chimera.

Đưa xà beng bẩy mạnh, Jem mở nắp phần mộ ra.

“Cô sẽ phải dừng lại ở đây” Athenaide nói, và tôi ngẩng lên nhìn, chớp mắt mấy cái.

Chúng tôi không còn đi giữa những cánh đồng tối đen. Ở phía xa, tôi nhìn thấy những tòa nhà lớn của khu công nghiệp, một quầng sáng lóe lên, rồi chiếc xe rẽ vào bên đường, phóng thẳng tới cạnh chiếc máy bay riêng của Athenaide.

“Chúng ta đi đâu đây?” tôi hỏi.

“Đi tìm kho báu của Jem” Athenaide nói.

Lên khoang, tôi không đợi đến lúc máy bay cất cánh mà mở ngay cuốn nhật kí ra đọc tiếp khi vừa ngồi yên xuống ghế.

Trong chiếc hộp đã mục nát tìm thấy trong phần mộ, Jem và Ophelia đã tìm thấy một bức tranh. Một bức chân dung nhỏ của một chàng trai trẻ tóc vàng để râu, ngồi phía trước hậu cảnh là những ngọn lửa.

Bức chân dung của Hilliard . Định lấy ra, tôi chợt ngừng lại, linh cảm thấy đôi mắt của Athenaide đang nhìn mình. Bức chân dung đó làm gì trong phần mộ của Derby?

“Còn có những bức thư nữa” Matthew khẽ nói.

Tôi nhìn lại trang nhật kí. Chính xác là hai bức thư. Viết bằng tiếng Latinh, gửi từ Valladolid. Jem nhanh chóng dịch lại cho Ophelia. Đầu tiên là một bức thư cảm ơn vì một bản thảo và một cuốn sách. Cuốn sách thật tuyệt vời, tác giả bức thư viết - quá tuyệt vời. Anh ta rất vui đã được nhìn thấy nó, nhưng không thể mang theo mình. Tuy vậy anh ta sẽ luôn mang theo bản thảo. Vở kịch hóa ra còn hay hơn anh ta trông đợi. Nó làm anh ta phải phá lên cười, và anh ta sẽ luôn cần đến đó ở nơi sắp đến.

“ Cardenio .” Athenaide nói.

“Và cuốn Tuyển tập ở Valladolid” Matthew nói.

Tất cả đều khớp, tôi phải thừa nhận. Thế nhưng vẫn không chứng minh được điều gì cả. Tác giả bức thư đã không hề nói đến tên cuốn sách.

Bức thư thứ hai cũng được gửi từ Valladolid, nhưng muộn hơn, và không cùng người gửi. Với lời xin lỗi hân hoan một cách lạ lùng, bức thư chó biết William Shelton đã lên đường từ Santa Fe, ở Tân Tây Ban Nha, cùng một đoàn thám hiểm, với mục đích dẫn dắt các linh hồn tới vinh quang của Chúa, nhưng đã không bao giờ quay về. Trong một cuộc chạm trán với thổ dân, anh ta bị mất tích và được coi là đã tử vì đạo.

Trong đó cũng mô tả các chi tiết về địa lí, Ophelia viết, nhưng bà đã quên mất. Vì đúng lúc đó, những người cha của họ xuất hiện.

Cha đã lao xuống cầu thang, đôi mắt nảy lửa giận dữ, nhưng khi ông nhìn thấy tôi, cơn giận của ông tan đi, và ông mệt mỏi đứng trước mặt tôi như một ông lão già cả. Mặc dù tôi đã tự dặn mình cả ngàn lần là sẽ cứng cỏi, nhưng tôi đã rời khỏi Jem chạy đến bên ông. Bước qua bên cạnh chúng tôi, mục sư dừng lại phía trước anh ấy, tát vảo mặt anh ấy mạnh đến mức anh ấy ngã nhào xuống ngôi mộ đã vỡ .

