← Quay lại trang sách

Chương 39

Lúc tỉnh giấc, tôi thấy mình vẫn tựa đầu vào vai Matthew trên ghế; ông ta đang ngủ. Ở phía đối diện của khoang, Athenaide ngồi cạnh bàn đọc một cuốn sách dưới ánh sáng của ngọn đèn bàn. Tôi ngồi thẳng dậy, cẩn thận không làm Matthew thức dậy. “Bà biết bà ấy” tôi khẽ nói. “Roz”.

Trên khuôn mặt Athenaide nở một nụ cười buồn. Trông chốc lát, trông bà như một bà lão, làn da trán nhăn nheo dính hờ trên hộp sọ. Nhưng đôi mắt bà vẫn tinh tường. “Tôi biết”.

Đứng dậy khỏi ghế, tôi đi tới bên bàn. “Cô gái Rosalind trong cuốn nhật kí - tức là con gái của Ophelia. Cô ấy không thể là Roz của tôi”.

“Không”. Bà mỉm cười và gấp cuốn sách lại. Bà đang đọc cuốn nhật kí của Ophelia. “Trừ khi có một dòng suối hồi xuân. Cô gái đó là bà của Roz. Bà của chúng tôi”. Bà uống một ngụm nước, cẩn thận đặt cốc xuống để không gây ra tiếng động. “Roz là em họ tôi. Và Ophelia - dưới tên Ophelia Howard - là cụ của chúng tôi”.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh bà. “Tôi đã thấy một bức ảnh của bà. Với một chiếc mũ”.

Trong khoảnh khắc, nụ cười của bà trở nên rộng hơn. “Đó là một ngày hạnh phúc. Khi cô ấy vẫn còn kính trọng tôi”. Bà đặt hai hai tay lên trên cuốn nhật kí. “Chúng tôi rất giống nhau về nhiều mặt. Nhưng chúng tôi có những ý kiến khác nhau về con đường đi đúng đắn trong đời. Cô ấy muốn tôi theo đuổi sự nghiệp sân khấu - một giấc mơ cả hai chúng tôi cùng chia sẻ từ khi còn là những cô bé. Dù sao thì bà chúng tôi cũng là một nghệ sĩ sân khấu lớn. Một cái tên nổi tiếng vào những năm 1910, nhưng bây giờ hầu như chẳng còn ai biết đến. Tôi có ngoại hình giống bà”. Bà thở dài. “Roz thì không. Điều mà cô ấy không muốn thừa nhận là thứ cô ấy có, còn tôi thì không: tài năng. Tôi không có trí tưởng tượng và cảm xúc để có thể hóa thân vào những cuộc đời khác một cách thuyết phục. Tôi không phải là một kẻ lang thang, một kẻ lang bạt hạnh phúc. Tất cả các diền viên lớn đều là những người như thế, cô biết đấy. Tôi cần một mái nhà. Một gốc rễ bền chặt” Bà nhìn tôi nhăn mặt. “Và tôi thích tiền. Tốt hơn hay tồi hơn không rõ, nhưng tôi là một doanh nhân”.

“Một kẻ xoay xở kiến tiền. Roz gọi như vậy. Và nhiều cách gọi khác nữa, tàn nhẫn hơn nhiều. Cả hai chúng tôi, nếu gộp lại, rất có thể sẽ tạo ra một nghệ sĩ lớn duy nhất. Tách riêng ra, chúng tôi trở thành một giáo sư và một doanh nhân. Cả hai đều thành công, nhưng không phải thứ thành công chúng tôi mơ ước khi còn nhỏ.

“Tôi gặp cô ấy ở Folger vài ngày trước khi cô ấy chết. Tôi đã đưa cho cô ấy chiếc mũ. Như một hồi ức về quá khứ. Một cây cầu để quay trở lại quá khứ, tôi đã hi vọng như vậy. Tôi nghĩ cô ấy có thể đặt nó lên chiếc giá để ngắm nhìn. Nhưng tôi đáng ra phải biết cô ấy sẽ đội nó. Điều này rất có ý nghĩa, theo kiểu của Roz, vì cô ấy đã từng đội nó khi bắt đầu với sân khấu. Cho dù đó chỉ là một ca thử vai”.

Sự bắt đầu, tôi thầm nghĩ, và cũng là sự kết thúc của bà.

“Chính nhờ nó mà tôi tìm thấy cô” Athenaide nói.

“Nhờ chiếc mũ sao?”

