Chương 40
Cuốn Tuyển tập của Jem nhẹ nhàng mở ra tới trang nhan đề. Đối diện với bức tranh khắc chân dung Shakespeare có hai chữ kí: Ophelia Fayrer Granville, viết nhỏ nhắn, nắn nót ở ngay đầu trang, và phía dưới đó, được viết bằng những chữ cái to và rời rạc hơn, Jem Granville . Bên dưới các chữ kí là câu sonnet từ cuốn Tuyển tập ở Valladolid, được viết bằng nét chữ của Ophelia.
“Chắc chắn phải có điều gì đó trong cuốn sách này, và chỉ trong cuốn sách này thôi” Matthew nói. “Jem đã nói ‘kiệt tác thời Jacobean của tôi’”.
Dưới câu thơ và hai chữ kí, không còn gì được viết ở trang này. Tuy nhiên giấy của trang này đã bị cháy xém và đầy vết ngâm nước. Ai đó - có lẽ là Ophelia - hẳn đã cố gắng tìm ra mật mã được giấu bằng cách sử dụng cả nước, một dung dịch tẩy rửa nào đó, và cả bằng cách hơ nóng, và lại biến mất khi để nguội. Athenaide châm một cây nến, và chúng tôi cố gắng hơ nóng trang sách lần nữa. Không có gì hết.
Tôi lật giở các trang sách, cố tìm những ghi chú ở đâu đó. Nơi duy nhất tôi tìm thấy là ở chỗ của vở Hamlet - và những ghi chú này có lẽ là những chú thích cho việc trình diễn của Jem. Mặc dù đã cố gắng đủ kiểu, tôi vẫn không tài nào hướng chúng sang nghĩa khác được. Tôi cầm lấy cốc vang của mình, rảo bước quanh bàn, suy nghĩ. Mật mã chắc chắn phải ở đây. Chắc chắn là vậy.
Mở cuốn nhật kí ra, tôi đọc lại lần nữa câu Ophelia đã trích dẫn từ bức thư của Jem, chính xác như ông ta đã viết: Tái bút. Để em không nghi ngờ anh, trong cuốn kiệt tác thời Jacobean của mình, anh đã ghi lại địa điểm dưới dạng mật mã – 1623, trang kí tên . Tôi cắn môi. Chúng tôi đã bỏ qua điều gì đó.
Điều gì?
Tôi sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để được đọc lại lần nữa bức thư Ophelia gửi cho Emily Folger. Nhưng tôi đã để lại bức thư đó, và cả những bức thư khác, ở chỗ Barnes tại Stratford. Henry chết tiệt. Tôi nhắm mắt lại và cố hình dung lại bức thư. Ophelia đã viết Kiệt tác thời Jacobean của chúng ta, c… 1623 - từ nằm sau chữ c đã bị nhòe mất. Nghe có vẻ đúng, nhưng nếu không có bức thư tôi không thể hoàn toàn chắc chắn.
Bất thần, tôi đặt cốc vang xuống bàn và vội vàng cúi xuống cuốn nhật kí một lần nữa. Trong lời nhắn gửi cho tôi phía sau chiếc thẻ tra cứu của Chambers, Roz đã viết “ Kiệt tác thời Jacobean, c… 1623 ” - ám chỉ Tuyển tập Đầu tiên , và tôi chưa bao giờ nghĩ lại về nó. Không phải là một suy đoán tồi, nếu nghĩ tới chủ đề về Shakespeare, một kiệt tác, và năm 1623.
Nhưng tất nhiên, bà đã sai khi đoán rằng chữ c trong bức thư của Ophelia là viết tắt của “circa”. Và nếu thay vào đó từ “ciphered” theo câu của Jem, thì câu nói này không còn có vẻ hiển nhiên như vậy nữa.