Cuộc hôn nhân lén lút của họ hóa ra không hợp pháp, vì Ophelia vẫn chưa đến tuổi có thể làm chủ bản thân. “Họ được làm lễ thành hôn lại ngày hôm sau” Athenaide khẽ nói, “lần này với sự chứng kiến của cả hai người cha. Nhưng Ophelia không được phép sống với Jem như một người vợ cho đến khi anh ta đã tạo lập được một gia sản để đảm bảo cuộc sống cho cô”.

“Một việc không dễ dàng cho người con thứ của một mục sư” Matthew nói.

“Anh ta đứng trước những lựa chọn” Athenaide nói. “Ấn Độ hoặc châu Mỹ”.

“Ông ấy đã chọ châu Mỹ” tôi nói.

Athenaide gật đầu. “Anh ta lên đường tìm kiếm bản thảo mà người tu sĩ đã hứa luôn giữ bên mình”. Máy bay đã ổn định độ cao. Tháo đai an toàn, chúng tôi ngồi quây quanh một chiếc bàn họp, cuốn nhật kí được mở ra đặt giữa chúng tôi, và câu chuyện tiếp tục.

Lần này, cuộc chia li kéo dài mười lăm năm. Không những không tiều tụy đi, Ophelia đã thuê một gia sư và học tiếng Tây Ban Nha cùng tiếng Latinh; khi cô đã làm chủ tài sản của mình năm hai mươi mốt tuổi, cô gái lên đường tới Valladolid. Học viện đã cho cô xem tất cả những gì họ có - kể cả cuốn Tuyển tập - sau đó họ giới thiệu cô tới Văn khố về châu Mỹ ở Seville. Sau khi miệt mài tìm kiếm, cô tìm thấy bản tường thuật của một nhân chứng trực tiếp, một người đã sống sót trở về, cùng tấm bản đồ sơ lược. Sao lại cả hai, cô quay về London, và mua một cuốn Tuyển tập Đầu tiên .

“Một cuốn kiệt tác thời Jacobean.” Matthew nói hào hứng.

“Bà ấy có một cuốn Tuyển tập sao?” tôi buột miệng.

“Không phải là bản in gốc” Athenaide nói. “Một bản sao lại. Nhưng là một bản chất lượng tốt”. Ophelia đã ghi tên mình lên trang giấy để trắng đối diện với trang in nhan đề cuốn sách và bức chân dung Shakespeare. Bên dưới, cô vẽ lại hình vẽ đã trông thấy trong cuốn Tuyển tập ở Valladolid. Kẹp những thông tin thu thập được từ Tây Ban Nha vào trong cuốn sách, cô gửi tất cả cho Jem như một món quà cưới muộn.

Tôi lặng người đi, đưa tay lên ấn mạnh thái dương trong khi Matthew lại lật giở tiếp các trang nhật kí. “Mười lăm năm sau” ông nói. Lúc này, cha của Ophelia đã qua đời, nhưng cô vẫn sống trong căn nhà cũ ở Henley, trong khu rừng Arden, nhưng lúc này không còn những nữ bệnh nhân bị điên nữa. Ngoài ra, có vẻ như không có gì thay đổi - như thể cô đã bị một chiếc xa quay sợi đâm vào ngón tay rồi ngủ thiếp đi như bị bỏ bùa mê, tôi thầm nghĩ. Sau đó Jem viết thư cho cô thông báo rằng anh đã phát hiện ra thứ mình tìm kiếm.

Anh không thể mang nó tới cho cô, anh đã viết trong thư như vậy. Không thể ngay lập tức. Thay vào đó, anh muốn cô tới chỗ anh - tới Tombstone, ở Arizona. Lúc đầu, cô đã không tin anh. Sau đó, cô phát hiện ra anh cũng mời cả một giáo sư trường Harvard - và vị giáo sư đó đã đồng ý.

“Giáo sư Child xuất hiện” Matthew nói.

Ophelia đã thu xếp hành lí đáp tàu đi Mỹ. Cuốn nhật kí kết thúc khi cô xuống tàu tới New York.

