← Quay lại trang sách

Chương 41

“Chúng ta đi đâu bây giờ?” Matthew hỏi.

“Tới chỗ gia đình Jiménez”.

“Chúng ta có biết họ sống ở đâu không?”

“Chúng ta có điện thoại của Athenaide”.

Ông ta bấm lại số đã gọi, và tôi nói chuyện với bà Jimenez, giải thích rằng Athenaide gặp một chút trở ngại, nhưng chúng tôi đang đến trước… Không hoàn toàn dối trá trong những gì tôi nói với bà ta, nhưng cũng không có gì hoàn toàn đúng sự thật.

Nhưng thế là đủ với bà Jiménez. Bà ta hướng dẫn đường đi cho chúng tôi.

“Cô muốn nói về chuyện đó?” Matthew hỏi khi tôi tắt máy.

“Tôi sẽ không biết gì hơn cho tới khi được xem cuốn Kinh thánh đó”.

“Ý tôi muốn nói tới Henry”.

Hai lòng bàn tay tôi ướt đẫm mồ hôi, và tôi có thể cảm thấy hai bên thái dương giật giật theo từng nhịp tim đập, nhưng tôi lắc đầu. Tôi đã giết một người. Tôi đã giết Henry… Ông ta - hoặc Ben - hay cả hai - đã bằng cách nào đó đầu độc Athenaide và đâm Graciela, và Henry đã định giết tôi. Chúng tôi đã tìm thấy kiệt tác thời Jacobean - hoặc sắp đặt được tay lên nó.

Tôi đã giết Henry.

Tôi nhìn con đường vùn vụt trôi đi dưới chiếc xe. Qua miền nam Arizona và New Mexico, những rặng núi nhỏ chạy ngang dọc trên mặt đất, bao quanh những thung lũng rộng thấp đã từng là những biển kín nông hoặc những chiếc hồ rộng. Chúng tôi lái xe phía tây vòng qua đầu bắc của dãy Chiricahuas, sau đó đi qua sường nam rặng Dos Cabeza. Khi những rặng núi dần dần thấp xuống rồi nhường chỗ cho đất bằng, con đường vòng xuống phía nam. Về phía đông, một quầng sáng bàng bạc hiện lên trên dãy Dragoons. Phía trên, bóng đêm dần dần nhạt đi. Tới chỗ con đường ngoặt về phía đông tới Tucson, chúng tôi tiếp tục đi về phía nam, nhập vào Đường cao tốc số 80. tới vùng đất phẳng có nhiều trang trại St. David, chúng tôi vượt qua một chiếc đầu kéo và tiếp tục lao đi.

Mặt đất lại nhô lên khi chúng tôi đi về hướng Tombstone. Gần tới thị trấn, chúng tôi quay lại hướng đông bắc theo một con đường đất bụi mù, tới rìa phía nam của rặng Dragoons. Bầu trời phía đông đã chuyển sang màu đỏ sậm như máu. Phía dưới, rặng núi chuyển màu đen thẫm. Đó là những dấu tích cồng kềnh nặng nề còn lại của một thế giới cổ xưa hơn.

Chúng tôi gặp một người canh gia súc và chạy ngang qua một tuyến đường dành cho xe tải, một khu nhà kho sẫm màu vì thời gian, những rặng cây mesquite, và những phần máy móc dùng cho nông trại đã han gỉ, những chiếc xe tải cũ, và đồ thắng ngựa. Chúng tôi tới một ngôi nhà mái bằng xây bằng gạch không nung lợp mái tôn nằm dưới tán cây dương. Gắn vào phía trước ngôi nhà, là một khung cửa quét sơn trắng trông có vẻ quen thuộc hơn với một ngôi nhà ở Iowa. Một đám chó cất giọng sủa ẳng ẳng, chạy tới ngửi hít bánh xe, và những con gà vừa nhảy nhót vừa kêu quang quác khi chúng tôi chạy qua. Một phụ nữ tóc đen tròn trịa có nước da nâu mềm mại xuất hiện trên khung cửa, chùi hai bàn tay chai sạn vào chiếc tạp dề. Một người đàn ông gầy cao lêu đêu chân vòng kiềng đội mũ cao bồi, mặc quần jean đi theo sau, trên tay cầm cốc cà phê bốc khói. Bên sườn ông ta đeo một khẩu súng ổ quay kiểu cổ to đùng. Ông ta cầm mũ xua lũ chó, quát chúng im đi, rồi tự giới thiệu mình cùng vợ là Memo và Nola Jiménez.