Theo cách hiểu của Roz, 1623 ám chỉ tới kiệt tác. Nhưng theo Jem, đây có thể chỉ là một đầu mối dẫn tới mật mã. Và nếu mật mã là thứ đã có từ khoảng năm 1623, thì cuốn sách sẽ không phải vậy - hay không bắt buộc phải vậy. Như vậy tác phẩm được nói đến ở đây không phải là Tuyển tập Đầu tiên .
“Có mật mã nào tồn tại từ năm 1623 không?” Matthew hỏi, đứng sau lưng tôi nhìn xuống cuốn sách.
“Đó là năm Bacon xuất bản cuốn De Augmentis Scientiarum . Bản Latinh của tác phẩm Tiến bộ của học thức do ông sáng tác”.
Đôi mắt Matthew mở to. “Mật mã của Bacon” ông nói.
“Francis Bacon?” Athenaide hỏi lại.
Tôi gật đầu. Chính Francis Bacon mà Delia và nhiều người khác tôn thờ như là người đứng đằng sau chiếc mặt nạ của Shakespeare - người tôi đã phát hiện ra là một trong những con lợn rừng tạo thành con quái vật chimera. Cuốn Tiến bộ của học thức của ông đưa ra một hệ thống xếp loại, nghiên cứu, và làm chủ toàn bộ hiểu biết của loài người. Và vào năm 1623, bản bằng tiếng Latinh, dài hơn bản gốc bằng tiếng Anh, giới thiệu với thế giới một phần dành cho các mật mã và kí hiệu - bao gồm cả một mật mã do chính Bacon tạo ra.
Giọng tôi lạc đi. “Granville có cuốn Tiến bộ của học thức nào không?”
“Không” Athenaide có vẻ chắc chắn.
“Hay bất cứ thứ gì khác của Bacon?”
“Chỉ có cuốn Tiểu luận ” Bà quay lại chiếc két và lấy ra một cuốn sách khác, mỏng hơn. Tôi hối hả lật qua các trang sách. Sử dụng mật mã của Bacon trong một cuốn sách đã được in có nghĩa là Jem phải có nó để phân biệt một số chữ cái ra khỏi những chữ cái khác. Ông ta buộc phải đánh dấu cuốn sách.
Nhưng cuốn Tiểu luận không có chỗ đánh dấu nào.
Tôi quay lại bàn. “Còn có thứ gì khác từ thời Phục hưng không?”
“Chúng ta cùng xem xem”. Lôi một chồng sách từ trong két ra, chúng tôi bê chúng tới bàn, lần lượt xem qua từng cuốn. Jem Granville là một kẻ chơi bời phóng đãng và vô lại hiếm có, nhưng ông ta cũng là một người có vốn đọc đáng nể so với thời của mình. Bộ sưu tập của ông ta bao gồm những tác phẩm của Tennyson và Browning, Dickens và Trollope, Darwin, Mill, và Macaulay. Nhưng không có thứ gì khác từ thời Phục hưng. Và không có bất cứ cuốn sách nào được đánh dấu một cách rõ ràng, trừ chữ kí của ông ta ở các trang đầu. Không giống như Roz, ông ta không có thói quen viết vào sách.
Hi vọng của tôi lại le lói bùng lên khi chúng tôi kiểm tra tới cuốn Thời Phục hưng của Walter Pater, nhưng cả cuốn sách này cũng chẳng có gì. “Chắc chắn phải có thứ gì khác” tôi tuyệt vọng nói khi lật tới trang cuối cùng. Tôi quay sang Athenaide. “Bà có mua toàn bộ sách của ông ta không?”
“Tất cả những gì mà bà Jiménez biết đã từng thuộc về Granville”.
Thế nếu ông ta không kí tên vào cuốn sách cần tìm thì sao? Nếu nó đã bị thất lạc? Cho đi? Được đọc đến rách nát, hay hiến tặng cho một buổi bán sách từ thiện của nhà thờ? Nó có thể ở bất cứ đâu. tôi cúi người qua bàn. “Hãy hỏi xem”.