Ở trang tiếp theo, Ophelia lại bắt đầu kể chuyện một lần nữa. “ Vì Jem ” cô đã viết như vậy trên đầu trang giấy. Màu mực đã khác, và nét chữ có vẻ vội vàng hơn. Câu chuyện cũng khác hẳn. Đó là bản tóm tắt một câu chuyện cô đã khám phá ra trong đống giấy tờ của Delia Bacon. Một câu chuyện về gia đình Howard.

Câu chuyện của Frances Howard, cô viết, không chỉ là một chuyện tình tay ba. “Đúng hơn là một khối thập nhị diện!” cô than thở. Đặc biệt, trước khi Frances gặp Robert Carr, nhưng khá lâu sau khi bà ta thành hôn với Essex, gia đình bà đã hướng con giá mình vào một mục tiêu khác: người bạn thân nhất của ông chồng, hoàng tử xứ Wales.

Trong một thời gian, hoàng tử đã bị mê hoặc đến mức những lời đồn đại về một đám cưới hoàng gia bắt đầu lan ra ở triều đình ngay từ khi tiến trình hủy bỏ cuộc hôn nhân trước mới chỉ bắt đầu. Sau đó Frances gặp Carr, và đi theo tiếng gọi của trái tim mà không nói gì với gia đình. Ít lâu sau, được thông tin rằng nữ bá tước còn xa mới dành riêng tình cảm cho mình, hoàng tử đã lăng mạ bà ta trước công chúng.

“Câu chuyện về chiếc găng tay” tôi thở hắt ra. “Tôi chưa bao giờ được biết vị phu nhân đó lại là Frances Howard”.

Ophelia đã thuật lại chính xác làm thế nào câu chuyện rắc rối trong lịch sử này lại nằm trong Cardenio . Vở kịch kể về một người vợ trung thành mà người bạn thân nhất của người chồng - cũng là con trai vị quân chủ - tìm cách quyến rũ. Được hiểu là câu chuyện giữa Frances, Essex và hoàng tử, vở kịch bênh vực cho Frances và buộc tội hoàng tử.

Thế rồi gia đình nữ bá tước phát hiện ra điều hoàng tử đã biết: Frances đã tằng tịu với Carr. “Carr-Cardenio”, Athenaide lặp lại lần nữa.

Cái tên này làm đổ vỡ hoàn toàn mục đích của gia đình Howard với vở kịch. Giờ đây, cả một người mù cũng có thể nhận ra Carr trong một câu chuyện có tên là Cardenio , và do đó nhận ra cả lai lịch của vị hoàng tử ghen tuông – và lại vào thời điểm mà Essex vẫn danh chính ngôn thuận là chồng của Frances. Không những không chứng tỏ được bà ta là một người vợ chung thủy nhưng bị làm hại, vở kịch sẽ làm cho bà ta bị giễu cợt như một phụ nữ cùng lúc mê hoặc cả ba người đàn ông.

Cần phải ngăn vở kịch đó lại.

Nhưng điều đó đã không xảy ra. Vở kịch được trình diễn tại triều đình vào tháng Giêng năm 1613, sau đó lại được công diễn vào đầu tháng Sáu. Lần này, đoàn lịch của nhà vua đã đưa vở kịch qua bên kia sông, tới sân khấu dành cho đại chúng của họ. Tới nhà hát Quả cầu.

“Và hai tuần sau” tôi nói, “Quả cầu bị thiêu rụi”.

“Jesus” Matthew thốt lên sau một lát im lặng. “Tôi đã không bao giờ liên hệ hai sự kiện này với nhau”

“Nhưng tại sao? Athenaide bực bội. “Tại sao Shakespeare lại công diễn Cardenio ở Quả cầu? Tại sao lại mạo hiểm thách thức cơn giận dữ của nhà Howard?”

“Trước hết tại sao lại viết vở kịch đó?” tôi phản đối. “Nghe thật vô lí. Những gì tôi nói trước đây vẫn đúng: Những câu chuyện bóng gió không phải là sở trường của ông. Hơn nữa, theo những gì tôi đã biết, ông không có lí do nào để có thiện cảm vowisgia đình Howard cả”.

