Chương 42
Tới bãi gia súc, chúng tôi giúp ông Jiménez thắng yên cương cho ba con la – ông nói rằng chúng phù hợp cho vùng núi hơn ngựa. Và chịu khát tốt hơn. Sau khi đưa lũ la lên một chiếc moóc kéo, chúng tôi lái xe lên núi.
Chúng tôi kéo lũ la xuống một bãi cỏ xanh rì, siết lại dây thắng trong khi trời sáng dần. Cưỡi la đi dưới bóng của rặng núi, chúng tôi lại ngập trong làn không khí lạnh lẽo với ánh sáng tối mờ. Chúng tôi đi qua những trảng cỏ màu trắng bạc và những lùm cây mesquite tối đen, vòng qua những bụi xương rồng, buổi sáng theo sát sau lưng. Những vách đá màu sáng dựng lên hai bên chúng tôi, và không bao lâu sau chúng tôi đi ngược lên dọc một khe núi hẹp, đáy khe khô khốc phủ đầy cát lẫn những tảng đá cuội lớn. Trong suốt một dặm, hai bên chỉ là những vách núi hầu như dốc đứng, thẳng hoặc có những vết nứt phủ đầy cây bụi.
Cuối cùng, ông Jiménez dừng lại ở một khoảng phình rộng hình cái bát, mọc đầy cỏ, gờ phía trên hẹp lại về phía tây do những tảng đá khổng lồ đổ xuống. “Đây là khu Timon” ông ta nói, rồi xuống khỏi lưng la. Đúng như ông đã nói, không hề có dấu tishc nào của việc khai mỏ. Trên sườn dốc, những loài cây lạ lùng với những cành gai góc khẳng khiu mọc thành hình nón cắm sâu vào lòng đất. Xung quanh, mặt đất lác đác những cây thùa nhờ màu xanh lục sẫm, sắc nhọn như những mũi giáo. Cây roi ngụa và cây dao bầu. “Chỉ có đại bàng và báo, sư tử ở đây từ khi họ đánh đuổi người Apache đi”.
Một tiếng kêu chói gắt yup-yup-yup vang lên trên đầu chúng tôi. Trên cao, một con chim khổng lồ đang sải rộng cánh lượn vòng trên những dòng không khí vô hình. Một con đại bàng vàng. Bầu trời xanh ngắt, nhưng phía dưới quanh chúng tôi, khe núi vẫn trong giấc ngủ rạng đông. Trong khi chúng tôi quan sát, ánh nắng buổi sáng tràn xuống như một dòng thác vàng theo các vách núi.
Phía trên, tôi nghe thấy một tràng tiếng kêu ríu rít và một bầy chim bay dọc khe núi hướng tới chúng tôi với cách vỗ cánh giật giật lạ lùng. Sau đó tôi nghe thấy một tiếng kêu chói tai. Ngay trước mắt chúng tôi, chúng đảo sang trái, lao vút lên, xoay vòng rồi lao vụt xuống theo đường xoáy ốc, biến mất vào lòng đất.
Không phải là chim, tôi đã nhận ra. Những con dơi. Những con dơi lao thẳng xuống lòng đất. Vòng xoáy ốc của những con dơi chuyển động mỗi lúc một nhanh. Rồi biến mất.
Tôi quay sang ông Jiménez. “Có hang động ở quanh đây”.
“Không có hầm mỏ” ông Jiménez khẽ nói. “Nhưng hang động thì có. Thỉnh thoảng cô có thể nghe thấy chúng khi cưỡi ngựa - tiếng móng ngựa gõ xuống đất nghe sẽ khác đi nếu có khoảng trống dưới lòng đất”.
“Athenaide có biết chuyện này không?”
Ông nhún vai. “Bà ấy hỏi tôi về hầm mỏ”.
Tôi bước tới noi bầy dơi đã biến mất. Có một chỗ sụt xuống trên mặt đất, xung quanh mọc đầy những cây mesquite non và những cây bụi nhỏ hơn. Gạt những bụi cây này ra, tôi nhìn thấy một cái lỗ kích thước không lớn hơn đầu mình. Nó phả ra một mùi ẩm mốc, pha lẫn mùi cay xộc mũi.