Bà Jiménez nhìn chúng tôi lo ngại. “Cuốn kinh thánh không phải để bán” bà ta nói, với giọng du dương của một người quen nói tiếng Tây Ban Nha hơn tiếng Anh.

Ông Jiménez gật đầu. “Nó thuộc về cụ của Nola”.

Tôi cúi người ra trước. “Tôi chỉ muốn xem qua thôi”.

Người chủ trại ngắm nhìn những rặng núi đen sẫm. Mái tóc xám của ông xẹp xuống quanh đỉnh đầu, chỗ ông thường đội mũ trong suốt đời mình. “Suốt một trăm năm chẳng ai đoái hoài đến ông Granville. Giờ thì ba người liền chỉ trong có hai tuần. Sẽ công bằng nếu tôi hỏi các vị muốn gì”.

“Ông ấy đã tìm thấy thứ gì đó”.

“Mỏ vàng” bà Jiménez khẽ nói. “Cụ tôi cũng luôn tin rằng ông ấy đã tìm thấy một mỏ vàng”.

“Không có mỏ vàng nào cả” ông Jiménez gắt gỏng. Ông ta nhìn vợ mình rồi quay sang tôi. “Không phải trên đó. Vàng thì có. Nhưng không bỏ công đào bới. Hai hay ba lần đã có người nghe theo những câu chuyện củ rích đó và thử. Nhưng họ đã lãng phí tiền vào những thứ kim loại ít quý giá hơn nhiều.”

Khai thác mỏ vàng là một việc đầy chất phá hủy. Dùng dynamit phá đá và đào hầm. Khoét những hố lớn vào lòng đất. Xin đừng, tôi thầm cầu khẩn, mặc dù tôi không biết cầu khẩn ai, xin đừng để chúng bị phá hủy mất. Tôi nói lớn tiếng, “Không phải là một mỏ vàng, mặc dù ông ấy có thể gây ra ấn tượng như vậy”.

Tôi cầm lấy chiếc trâm đang xâu vào dây chuyền và mở bức chân dung ra. Nhanh hết mức có thể, tôi kể lại cho họ câu chuyện về cha William Shelton, người đã được cử tới miền Tân Tây Ban Nha hoang dã năm 1626, anh ta mất tích trong khi đang đi theo hướng tây nam khỏi Santa Fe cùng một toán lính Tây Ban Nha.

Bà Jiménez đưa tay lên chống cằm. “Santa Fe cách đây rất xa, nếu đi trên lưng ngựa. Hơn nữa, nếu cô tính đến việc phần lớn vùng đất này vẫn chưa được người da trắng khai phá, và đầy người Indian, những người có mọi lí do để căm ghét người Tây Ban Nha”.

“Jem Granville tìm thấy những gì còn lại của đoàn người trong đó có Shelton” tôi nói. “Ông ta đã đăng kí quyền sở hữu nơi đó”.

Bà Jiménez nhìn chồng mình sau đó quay sang tôi. “Chúng tôi có bốn giấy chứng nhận chủ quyền của ông ta ở đây, ngay tại trang trại này. Cụ tôi sở hữu một nhà…” bà lúng túng vò chiếc tạp dề, “nhà trọ ở Tombstone. Ông Granville là một trong những khách trọ của bà. Một kẻ đào vàng, nhưng không giống những người khác. Ông ta từ Anh tới, mẹ tôi kể lại, như thể điều đó giải thích algun luster - vẻ gì đó cuốn hút - ở ông ta” Bà mỉm cười. “Tôi bắt đầu hình dung ông ta với một vầng hào quang lông lẫy. Sau đó tôi hiểu ra cụ tôi là người Pháp, và cụ nhận thấy ở một người châu Âu khác một tâm hồn văn minh khác cũng bị mắc kẹt giữa những người Mỹ quê mùa”.

Bà vuốt thẳng tạp dề. “Cụ luôn nói anh chàng người Anh của mình đã tìm thấy một mỏ vàng. Một ngày ông ta đi vào vùng núi - chính là những ngọn núi kia - và không bao giờ quay trở về. Đó là giai đoạn đang diễn ra cuộc chiến với những người Apache, một thời cách đây không lâu. Vì thế, việc một người ra đi rồi không quay về không phải là điều hiếm gặp. Sau khi ông mất tích, cụ tôi đã thừa kế những di vật của ông. Phần lớn là sách, và vài giấy chứng nhận sở hữu. Sau đó, khi những người Indian bỏ đi, cụ thành hôn với một người đàn ông khác rồi đến lập nghiệp ở trang trại này. Cuốn Kinh thánh đã đến với chúng tôi như vậy đấy”.