“Có thể ông không định tâng bốc họ” Athenaide chậm rãi nói. “Thậm chí là ngược lại. Cô nói rằng chính một người của nhà Howard đã gửi William Shelton tới Valladolid để trở thành tu sĩ. Nếu điều này đúng, rất có thể điều Shakespeare muốn là sự trả thù”.

Nhưng mùa hè vĩnh cửu của em sẽ không phai nhạt . Cảm thấy chiếc trâm trong áo jacket đang chạm vào người mình, tôi nhớ lại Henry đã đọc câu thơ đó. “Chúng ta cần tìm ra vở kịch” tôi gằn giọng nói.

Matthew lật giở tiếp những trang nhật kí. Màu mực lại thay đổi cùng với ngày tháng. Tháng Tám năm 1881 , trên đầu trang sổ viết.

Francis yêu quí ,

Anh đã yêu cầu em kết thúc câu chuyện của mình, và ít nhất em sẽ giữ lời hứa này .

“Francis?” tôi nói. “Francis là ai vậy?”

Matthew tiếp tục đọc lướt. Ophelia tới Tombstone mùa hè năm đó sau khi biết Jem đã mất tích được một tháng. Tất cả những gì anh ta gửi lại cho cô là lời nhắn ngắn ngủi:

Nếu anh có thể, anh sẵn sàng di chuyển cả những dãy núi để tới được với em. Em phải biết điều đó. Nếu em đọc những dòng này, có nghĩa là những dãy núi đã vượt quá sức của anh.

Tái bút. Để em không nghi ngờ anh, trong cuốn kiệt tác thời Jacobean của mình, anh đã ghi lại địa điểm dưới dạng mật mã - 1623, trang kí tên .

“Đây là lí do vì sao Tuyển tập Đầu tiên lại quan trọng như vậy” Matthew nói. “Jem đã ghi lại dưới dạng mật mã vị trí kho báu của ông ta trong đó”.

Tôi cúi người ra trước. “Athenaide. Những người chủ trang trại đã bán bức thư của Ophelia cho bà… họ có cuốn sách nào không? Bất cức cuốn sách nào?”

Bà quay sang nhìn tôi. “Có”.

“Có phải là một cuốn Tuyển tập Đầu tiên không?”

“Không phải bản gốc. Một bản in lại khá sớm sau đó”.

Chắc chắn là cuốn Tuyển tập Ophelia đã gửi cho ông ta. Không thể khác được. “Bà đã trông thấy nó?”

“Tôi đã mua nó”.

Tôi bật dậy. “Bà có nó? Bà có nó sao? Tại sao bà không nói với tôi?”

“Tôi đã nói với cô là ông ta có vài cuốn sách” Athenaide nói ngắn gọn. “Nhưng cô đã yêu cầu xem giấy tờ của ông ta, vì vậy tôi đưa cho cô giấy tờ duy nhất tôi có”. Bà đặt hai tay ra trước với vẻ khó chịu. “Tôi là một nhà sưu tầm, Katharine. Về phương diện này, tôi nghiêng về sự thận trọng. Nhưng tôi biết cách sửa chữa sai lầm của mình. Chúng ta đang bay tới chỗ cuốn sách nhanh nhất có thể”.

“Đọc nốt câu chuyện đi, Kate” Matthew nói.

Tôi cầm cuốn sổ lên, vừa đọc vừa đi vòng quanh khoang. Ophelia đã gần như phát cuồng, yêu cầu được dẫn tới nơi Jem đã sống, nhưng không ai muốn đưa cô tới đó, hay nói cho cô biết nó ở đâu. Cuối cùng, bà chủ nhà trọ nơi cô nghỉ lại cử một người đi lấy đồ đạc của Jem.

Anh ta quay về mang theo vài cuốn sách. Ophelia ngồi trong phòng khách, đưa trang có chữ kí của cuốn Tuyển tập lên ngọn nến để xem, đúng lúc đó một phụ nữ tóc vàng, nói giọng Pháp, mặc chiếc áo hở vai chỉ phù hợp cho những buổi dạ tiệc mùa đông lao vào. Yêu cầu trả lại đồ cho mình, cô ta vơ lấy những cuốn sách đặt trên bàn. Nhưng Ophelia từ chối giao lại cuốn Tuyển tập, và chỉ cho cô ta thấy chữ kí của cô - Ophelia Fayrer Granville.