Bà bật cười. “Không. Cuộc hội thảo ở Folger. Tôi biết cô ấy sẽ có một bài thuyết trình về Delia Bacon, vậy là tôi cũng tìm đọc về Delia. Cô biết đấy, chúng tôi đã cạnh tranh với nhau suốt nhiều năm liền. Ăn miếng trả miếng. Tiến sĩ Sanderson cho tôi xem bức thư của Ophelia gửi Emily Folger ngày trước khi ông ấy đi gặp cô ở Capitol. Cảnh nấm mồ vẫn còn hiện rõ trong đầu tôi; và thực ra đó cũng là đầu mối duy nhất tôi có thể giải mã được. Sau đó ông ấy bị phát hiện ra đã chết, còn bức thư và cô đều biến mất. Tôi liên hệ với Matthew, lúc đó đang lo phát điên lên cho cô, và chúng tôi bay tới Stratford chờ đợi. Áp lực với chúng tôi tăng lên, khi cô gọi điện và có vẻ là cô đã đi đâu đó.

“Đó là lúc tôi quyết định tới chỗ ngôi mộ. Để làm rõ… với kết quả mà cô đã thấy”.

Chúng tôi cùng nhìn chăm chú vào cuốn nhật kí đang nằm trên bàn hồi lâu.

“Cô ấy rất yêu mến cô, cô biết đấy” Athenaide nói. “Yêu quí cô và cũng ghen tị với cô, một tình cảm phức tạp mà tôi không chắc cô ấy đã được chuẩn bị sẵn sàng để làm chủ. Cũng không nhiều người có thể làm được điều đó. Cô là một người có thể tới nơi mà cô ấy đã không dám. Chắc hẳn đó là lí do cô ấy đã thúc đẩy cô rời khỏi trường đại học”.

“Bà ấy nghĩ bà ấy muốn tôi hướng sang sân khấu?” Tôi bật cười cay đắng. “Nếu thế bà ấy đã có thể đưa ra những lời khuyên về sự nghiệp”.

Athenaide gật đầu. “Liệu cô có lắng nghe không?”

Tôi mở miệng ra rồi khép lại. Tôi chắc chắn sẽ cho rằng Roz muốn phá hoại sự nghiệp của tôi.

Hệ thống liên lạc nội bộ khẽ kêu, và Athenaide nhấc một máy điện thoại lên. Chúng tôi sẽ hạ cánh sau một giờ nữa. Bà bảo tôi quay lại một trong những khoang ngủ để ngả lưng một chút cho tỉnh táo; chỉ cần liếc qua gương một cái là tôi hiểu tại sao và rên lên. “Tỉnh táo lên” là cách nói giảm nhẹ nhất trong những cách diễn đạt có thể. Cái tôi cần gần như là chỉnh trang lại toàn bộ ngoại hình. Đôi mắt tôi đỏ ngầu và sưng phồng; một bên gò má bầm tím và xây xước. Nước mưa đã làm thuốc nhuộm đen trên tóc tôi chảy xuống thành vệt như lông ngựa vằn vào cổ và áo jacket, dưới những vệt sọc đó, chiếc cáo trông như thể bị cuộn vào một quả bóng dưới đáy giỏ giặt trong ba tuần liền.

Nhưng chiếc vali mà Henry chuẩn bị có vẻ như đã hàng năm này, và đã theo tôi từ London qua Boston tới Utah, từ New Mexico tới thư viện Folger tại Washington rồi tới một chiếc máy bay ở ngoại ô Stratford, đang nằm ở cuối giường, và trong phòng tắm có trang bị vòi hoa sen cỡ tiêu chuẩn. Tôi nhìn chiếc vali với đôi mắt căm hận. Phản ứng trẻ con này là bước đi đầu tiên cho những gì tôi muốn đòi lại từ Henry, và làm tôi cảm thấy khá hơn hẳn.

Dưới vòi hoa sen, tôi nhìn thuốc nhuộm trôi vào ống thoát. Chẳng lẽ Roz, như Athenaide đã nói, muốn tôi rời khỏi trường đại học? Nếu như vậy, bà đã làm được điều bà mong muốn. Điều đó giống như bắc sẵn cầu trước mặt người mình bảo trợ, hơn là đốt chúng đi sau lưng tôi.

Mặc dù tôi đã rời xa khỏi Roz và mọi thứ liên quan đến bà, nhưng chiếc cầu đã luôn hiện ra trước mặt tôi. Sáu tháng trước, Henry đã xuất hiện một cách thần bí vừa đúng lúc để cho tôi một công việc ở West End, rồi sau đó ở nhà hát Quả cầu. Và ngay cả trước đó cũng đã có những khoảnh khắc như vậy, những bước ngoặt trong một sự nghiệp còn non trẻ mà tôi đã cho là vận may của chính mình khi có mặt đúng chỗ vào đúng lúc.

Tôi đã tự hào về việc tự vạch ra con đường đi cho mình trong đời, mặc dù cũng không tránh khỏi ngỡ ngàng trước sự may mắn tới tấp rơi xuống trước bước chân mình như những hạt mưa đậu xuống một cánh hồng. Chẳng lẽ Roz đã luôn âm thầm giúp đỡ tôi suốt thời gian đó? Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được.