“Bây giờ là bốn giờ sáng, Katharine… Ở Arizona là ba giờ”.
“Họ là chủ tại. Chắc họ đã dậy rồi. Hoặc gần như đã tỉnh giấc”.
Athenaide rút điện thoại di động ra. Uống một ngụm lớn vang, bà bấm số. Có ai đó trả lời. “Phải… không”. Mắt Athenaide sáng lên. “Đợi một phút…” Che điện thoại lại, bà nói. “Một cuốn sách. Một cuốn Kinh thánh của gia đình”.
Tôi bắt đầu hiểu ra. “Bản nào?”
“Bà ấy không biết. Một bản cũ”.
“Bảo bà ấy xem xem”.
Tại ngôi nhà trong trang trại của mình ở Arizona, bà Jiménez đã đi kiểm tra cuốn Kinh thánh . Tựa người vào bàn, gần như nín thở, tôi nhìn lên phía trên lò sưởi vào đôi mắt đã chết của Ophelia trong bức tranh của Millais.
“Trang tựa đề” Athenaide nói, “hãy đọc đi. Xuất bản năm 1611 và thường được biết đến là Bản của vua James ”.
Tôi nắm chặt lấy cạnh bàn cố đứng vững.
“Kiệt tác thời Jacobean” Matthew nói, đôi mắt ông sáng lên như chợt vỡ lẽ.
Đúng là nó; không thể khác được. Theo đúng nghĩa đen, vì Jacobean có nghĩa là “Jamesian” trong tiếng Latinh. Kinh thánh của vua James , đã trở thành ngạn ngữ, là kiệt tác duy nhất từng được một hội đồng viết ra. Một trong những việc làm đều tiên của vua James sau khi lên ngôi là yêu cầu các giám mục của mình phải làm gì đó để cải thiện cái mà nhà vua coi là tình trạng đáng buồn phiền của kinh thánh bằng tiếng Anh. Có quá nhiều bản khác nhau, theo suy nghĩ của hoàng thượng, và không có bản nào trong số đó cập nhật những tư liệu mới nhất bằng tiếng Hebrew và tiếng Hy Lạp. Tự coi mình là một học giả và thi sĩ, nhà vua muốn có một bản Kinh thánh vừa chính xác vừa ấn tượng – thích hợp để đọc to lên từ bục giảng kinh. Một cuốn Kinh thánh mà tất cả các cộng đồng thần dân của nhà vua có thể chia sẻ.
Các giám mục đã làm việc tốt hơn nhiều so với mong đợi của bất cứ ai. Trong ba thế kỉ, Kinh thánh của vua James đã ngự trị trong các buổi cầu nguyện của nhà thờ nói tiếng Anh. Đó là lí do chính giải thích vì sao văn phong của Shakespeare vẫn không xa lạ ở nước Anh cũng như các thuộc địa của nó cho tới thế kỉ hai mươi, khi những bản dịch khác xuất hiện và số người đi nhà thờ giảm mạnh. Cho tới tận thời gian đó, những người đi lễ nhà thờ đã nghe đọc Kinh thánh của vua James mỗi Chủ nhật trong các buổi cầu nguyện, và từ vựng cũng như nhịp điệu của tác phẩm này đã tìm đường thâm nhập sâu và thói quen ngôn ngữ và suy nghĩ. Những câu tựa như Phải, cho dù ta đi qua thung lũng bao phủ bóng tối của cái chết… Hãy kính trọng cha mẹ ngươi… Ngươi không được giết… Ngươi sẽ được ban phước lành giữa những người phụ nữ… và Đừng sợ: vì hãy nhìn xem, ta mang đến cho các ngươi tin mừng nghe nếu không giống ngôn ngữ hàng ngày thì chí ít cũng không hề xa lạ hay khó hiểu. Với hàng triệu người nói tiếng Anh, Shakespeare nghe giống như những đoạn hay nhất trong kinh thánh ngày Chủ nhật.
