← Quay lại trang sách

Chương 43

Bóng đêm che phủ bên trên vực thẳm .

Lòng hang hình ống phía trong phủ đầy đá sỏi và dốc xuống dưới vào sâu trong lòng đất. Vách hang chật chội ôm khít lấy chúng tôi, vì vậy chúng tôi buộc phải bò ép sát bụng xuống; ở đôi chỗ, lòng hang chật đến mức tôi phải nín thở thót bụng lại để trườn người qua các tảng đá. Không khí bên trong ẩm ướt, thoang thoảng mùi mốc. Ở phía trên, tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng những con dơi kêu chí chóe. Ánh sáng của chiếc đèn trên mũ chỉ chiếu xa được chừng vài mét; sau đó, bóng tối dường như là một thực thể sống động, độc ác, chất chứa những cơn thịnh nộ cổ xưa đang ngủ say dưới lòng núi. Chúng tôi bò như vậy chừng một giờ, cũng có thể là hai, mặc dù có lẽ chúng tôi chưa đi được quá nửa dặm Anh. Ở đây thời gian không còn ý nghĩa nữa.

Bất chợt, hai bàn tay tôi trượt đi trên một thứ đất lổn nhổn bẩn thỉu, và mùi amoniac nồng nặc xộc thẳng vào phổi. Vách hang đã biến mất - ít nhất ở phía trên đầu và hai bên. Tôi ngước mắt nhìn lên trên rồi vội vàng cúi xuống. Trên trần hang đậu đầy dơi, chen chúc nhau chật ních như một tổ ong, những đôi mắt sáng quắc nhìn chằm chằm xuống dưới. Khi luồng sáng chiếu vào chúng, chúng lao xuống thành một đám đen đặc quay cuồng kêu ầm ĩ váng óc trên đầu chúng tôi. Tôi ngồi dậy, quỳ hai đầu gối vào vũng đất bẩn, nhắm tịt hai mắt lại, hai tay bịt chặt lấy tai cho đến khi đám dơi dần dần bình tĩnh trở lại.

Rồi tôi nhận ra đám lổn nhổn dưới chân đang chuyển động.

Không phải là đất. Mà là phân dơi. Đám phân dơi lúc nhúc những con dế, rết và nhện bò lổm ngổm, tất cả đều trong suốt và mù lòa.

Nhanh hết mức có thể, chúng tôi bò bằng cả tay chân qua cái hang đó, cố gắng không nghĩ đến đám côn trùng đang lúc nhúc bên dưới cũng như tiếng cánh dơi đập phành phạch trong không khí trên đầu. Cái hang này kì thực cũng không lớn lắm, chỉ dài chừng mười đến mười lăm mét; không bao lâu sau chúng tôi tới một đường ống hẹp nữa dẫn sâu vào lòng núi. Chúng tôi phải trèo qua mấy tảng đá để tới được miệng đường ông. Tôi chui vào, tựa lưng vào vách đá thở hổn hển.

“Cô có muốn dừng lại không?” Matthew hỏi.

Trong bóng tối, trước mắt tôi lại hiện lên tiến sĩ Sanderson và bà Quibley, cả Athenaide nữa. Đi tới nơi nó dẫn cô , giọng nói của Roz thì thầm vang lên. Nhưng tôi không thể mường tượng ra khuôn mặt của Roz. Tôi lắc đầu và đứng dậy. “Đi thôi”.

Lần này lối đi đủ cao để có thể bước đi lom khom, một tay đỡ lên trần, đầu cúi để luồng sáng chiếu xuống dưới chân. Ở đây phân dơi chỉ còn rải rác, rồi biến mất hẳn. Lũ dơi không thể chui sâu vào hang tới tận đây.

Đường ống này chạy quanh co với nhiều chỗ ngoặt. Tay tôi chợt cảm thấy khoảng trống, và tôi dừng lại. Trước khi tôi kịp giữ ông ta lại, Matthew đi quá tôi và bất ngờ loạng choạng trượt xuống một rìa dốc. Tôi vội vàng với tới ông ta, chộp lấy cánh tay và cả hai chúng tôi cùng ngã nhào ra sau vào trong đường hầm. Một hồi lâu, chúng tôi nằm đó thở dốc.