“Có thể anh ấy đã cho cô họ của mình” người phụ nữ tóc vàng nói “nhưng tình yêu của anh ấy là dành cho tôi”.

Chỉ trong nháy mắt, cả thế giới như sụp đổ quanh Ophelia. Hầu như không biết mình đang làm gì, cô đi ra khỏi ngôi nhà xuống khu vườn phía sau, dừng lại dưới tán lá dày màu xanh của một cây hồng. Thời điểm hoa nở rộ đã qua, nhưng vẫn còn những bông hoa nhỏ màu trắng héo khô lưu lại giữa tán lá.

“Cho phép tôi đem tới cho cô chút bầu bạn của một người phụ nữ” một giọng nói cất lên.

Lúc đầu em nghĩ anh là một yêu nữ ẩn mình trong cây hồng. Và sau đó, lần đầu tiên em nhìn thấy khuôn mặt nhân hậu của anh dưới bộ râu đã bạc trắng. “Bảo cô ta đi đi” em nói, và anh đã cúi chào rồi quay ra.

“Cô ấy đã đi rồi” anh đã nói vậy khi quay lại. Em không nhớ anh còn nói thêm gì nữa tối hôm đó trong khu vườn, trừ điều này - rằng cây hồng Lady Banks sẽ chịu đựng được cái nóng, cái rét, cái khát mà phần lớn những cây hồng khác không chịu nổi. Và cứ như thế mỗi năm nó lại nở hoa một cách trung thành, hiến dâng một cách ngọt ngào .

“Francis” tôi chợt kêu lên. “Người xuất hiện dưới cây hồng chính là Francis Child”.

“Người đã được đặt tên cho thư viện Child?” Matthew hỏi.

“Hai niềm đam mê của đời ông là hoa hồng và Shakespeare” tôi nói. Francis thân mến , Ophelia đã viết thư cho ông như vậy.

Trong mấy ngày sau đó, họ đã cùng xem xét kiểm tra cuốn Tuyển tập của Jem, nhưng không tìm thấy gì. Cuối cùng, không còn biết phải làm gì, họ đã thuê ngựa và một đội hộ tống gồm bốn người đàn ông được trang bị vũ khí chu đáo, rời thị trấn đi tới khu mỏ mà Jem đã đăng kí sở hữu.

“Có lí đấy chứ, các vị có nghĩ vậy không?” Matthew hăng hái hỏi. “Cho dù ông ta đã tìm thấy cái gì, ông ta đã xác lập quyền sở hữu với nó”.

Đúng là có lí. Tôi đã tìm thấy một thứ , Jem viết cho giáo sư Child. Không phải vàng lúc nào cũng lấp lánh , ông ta đã viết thêm như vậy.

Nhưng Athenaide lắc đầu. “Tôi đã tới tất cả những nơi đó” bà nói. “Tất cả. Không có gì hết. Không hầm mỏ. Không mộ. Không nhà trại. Không có bất cứ dấu vết nào chỉ ra nơi bạn có thể tìm thấy những thứ thuộc về một thi sĩ thế kỉ mười bảy đã được cất giấu”.

Tôi nôn nóng đọc tiếp:

Anh sẽ nhớ những ngày đó như thế nào, ngọt ngào và nóng bức, và buổi chiều cuối cùng chúng ta ở bên nhau dưới thung lũng đầy cỏ với một con đại bàng chao lượn trên đầu, và tiếng người cười nói và vùng vẫy trong làn nước của dòng suối chảy qua ngay bên dưới .

Hãy để em nói với anh những gì em nhớ. Sau khi đã chờ đợi mười lam năm, chỉ trong một buổi chiều, em hiểu thế nào là yêu và được yêu. Em biết điều đó là không thể, nhưng em nhìn thấy những bông hồng trắng rơi xuống quanh chúng ta như những bông tuyết thoang thoảng hương thơm .