“Từ đây tới trang trại của Jiménez mất bao lâu?” tôi hỏi.
“Hai tiếng đồn hồ” Athenaide nói. “Chúng ta sẽ sớm được một giờ, do đi tới Arizona”.
“Vậy hãy hẹn bà ta chúng ta sẽ có mặt lúc năm giờ”.
“Cuốn sách đó không phải để bán đâu” Athenaide cảnh cáo.
“Chúng ta không cần phải mua nó, Athenaide. Chúng ta cần xem qua nó”.
Bà đứng dậy. Cầm lấy cốc rướu của mình, bà giơ lên như ăn mừng. “ Vero nihil verius ”.
Chúng tôi chạm cốc và uống cạn. Tôi bê một chồng sách trên bàn đem tới cất trả vào két. Matthew cũng làm như vậy.
Đằng sau, tôi nghe thấy tiếng ho và tiếng òng ọc. Tôi quay lại nhìn. Khuôn mặt Athenaide đỏ bừng. Miệng bà mở ra, hai lần, nhưng không âm thanh nào thoát ra. Chiếc cốc đã rơi khỏi tay bà, vỡ tan, và bà ngã lăn xuống sàn.
Chúng tôi chạy ngay tới cạnh bà. Mạch của bà rất yếu, nhưng vẫn đập. Tôi không chắc bà còn thở hay không.
“Gọi 911” tôi nói, quỳ sụp xuống gối.
“Tôi biết hô hấp nhân tạo” Matthew gợi ý.
“Đi ngay!” tôi hét lên. “Và tìm Graciela”.
Sau giây lát do dự, ông ta nhặt điện thoại của Athenaide lên. Đúng lúc đó, ánh sáng tắt phụt.
“Cô có…?” Matthew bắt đầu nói.
“Graciela”.
Ông ta chạy đi.
Tôi mò mẫm ép tim cho Athenaide, rồi cúi xuống hà hơi vào miệng bà. Đôi mắt tôi bắt đầu thích ứng dần với bóng tối. Tôi tiếp tục ép tim rồi hà hơi. Thở đi, chết tiệt.
Tôi ngừng lại nghe nhịp tim, đồng thời cố gắng xem có mạch hay không. Không còn mạch. Không một hơi thở. Không, không, không còn sự sống. Henry đã nói vậy khi nhìn bà Quigley.
Lần này lại khác. Athenaide nằm yên như đang bướng bỉnh ngủ cố, những mảnh cốc vỡ bằng thủy tinh màu xanh và trắng nằm rải rác xung quanh bà, một vũng Pinot loang ra trên sàn. Ánh sáng yếu ớt phản chiếu lại từ những mảnh cốc vỡ.
Matthew đâu rồi? Graciala đang ở đâu? Phải có ai đó, bất cứ ai.
Một giọng nói khác vang lên từ kí ức của tôi. Đồ uống, tôi nghe một giọng phụ nữ kêu lên. Đồ uống! Ôi Hamlet yêu quí - ta bị đầu độc rồi . Gertrude, mẹ của Hamlet, những lời thoại đó đã vang lên dưới ánh nắng mùa hè ấm áp tại nhà hát Quả cầu.
Tôi ngồi thụp xuống kinh hoàng. Bên trong Elsinore, hoàng hậu nằm trên sàn, một cốc vang đổ tràn dưới chân.
Không, tôi không muốn tin. Không thể là Athenaide. Không phải lúc này.
Tôi cúi xuống bà. Thở đi.
Đang quỳ xuống cúi người bên Athenaide, tôi nghe thấy tiếng cọt kẹt nhẹ và một tiếng cạch. Cánh cửa. Matthew đã quay lại. Tôi vừa định gọi ông ta, thì một linh tính bất ngờ ngăn tôi lại. Khi chạy đi, ông ta đã không đóng cửa. Vậy thì không phải cánh cửa ở sảnh đã mở ra. Rồi tôi nhớ ra âm thanh đó: cánh cửa phía trong lò sưởi.