“Xin hãy làm ơn – tôi chỉ muốn xem qua cuốn sách thôi”. Trong bóng tối, mọi vật có vẻ như nhích lại gần nhau hơn. Tôi hạ giọng. “Tôi nghĩ ông ấy đã để lại trong đó một thông điệp được mã hóa cho biết địa điểm ông đã tìm thấy đoàn người của Shelton”.

“Tại sao?” ông Jiménez hỏi.

“Vì một thứ Shelton mang theo người” Matthew nói. “Một thứ vàng mười thực sự”.

Hai vợ chồng Jiménez ngây ra nhìn ông ta.

“Một cuốn sách” tôi giải thích. “Một vở kịch đã thất lạc của Shakespeare”.

Trong một lát, không ai nói gì. Sau đó Matthew lên tiếng. “Nếu chúng tôi đúng - nếu đây là đất thuộc sở hữu của các vị - các vị đang có cơ hội kiếm được một gia tài đấy. Tôi không rõ nó đáng giá chính xác bao nhiêu. Những chắc chắn là hàng triệu”.

Ông Jiménez bật cười. “Cho một cuốn sachs?”

“Một bản thảo…” tôi bắt đầu nói, nhưng ngừng lại. “Phải, cho một cuốn sách. Nhưng giá trị của cuốn sách cũng làm nó trở nên nguy hiểm. Có một kẻ nào đó ở ngoài kia sẵn sàng giết người vì nó. Hắn đã giết Athenaide tối hôm qua”.

Bà Jiménez làm dấu thánh. Bên cạnh, ông Jiménez đưa tay nắm lấy thắt lưng, và tôi bắt đầu nhớ tới khẩu súng của ông ta một cách bất an. “Cô đã không nói như vậy sáng nay” ông nói.

“Không, tôi xin lỗi”.

“Cô biết kẻ sát nhân là ai?”

“Tên hắn là Ben Pearl. Tôi không nghĩ hắn biết chúng ta ở đâu, nhưng tôi không dám đoán chắc”.

“Anh không thích chuyện này, Nola” ông Jiménez nói. “Từ những gì chúng ta biết, chính hai người này đã giết chết Senora Preston. Tất cả chỉ vì một cuốn sách” Ông lắc đầu. “Nhưng đó là chuyện của gia đình em. Đó là cuốn Kinh thánh của em”.

Bà Jiménez quay người đi vào trong nhà. Mồ hôi túa ra chảy ròng ròng dọc theo sống lưng tôi. Liệu có phải bà ta để mặc chúng tôi với ông Jiménez? Nhưng một lát sau, bà quay ra. “Tôi không tin các vị là những kẻ sát nhân” bà nói. “Và có rất nhiều thứ chúng tôi có thể làm với một triệu đô la. Phát triển trang trại này theo đúng cách nó xứng đáng, chẳng hạn”. Bà đặt một cuốn Kinh thánh vào tay tôi, bìa cuốn sách đã rạn nứt, phai màu.

Hít một hơi thật sâu, tôi mở nó ra.

Thuở ban đầu Chúa tạo nên trời và đất. Và đất vẫn chưa có hình dáng, và trống rỗng: và bóng đêm che phủ bên trên vực thẳm .

Matthew cúi xuống nhìn và lật sang mặt trong của trang bìa.

Trên đầu trang, một người nào đó đã viết tên mình với nét chữ rõ ràng: Jeremy Arthur Granville. Dưới đó, một cái tên khác được viết bằng những chữ cái to hơn nhưng nét chữ có vẻ không tự tin: Marie Dumont Espinosa. Phía dưới, được viết bằng những màu mực và bàn tay khác nhau, là những dòng ghi lại ngày sinh, ngày cưới, và ngày mất, trải suốt một thế kỉ.

Matthew cau mày. “Nếu có một thông điệp vô hình nào ở đây, thì nó đã bị viết đè lên”.

Tôi vừa lắc đầu vừa lật nhanh các trang sách.

“Nhưng Ophelia nói là trang kí tên” Matthew phản đối.