Quay lại thị trấn vào tối hôm đó, họ đã gặp một toán ứng cứu trang bị vũ khí còn đầy đủ hơn, và được hộ tống về thị trấn. Họ được biết đêm hôm trước, thủ lĩnh Apache Geronimo đã bỏ trốn, rời khỏi khu định cư với tất cả đàn ông, phụ nữ, trẻ con trong bộ lạc của ông ta. Một toán chiến binh khác đã tấn công phía bắc Sonora, chỉ để lại trong suốt một dải đất dài ở New Mexico những đống đổ nát.

Ophelia và Child chỉ còn một địa điểm nữa cần kiểm tra – khu mỏ Cleopatra. Nhưng chỉ sau mọt đêm, tình hình đã thay đổi. Giờ đây, không ai dám đưa họ ra cách thị trấn dù chỉ một dặm, chứ đừng nói tới các dãy núi. Họ thậm chí cũng không thể thuê được ngựa để tự đi. “Làm thế chỉ phí ngựa tốt” một người đã nói với họ như vậy. Cuộc tìm kiếm của họ đã chấm dứt.

Sau bữa tối yên lặng, Ophelia đã thức trắng cả đêm. Trước khi trời sáng, cô thức dậy mặc trang phục đi đường. Cô để lại cuốn Tuyển tập ở nơi bà chủ nhà có thể tìm thấy, với lời nhắn. “Gửi cho người phụ nữ tóc vàng”. Bên ngoài cửa phòng giáo sư, cô để lại một bông hồng đã khô. Rồi ra đi.

Câu chuyện kết thúc một cách đột ngột. “Giở sang trang sau đi” Athenaide nói.

Một câu duy nhất nổi bật lên trên trang giấy trống trơn:

Sẽ có một đứa trẻ .

Dòng chữ đó quay cuồng nhảy múa trước mắt tôi. “Bà đã không bao giờ nói cho ông ấy biết” Athenaide khẽ nói. “Bà quay trở về nước Anh, lấy một họ mới, và bắt đầu con đường học vấn, giống như Delia trước đây, và bản thân bà cũng đạt được thành công nhất định. Nhưng bà đã không bao giờ quay trở lại khu mỏ thuộc sở hữu của Jem, và cũng không bao giờ liên hệ với vị giáo sư. Bà không chịu nổi cảm giác bị nhìn như bà đã từng nhìn người phụ nữ tóc vàng, bà viết như vậy, hoặc ý nghĩ người vợ của giáo sư sẽ nghĩ về ông như bà đã từng nghĩ về Jem vào buổi tối đầu tiên đó”.

Tôi nhìn lên.

“Bà còn viết một phần cuối cùng nữa” Matthew giải thích, “vào năm 1929”. Ông giở nhanh tới phía cuối cuốn nhật kí, nơi những dòng chữ viết tay một lần nữa lại phủ kín trang giấy. Tôi đọc trang cuối cùng:

... từ lâu đã trở thành một người phụ nữ xinh đẹp. Khi nó hỏi em về cha mình, em luôn bảo con rằng nó là con gái của Shakespeare .

Và em đoán rằng con sẽ theo đuổi sân khấu. Nó đã trình diễn ở London và NewYork với thành công vang dôi - mặc dù cà những điều đó giờ cũng đã thuộc về quá khứ. Thỉnh thoảng, em vẫn tự hỏi nếu anh gặp con, không biết trái tim anh có chợt đập rộn lên trong lồng ngực mà không hiểu tại sao không .

Em đặt tên con để nhớ tới Shakespeare, và những bông hồng mà cha nó yêu thích: Rosalind

Rosalind Katherine Howard .

“Nhưng đó là tên của Roz” tôi kêu lên, chợt cảm thấy hụt hẫng.

“Phải, cô bé yêu quí” Athenaide nói.

Ở cuối trang nhật kí là câu cuối cùng:

Những chuyến đi kết thúc bằng cuộc hội ngộ của những người yêu nhau, tất cả những ai khôn ngoan đều biết vậy .

Tôi gục đầu vào vai Matthew và bật khóc.