Tôi đứng dậy. Thận trọng, thầm cầu mong không dẫm phải những mảnh cốc vỡ, tôi bước đi trong bóng tối sang căn phòng bên cạnh. Ở gần chỗ này có một cánh cửa nữa, tôi đã thấy Graciela sử dụng nó.
Luồng sáng của chiếc đèn bấm chiếu thẳng vào giữa căn phòng, tôi vội vàng ép sát người vào tường. Athenaide nằm ngữa trên sàn, hai tay dang ra, bộ đồ đang mặc nhăn nhúm dính đầy vang. Có cái gì đó mềm mại cọ vào tay tôi, và tôi lạnh gáy. Tôi liếc nhìn sang. Một tấm thảm. Không còn chỗ nào khác để đi nữa; tôi luồn ra đằng sau nó. Trong bóng tối, tôi hi vọng như thế là đủ.
Tiếng bước chân hướng tới giữa căn phòng.
Luồng sáng của chiếc đèn bấm lướt qua tấm thảm tôi nấp đằng sau rồi biến mất. Cố căng tai ra, nhưng tôi vẫn không nghe thấy gì.
Một lưỡi dao đâm xuyên qua tấm thảm ngay sát vai trái tôi, tôi nhào sang bên, nhưng con dao lại đâm xuyên qua tấm thảm lần nữa, lần này sượt trên da tôi. Tôi lùi lại giơ chân lên đạp mạnh, và giá treo tấm thảm sập xuống, cuốn cả tôi và kẻ tấn công vào trong.
Hắn lại cố đâm tôi qua tấm thảm. Tôi đá lại, nhưng hai bàn tay đã chụp lấy cổ tôi qua tấm thảm. Hắn bắt đầu siết chặt, tôi vùng vẫy đám đã bừa, cảm thấy mình đang chìm dần xuống một dòng xoáy tối đen; những đốm sáng nóng bỏng như nham thạch nổ tung trước mắt tôi. Tôi cố gắng không để bị ngất đi. Tôi sẽ không để hắn biến mình thành Lavinia. Không đời nào. Bàn tay tôi đập phải vật gì đó rất cứng trên sàn nhà. Con dao.
Quờ quạng tìm chuôi dao, tôi chộp lấy và đâm hết sức bình sinh, cảm thấy lưỡi dao lút một nửa vào một vật gì đó. Hắn vẫn chưa chịu buông. Tôi đâm thêm lần nữa. Tôi nghe thấy tiếng rên rỉ lắc nghẹn trong cổ họng, và hắn đổ ập vào người tôi.
Tôi lăn qua người hắn và chui ra khỏi tấm thảm. Ánh trăng chiếu ngập sàn nhà trông như một khối băng. Con dao trong tay tôi trơn nhẫy vì máu. Máu tiếp tục trào ra trên áo sơ mi của người đàn ông nằm dưới chân tôi.
Tiếng bước chân lại vang lên sau lưng tôi, tôi giật mình quay lại, giơ cao con dao sẵn sàng đâm.
Đó là Matthew, chiếc điện thoại vẫn cầm trên tay. “Tôi không thể tìm thấy - Jesus”.
Tôi lùi lai, vẫn vung con dao lên.
“Kate, là tôi đây mà. Ổn rồi”.
Tôi bắt đầu run lẩy bẩy.
Ông ta bước tới, gỡ con dao khỏi tay tôi, rồi ôm chặt lấy tôi trong vòng tay. “Có chuyện gì vậy?”
“Hắn định giết tôi” Tôi chỉ vào gã đàn ông nằm dưới sàn nhà.
Cúi xuống, Matthew kéo tấm thảm ra, và tôi nhìn thấy mái tóc hoa râm.