Cúi xuống ngay sau lưng tôi, Matthew bịt mũi. Cạnh ông ta, ông Jiménez nhấc mũ ra đưa tay lên gãi đầu. “Được rồi, tôi sẽ… Như tôi đã nói, tôi biết có hang động ở quanh đây. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy lối vào”.
Tôi cũng vậy. Nhưng tôi đã nghe đủ nhiều để biết mình đang nhìn vào cái gì. “Ông đã thấy một lối vào rồi đấy”.
“Không hẳn là một lối vào” Matthew nói, “nếu chẳng may cô lớn hơn nhiều so với một con chuột có cánh”.
“Chưa đâu”.
Ông Jiménez gật đầu quay lại chỗ những con la và tháo từ yên ra một cái mai và hai chiếc xà beng. Vừa đâm nhát mai đầu tiên vào đất, chúng tôi nghe thấy tiếng rè rè giận dữ, và ông Jiménez lôi vộ tôi lại đúng lúc một con rắn chuông già mổ xuống đúng chỗ tôi vừa đứng. Một lúc sau, con rắn trườn ra khỏi lỗ hổng và bò vào bụi cây rồi biến mất.
Tôi nhìn theo với vẻ kinh tởm pha lẫn ngạc nhiên. Cleopatra , tôi nghĩ. Mới tối hôm qua, Henry đã định biến tôi thành Polonius. Nhưng thay vào đó tôi đã giết ông ta. Còn sự sám hối nào thích hợp hơn nếu tôi lại để mình bị giết một cách tình cờ theo đúng cách một bà hoàng trong kịch Shakespeare tìm đến cái chết?
“Có còn con nào ở trong đó nữa không?” Matthew e dè hỏi.
Ông Jiménez nhổ nước bọt. “Không chắc. Bây giờ không phải là thời điểm thích hợp để đào hang. Bên cạnh đó, chúng ta làm con rắn bực mình và lao ra. Nếu còn con nào ở cùng với nó, chúng ta hẳn cũng đã làm chúng bực bội”.
Tôi nghĩ tôi cũng trông đợi điều này. Nếu tôi định chui vào hang của nó, tôi sẽ phải cẩn trọng hơn nhiều nếu muốn sống sót quay ra.
Đất xung quanh lỗ hổng khá dễ đào. Tuy vậy, công việc vẫn rất vất vả, vì phải gạt đất đá ra. Phải mất hai giờ để khơi lỗ hổng ra đủ rộng để Matthew có thể chui vào. Bên trong có mở rộng ra. Không nhiều lắm. Nhưng đủ để trườn người vào. Song chúng ta sẽ cần ánh sáng”.
Tôi cúi xuống nhìn vào trong. Ánh sáng tắt đi rất nhanh, sau đó là bóng tối hoàn toàn. Nhưng âm thanh thì không. Đâu đó phía trên, tôi có thể nghe thấy tiếng kêu của những con dơi.
“Hai người đã bao giờ chui vào hang chưa?” ông Jiménez hỏi.
“Tôi đã từng thử” tôi nói.
Ông ta nghiêm nghị nhìn tôi hồi lâu. “Cô chắc chắn mình muốn làm việc này chứ?”
Và đất vẫn chưa có hình dáng, và trống rỗng; và bóng đêm che phủ bên trên vực thẳm . Trong những mùa hè đầu tiên tôi ở cùng bác Helen, tôi đã đi cùng đám con trai ở trang trịa bên cạnh vào một vài hang động. Không phải vì tôi thực sự hứng thú, mà vì chúng đã thách tôi. Tôi chỉ chơi trò này đủ lâu để chứng tỏ mình cũng can đảm không kém gì lũ con trai, rồi dừng lại. Tôi đã học được vài điều cơ bản về khám phá hang động, nhưng dẫu vậy tôi chưa bao giờ là người đầu tiên chui vào - và những hang động đó, mặc dù vẫn có thể coi là hoang dã, đã trở thành chỗ chơi đùa cho đám trẻ vị thành niên táo tợn của cả ba hạt quanh vùng từ năm mươi năm trước. Tôi chẳng có chút kinh nghiệm nào về chuyện tìm đường vào trong một hang động chưa hề được khám phá.