“Bà ấy đã dẫn lại lời Granville. Ps. Trong cuốn tuyệt tác thời Jacobean của mình, anh đã ghi lại địa điểm dưới dạng mật mã - 1623, trang kí tên . Chúng ta đã nghĩ Ps. có nghĩa là ‘tái bút’. Nhưng Ps. cũng là cách viết tắt chuẩn của Sách các Thánh thi ”. Gần giữa cuốn Kinh thánh , tôi tìm thấy Sách các Thánh thi và dừng lại.

“Và cô nghĩ ông ta đã kí tên mình vào một trong các trang này?”

“Không phải Granville”. Tôi giở tiếp qua vài trang nữa và vuốt cuốn sách mở hẳn ra.

“Ở đây chẳng có chữ kí nào cả” Matthew nói. Vợ chồng Jiménez cũng cúi xuống nhìn.

Tôi chỉ tay vào một bài Thánh thi ở cuối trang bên trái. “Đọc đi”.

Matthew cau mày cúi xuống nhìn. “Thánh thi số bốn mươi sáu” ông ta bắt đầu đọc. “ Chúa là nơi che chở và nguồn sức mạnh của chúng ta, là sự trợ giúp tức thời trong gian khó. Vì thế chúng ta sẽ không sợ hãi, cho dù trái đất biến mất, cho dù những dãy núi bị nhấn chìm giữa biển… Tôi không hiểu gì cả ”.

Phía sau ông ta, bầu trời chuyển sang màu hồng, rồi màu vàng nhạt. “Một, God. Hai, is. Ba, our…” giọng ông ta ngân dài ra trong khi lẩm nhẩm đếm. “Bốn mươi tư, the. Bốn mươi lăm, mountains. Bốn mươi sáu, shake”.

Ông ta nhìn lên.

“Bây giờ hãy đếm ngược lại bốn mươi sáu từ từ cuối lên”.

“Cô đùa đấy à”.

“Đếm đi”.

“Một, Selah”.

“Không phải từ này. Nó là một kiểu ghi chú âm nhạc hay cách diễn đạt bằng tiếng Hebrew - không thực sự là một phần của bài Thánh thi . Kiểu gì cũng đừng đếm chúng”.

“Được” Ông ta bắt đầu lại” … Bốn mươi tư, sunder. Bốn mươi lăm, in. Bốn mươi sáu, spear”. Ông ta ngước mắt lên. “Shakespeare” ông lẩm bẩm. “Trang kí tên”.

Tôi gật đầu.

“Ý cô là Shakespeare đã viết ra Kinh thánh ? Bà Jiménez hỏi, giọng bà hơi sẵng với vẻ không tin.

“Không” Matthew nói. “Cô ấy đang nói rằng ông ấy đã dịch Kinh thánh . Hoặc giúp thực hiện việc này”. Cuốn Kinh thánh được hoàn thành năm 1610, một năm trước khi nó được in. Shakespeare sinh năm 1564. Nghĩa là úc đó ông bốn mươi sáu tuổi”.

“Và như thế là bài Thánh thi số bốn mươi sáu” Matthew nói. “Làm sao cô biết được? Ồ không – tất cả những nghiên cứu cô đã làm về phần huyền bí của Shakespeare”.

Tôi cười buồn. “Tất cả những nghiên cứu mà Roz đã coi là vô dụng”.

Ông ta định phản đối, nhưng ông Jiménez đã chen vào. “Có ai đó đã tô bậy nguệch ngoạc lên trang sách này”.

Đúng là có ai đó đã dùng mực đen tô đậm một số chữ cái nhất định. Trông giống như kết quả đánh dấu sách của một kẻ đãng trí. Nhưng Jem Granville không bao giờ đánh dấu vào những cuốn sách của mình. “Không phải là tô bậy” tôi nói. “Đó là mật mã. Bà Jiménez, bà có kết nối Internet không?”

Bà đứng lên và ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Tới bên một chiếc bàn máy tính, bà bật kết nối Internet rồi bước sang bên nhường cho tôi ngồi xuống.

Tôi gõ các từ khóa Bacon và mật mã vào Google, và chuyên mục Wikipedia về mật mã của Bacon xuất hiện. Với một ví dụ rất dễ hiểu của kiểu mật mã này.