Tôi mặc quần jean, áo thun đen và đôi giày đế mềm, rồi nhìn lại vào gương lần nữa. Khá hơn nhiều. Mái tóc của tôi vẫn cụt ngủn, nhưng ít nhất lúc này đã quay trở lại màu đỏ thẫm. Gò má tôi vẫn thâm tím, nhưng ít nhất tôi đã sạch sẽ. Dưới đáy vali, tôi tìm thấy sợi dây chuyền tôi đã mua ở biên giới Nevada - Arizona. Luồn nó qua chiếc trâm, tôi đeo sợi dây quanh cổ và bước ra ngoài.

Ở khoang chính, Matthew đã tỉnh dậy, đang uống cà phê. Ba chúng tôi ngồi xuống quanh chiếc bàn và điểm lại những gì đã biết.

“Tất cả họ đều tham dự vào chuyện này” Matthew nói. “Các bá tước Derby và Oxford, nữ bá tước Pembroke, Francis Bacon, và Shakespeare người Stratford”.

“Phải” tôi nói, ngả người ra sau và dụi mắt. “Nhưng như thế nào?” Jem Granville biết điều này, tôi nghĩ vậy. Nếu may mắn, chúng tôi sẽ tìm thấy tấm bản đồ anh ta để lại về kho báu của mình. Và cho tới lúc trời sáng phải xác định được địa điểm đó. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy những vệt sáng chạy dài ra xa. Đèn chiếu sáng đường băng.

Chúng tôi hạ cánh ở Lordsburg, New Mexico vào lúc khoảng ba giờ sáng. Những ngọn đèn đường nhấp nháy ngoài xa. Gió mùa bắt đầu thổi sớm. Graciela đã đợi sẵn, vài phút sau chúng tôi đã trong xe chạy qua những ngôi nhà thô kệch của Shakespeare và chui vào garage của Athenaide - một nhà kho cũ chứa bột được khoét sâu vào sườn đồi. Một lát sau đó, chúng tôi rảo bước khẩn trương theo sau Athenaide qua mê cung của Elsinore.

Ánh sáng vàng ấm áp tỏa ra khi chúng tôi bước vào đại sảnh. “Lần trước, cô đã nhận ra ngay căn phòng này không phải là Elsinore” Athenaide nói với tôi. “Bây giờ cô đã nhận ra chưa?”

Tôi lắc đầu.

“Đây là một bản sao chép - bản sao rất cẩn thận - sảnh vũ hội trong tòa tháp theo kiểu Norman của lâu đài Hedingham. Ngôi nhà của tổ tiên bá tước Oxford tại Essex, đông bắc London. Một trong những ví dụ hoàn hảo nhất còn lưu lại về kiến trúc Norman”.

Tôi dừng lại giây lát ở ngưỡng cửa, mường tượng ra nơi này, lần này là tịa tư gia của bá tước Oxford. Lâu đài Hedingham của Oxford, nằm bên trong Elsinore của Hamlet, giữa thị trấn ma Shakespeare. Một nơi lí tưởng cho một tỉ phú theo trường phái Oxfordian chơi đùa.

Không phải vì sự hoành tráng của nó - sau khi đã chứng kiến sự lộng lẫy thái quá theo phong cách baroque của dinh thự Wilton, vẻ đơn sơ thời Trung cổ của nơi này trông càng bình dị hơn. Không có nhiều đồ nội thất ngoại trừ một chiếc bàn kê ở chính giữa sảnh, vài chiếc ghế và đệm lót, và những lồng trưng bày dựa vào bức tường phía xa.

Graciela mang tới bữa ăn nguội gồm salad kiểu Nice với cá hồi hun khói, bánh mì mới nướng và chai Pinot Noir ướp lạnh. Những chiếc cốc cô ta mang tới làm bằng thủy tinh màu xanh và trắng, có vẻ như là đồ thủy tinh Venice thế kỉ mười bảy chính hiệu.

Đưa cuốn nhật kí của Ophelia cho tôi, Athenaide đi thẳng tới chiếc két và đặt tay lên máy quét vân tay. chiếc két mở ra với một tiếng tách, và bà lấy ra một cuốn sách. Những trang giấy của cuốn sách đã cong đi vì sức nóng của sa mạc, và bìa sách bọc vải màu đỏ đã sờn và phai màu.

Graciele đã rót vang xong và lui ra ngoài.

Athenaide đặt cuốn sách xuống bàn. “ Vero nihil verius ” bà nói. “Không có gì thật hơn sự thật. Cho dù đó là gì”. Rồi bà đẩy cuốn sách qua bàn tới trước mặt tôi. “Mở ra đi”.