Matthew nhổm dậy trước tiên.

“Đừng làm như vậy một lần nữa” tôi nói qua hai hàm răng siết chặt. “Tôi dừng, ông dừng”.

“Được thôi”.

“Tôi nói nghiêm chỉnh đấy. Nếu ông không cẩn thận với một cái hang, nó sẽ giết chết ông ngay lập tức. Hoặc nếu ông thực sự không may thì sẽ chết một cách từ từ”.

“Được rồi. Tôi xin lỗi. Nhưng cô đã bao giờ nhìn thấy cái đó chưa?”

Tôi ngồi dậy nhìn.

Phía trước chúng tôi không phải là một khe nứt mở xuống một vực sâu không đáy, mà là một bờ dốc chừng một mét, dưới đáy là một lớp bùn mịn, sau đó dốc ngược lên ra phía xa, trông giống như bằng đá cẩm thạch được mài nhẵn. Có vẻ như chúng tôi đã đến đoạn tận cùng của một hang động khổng lồ. Tôi không thể hình dung ra là lớn đến đâu - ngoại trừ màn đêm ở đây gây ra cảm giác trống rỗng thay vì áp lực nặng nề. Đất vẫn chưa có hình dáng, và trống rỗng .

Nhưng điều đó không đúng. Mảng vách hang tôi có thể trông thấy được bao phủ bởi một thứ trông như những tấm rèm gợn sóng lăn tăn làm bằng thủy tinh nấu chảy, lấp lánh ánh đỏ, cam và hồng, vàng và vàng nhạt dưới ánh sáng ngọn đèn trên chiếc mũ của tôi; tất cả các sắc màu của ánh sáng mặt trời mà gian động này chưa bao giờ biết đến.

“Xin chàoooo!!!” Matthew gọi, và tiếng vang vọng lại hàng nghìn lần, lan rộng ra trong không gian rộng lớn của hang.

Để đáp lại, tất cả những gì chúng tôi nghe thấy là một tiếng nước bắn, cũng bị khuếch đại lên và lặp đi lặp lại, tiếng rơi nặng nề như một cú nện búa, khiến nơi yên tĩnh đã được thiên nhiên tạo ra từ rất lâu trước khi xuất hiện loài người đột nhiên tràn ngập những tiếng động như trên thảo nguyên hoang dã châu Phi.

Matthew đưa tay chỉ về phía trước. Cách chúng tôi không xa, một vệt vết chân chạy vào hang từ bên trái. Có ai đó đã tới đây trước chúng tôi.

Tôi thận trọng trườn người xuống bờ dốc. Chân tôi ngập xuống bùn đến tận mắt cá. Thật may thứ bùn này rất mịn và không trơn trượt. Tôi bước lên vài bước về phía trước, cố gắng bám sát vách hang, và nhận ra chúng tôi đã chui vào hang động lớn này từ phía sau khoảng không gian giống như vịnh nhỏ - một hốc nhỏ rỗng khoét vào bên vách thánh điện chính của nhà thờ lớn. Phía trước và phía sau tôi, những cột trụ bằng đá ẩm ướt lấp lánh vươn cao lên quá tầm ánh sáng ngọn đèn của tôi có thể vươn tới và hòa lẫn vào bóng đêm.

Chạy ngang qua trước chúng tôi là một vệt bước chân nữa. Chúng tôi đang lần theo dấu vết của những người quá cố chứ không phải một ngôi đền, vì vậy tôi rời khỏi góc hang ra gian động giữa. Mặc dù lúc trước trần hang đã rất cao, nhưng bây giờ nó trở nên không thể tưởng tượng nổi. Tôi cúi xuống xem xét các vết chân.

Dấu ủng. Hai đôi - nhưng sau đó tôi cúi lại gần hơn nữa. Hai người đã đi vào, nhưng chỉ có một người đi ra. Không phải - cùng một đôi ủng đã đi vào hai lần, theo đúng một vệt đường. Cùng một người đã đi vào hai lần. Nhưng chỉ quay ra có một lần. Chúng tôi đứng lặng yên một lát trước vệt bước chân. Sau đó tôi quay người đi vào trong hang.