Mật mã của Bacon không yêu cầu mực vô hình hay những thông điệp được hóa trang; với mật mã này, bạn có thể đưa một thông điệp bí mật vào bất cứ văn bản viết nào bạn muốn. Tất cả những gì bạn cần là hai phông chữ hay hai kiểu chữ khác nhau: bây giờ chúng ta hãy gọi kiểu chữ thứ nhất là a, kiểu chữ thứ hai là b. Mật mã sử dụng hai kiểu chữ này theo từng nhóm năm chữ cái liền nhau: Cứ năm chữ cái của văn bản làm nền sẽ tương ứng với một chữ cái trong thông điệp bí mật. Ví dụ: dãy aaaaa có nghĩa là “a”. và dãy aaaab có nghĩa là “b”. Đó là cách mà các chữ cái được in hay viết, chứ không phải bản thân những chữ cái đó. Như thế, bạn sẽ tránh gây ra sự chú ý do những câu ngớ ngẩn đại loại như: “Cô Mabel sẽ ăn một con gà đỏ vào thứ Năm, khi cô đi picnic ở bãi biển Oxford”, những câu như thế chắc chắn sẽ làm bất cứ ai đang đi tìm một mật mã đoán ra.

Lấy một mẩu giấy bỏ đi, tôi viết ra câu đầu tiên của bài Thánh thi , chia các chữ cái thành nhóm năm chữ cái một, thay vì chia thành từ God is our refuge and strength .

G o d I s/ o u r r e/ f u g e a/ n d s t r/ e n g t h

Phía dưới, tôi chuyển mỗi chữ cái không đánh dấu thành a, và những chữ cái được tô đậm là b. Kết quả thu được không có ý nghĩa gì cả. Tôi bèn làm ngược lạ, dịch các chữ cái tô đậm là a, và các chữ cái không đánh dấu là b. Từ đây việc giải mã khá đơn giản, sử dụng chìa khóa mật mã tôi đã lấy từ Internet:

G o d i s = b a a b a = T

o u r r e = a b a a a = I

f u g e a = a b a b b = M

n d s t r = a b b a b = O

Matthew và tôi đều biết chữ cái cuối cùng sẽ phải là gì, nhưng chúng tôi vẫn làm nốt công việc giải mã:

e n g t h = a b b a a = N

“Timon of Athens” Matthew nói. “Ở trang kí tên của bài Thánh thi . Bằng mật mã 1623 của Bacon”.

Timon là một trong những vở kịch ít được biết đến của Shakespeare, tràn đầy buồn phiền và sự cay đắng, kể về một người đàn ông đi từ chỗ vui vẻ cho đi tất cả tiền bạc của mình nhằm giúp những người khác hạnh phúc, đến chỗ khinh miệt cả loài người vì tính biển lận. Đó cũng là tên một những khu mỏ mà Granville sở hữu.

“Một trong những khu chúng sở hữu” bà Jiménez khẽ nói.

Matthew phá lên cười. Gần cuối vở kịch, ông ta giải thích, Timon bị trục xuất và gần chết đói, lang thang bới đất tìm rễ cây ăn và tìm thấy vàng.

Không phải vàng lúc nào cũng lấp lánh , Jem đã viết như vậy. “Ông bà có thể đưa chúng tôi tới đó không?”

Ông Jiménez nhìn bà vợ. Có gì đó không lời được trao đổi giữa hai vợ chồng, rồi ông ta gãi cằm, nhìn ánh bình minh. “Cũng không xa lắm, a vuelo de pájaro - theo đường bay của quạ - nhưng nếu không có cánh mà muốn tới đó thì cũng không dễ. Các vị biết cưỡi ngựa không?”

Bên cạnh tôi, Matthew gật đầu. Ông ta đã lớn lên cùng trò polo.

“Cũng không tồi” tôi nói.

“Memo đã từng dẫn Senora Preston tới đó một lần” bà Jiménez nói. “Bà ấy có nói cho các vị biết không?”

Tôi lắc đầu.

“Bà ấy quả là một người cứng cỏi” ông Jiménez nói. “Mạnh mẽ hơn cô nghĩ khi trông thấy bà. Bà khăng khăng muốn nhìn tận mắt tất cả các khu mỏ của Granville. Bà ấy nói muốn tìm một hầm mỏ, nhưng không bao giờ nói vì sao”. Ông nhún vai. “Như tôi đã nói, không có hầm mỏ nào cả. Không có bất cứ thứ gì để chứng tỏ rằng một trong những nơi đó từng được khai thác. Các vị vẫn muốn đi chứ?”

Tôi gật đầu.

Ông Jiménez đội mũ lên đầu. “ Vasmonos pues ” ông ta nói.