Đó là Henry.
Tôi giật mình lùi lại.
Matthew quì xuống, kiểm ta mạch. Ngước nhìn lên, ông ta lắc đầu. “Cô nấp sau tấm thảm phải không?”
Tôi gật đầu.
“Polpnius” ông ta nói. Cận thần của nhà vua, kẻ đã bị Hamlet đâm chết đằng sau một tấm thảm.
Tôi hầu như không nghe thấy ông ta nói gì. Tôi đã giết chết một người. Tôi đã giết Henry.
“Athenaide?” Matthew hỏi.
Tôi nhìn ông ta, mắt như hóa dại. “ Gertrude ” tôi thì thầm.
Ông ta đứng lên và vội vàng đi tới chỗ Athenaide. Nhưng cả bà cũng đã chết.
“Kate!” một tiếng hét lớn vang vọng qua những bức tường.
Cả hai chúng tôi nổi da gà. Đó là Ben.
“Hắn ta ở chỗ quái nào vậy?” Matthew thở hắt ra.
Ben lại hét lên lần nữa, và lần này tiếng hét của anh ta vang lên như thể chính tòa nhà đang gào thét. Anh ta đang ở bên trong đường hầm ẩn giữa các bức tường của ngôi nhà, có nghĩa là anh ta có thể đang ở bất cứ chỗ nào. Anh ta có thể lao ra từ bất cứ bức tường hay cánh cửa nào.
“Mang theo chiếc điện thoại” tôi nói. Chộp lấy cuốn nhật kí của Ophelia ở trên bàn, tôi lao tới cửa. Matthew vội vàng chạy theo. Chạy xuống hành lang, chúng tôi hối hả thoát ra ngoài ngôi nhà, căng thẳng quan sát mọi khung cửa, mọi chiếc bóng khẽ lay động. Cuối cùng, chúng tôi tới trước một bức màn đang khẽ lay động, che giữa Elsinore và một nới trông như một gian tửu quán miền viễn tây. Matthew bước tới kéo màn sang một bên. Gian phòng vắng tanh.
Tôi lao qua cửa. Bên ngoài có một chiếc xe đậu sẵn, máy vẫn đang nổ - nhưng có vẻ như trong xe không có ai. Tôi vòng sang bên lái xe, và sững người. Graciela nằm trên mặt đất ngay cạnh cửa lái xe. Cổ họng cô ta đã bị cắt đứt.
Matthew lập tức tới cạnh tôi. Kéo Graciala ra xa chiếc xe, ông ta ngồi xuống ghế lái. Tôi chui vào theo, đẩy ông ta sang ghế hành khách. Tôi vào số, tăng tốc vội vã khiến bánh xe quay tít trên nền rải sỏi, và chúng tôi lao vào màn đêm. Chiếc cổng ở đỉnh đồi đã mở. Chúng tôi lao vụt qua.
Sau đó tôi nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát. Rời khỏi đường, tôi lái vòng qua đồi dừng sau một bụi cây mesquite, rồi tắt máy và tắt đèn. Không phải kín đáo cho lắm, nhưng là chỗ nấp tốt nhất có thể tìm được giữa nơi trống trải này. Đường chân trời đã bắt đầu ràng rạng; nếu ai đó dừng lại để tâm quan sát, chắc chắn sẽ thấy chúng tôi.
“Cô gọi cảnh sát à?” Matthew thì thào.
“Ông cầm điện thoại mà”.
Ông ta cau mày. “Có thể là Graciela gọi, trước khi…” Ông ta im bặt.
Một lúc sau, một chiếc xe cứu thương lao vụt qua, theo sau là cảnh sát địa phương. Không ai dừng lại.
Tôi đợi thêm ba phút. Sau đó, không bật đèn, tôi lái xe trở lại đường. Năm phút sau, chúng tôi đã ở trên đường liên bang hướng tới Arizona.