Mặt khác, tôi cũng không thể đợi. Ben chắc chắn sẽ không chờ lâu.
Tôi chậm rãi gật đầu.
“Nếu cô ấy vào, tôi cũng vào” Matthew nói.
“Ông không cần phải làm vậy”.
“Nếu cô định vào trong đó một mình thì đúng là cô dở hơi mất rồi”.
Có lẽ đáng ra tôi nên phản đối thêm. Nhưng nguyên tắc đầu tiên khi thám hiểm hang động là không bao giờ được đi một mình
Ông Jiménez quay lại chỗ những con la, lần này mang theo hai chiếc mũ bảo hộ cũ đã trầy xước nhiều chồ. Loại có gắn đèn. “Của lũ con trai tôi” ông nói. “Nola nghĩ mang theo có thể sẽ có ích. Đồ cũ, nhưng đèn thì còn mới”.
“Nhưng chỉ có hai chiếc” tôi nói.
Ông Jiménez buộc chiếc mai trở lại yên. “Tôi sẽ không đi cùng hai người. Tôi không có hứng thú để bị vùi dưới lòng đất. Tuy thế tôi sẽ đưa cho hai người một chiếc bộ đàm. Khi các vị quay ra, hãy gọi tôi, và tôi sẽ quay lại đón hai người”.
Ông hướng dẫn tôi cách sử dụng chiếc máy bộ đàm hai chiều, và chúng tôi tìm một chỗ hợp lí để nó lại, giữa mấy tảng đá. Sau đó ông ta leo lên la và quay về, mang theo cả ba con la.
Tôi tận hưởng cảm giác nắng và gió ngấm vào từng thớ vải trên quần áo cũng như toàn bộ cơ thể mình; tôi sẽ phải đợi khá lâu để có lại cảm giác đó lần nữa. Quan sát chân trời, tôi không nhìn thấy gì ngoài những cơn gió đang thổi qua những trảng cỏ xơ xác, và cao tít trên đầu, con đại bàng vẫn đang chao lượn. “Anh ta đang ở ngoài kia, ông biết đây” tôi khẽ nói. “Ben. Anh ta đang tới”.
Roz đã đổi tên mình , anh ta đã thì thầm như vậy trong thư viện. Có lẽ chúng ta cũng nên đổi tên cho cả cô nữa . Thành Lavinia. Mặc dù đang đứng dưới ánh nắng, tôi vẫn rùng mình nổi gai óc.
“Này” Matthew quàng một cánh tay lên vai tôi và kéo tôi lại bên cạnh ông. “Hắn sẽ phải vượt qua tôi nếu muốn đụng vào cô”.
Sau lưng Matthew, cửa vào hang âm u trông như một lỗ đen thuở khai thiên lập địa. Người yêu của Lavinia đã bị giết chết ngay trước mắt cô và vứt lại dưới đáy một hang sâu như thế giữa rừng hoang. Một hang sâu tối tăm, khát máu. Shakespeare đã gọi nó như vậy. Sau đó cô gái… Tôi rũ bỏ ý nghĩ đó ra khỏi đầu và gượng mỉm cười với Matthew. “Cảm ơn”.
“Bây giờ tới lượt Shakespeare” ông ta nói, cúi xuống hôn tôi.
Bây giờ tới lượt sự thật , tôi thầm nghĩ, cho dù nó là gì đi nữa .
Chúng tôi đội mũ bảo hộ lên đầu và bật đèn. Tôi cẩn thận luồn dây chuyền có treo chiếc trâm vào trong áo sơmi. Sau đó chúng tôi chui vào bóng tối.