Chúng tôi thận trọng đi tránh sang bên vệt bước chân cũ. Vệt chân này trên phần lớn quãng đường men sát vách hang hoặc luồn giữa những cột đá. Nhưng từ sau một cột đá to bằng thân cây sequoia, một vệt bước chân duy nhất chạy thẳng vào bóng tối. Tôi liếc nhìn Matthew rồi đi theo nó.

Chúng tôi không phải đi xa.

Đầu tiên tôi nhìn thấy xương sọ. Ông ta nằm ở đúng tư thế lúc chết, tựa vào phía sau cột đá, quần áo mặc trên người đã trở thành những mảnh mục nát nằm rải quanh bộ xương. Một khẩu Colt ổ quay nằm ngay bên cạnh. Nhưng chính từ chiếc khóa thắt lưng mà chúng tôi biết danh tính người quá cố. JG.

Jem Granville.

Không có dấu vết rõ ràng nào giải thích nguyên nhân cái chết. Không có lỗ đạn nào trên xương sọ hay một mũi tên cắm xuyên qua người. Không có cuốn sách nào cả. Kiểm tra túi áo của ông ta chúng tôi cũng không tìm thấy bất cứ giấy tờ nào.

“Khốn kiếp” Matthew nói. “Giờ thì sao?”

Một tiếng động nữa vang vọng trong hang động. “Đi tiếp” tôi kiên quyết nói.

Chúng tôi cố gắng đi nhanh nhất có thể, lần theo vệt bước chân của ông ta - lúc này gồm một vệt đi vào và một vệt đi ra - vào sâu trong hang. Ở đầu tận cùng phía đối diện, chúng tôi tới trước một đống đá vụn dốc thoai thoải hướng lên trần. Những vết ủng dinh bùn dẫn lên trên. Tôi bước lên trên đá vụn, trèo lên cao. Một tảng đá đặt chân rời ra, và chúng tôi vội vàng nằm bẹp xuống trong khi một trận mưa những hòn đá nhỏ và sỏi ào ào rơi xuống vũng bùn phía dưới. Chúng tôi nằm im trong khi tiếng động xung quanh lặng dần. Thật ngu ngốc. Cực kì ngu ngốc. Đặc biệt là sau màn lên lớp nho nhỏ của tôi với Matthew. Chỉ cần trượt chân, và thế là một mắt cá chân có thể bị trẹo, một đầu gối có thể trật khớp, và một người hay cả hai chúng tôi có thể đã bị chôn cứng dưới lòng đất.

Sau đó, chúng tôi gần như dùng cả tứ chi đề trườn lên một cách chậm chạp, kiểm tra từng tảng đá. Cuối cũng, sau khi đã leo lên cao chừng mười tám mét, chúng tôi tới sát trần. Thứ mà ở phía dưới chúng tôi đã tưởng một cái bóng hóa ra lại là một khe hở. Hai tảng đá phẳng đã tách ra ở vài chỗ, để hở một khe hình chữ V, phần đáy đã bị đá vụn lấp đầy.

Những dấu chân dính bùn hướng về phía trước lẫn vào bóng tối. Chúng tôi lần theo chúng, vặn người trườn lách trong khi không khí cạn đi xung quanh chúng tôi, còn những vết chân mờ dần và bở ra như bột. Chúng tôi nhận ra mình đang ở giữa sàn hang và trần phía trên trong một “căn phòng” nhỏ hơn - có thể coi như “phòng cất đồ thánh” của “nhà thờ” phía dưới. Dưới chân chúng tôi, một dòng thác đá ào ào đổ xuống. Ở bên trái, đá đổ xuống một bờ rìa rộng, cao chừng một mét rưỡi hay hai mét, chạy dọc một phía hang. Dựng theo vách hang là những cột đá giống như những cột trang trí hang động lớn phía dưới - nhưng ở đây, các cột đá khô và lạnh ngắt đầy vẻ chết chóc, giống như những xác ướp hay cánh bướm đã chết khô từ lâu. Về bên phải, thác đá trải ra xa hơn, rơi cả xuống sàn hang động bên dưới. Tuy nhiên, ở chính giữa, có ai đó đã tạo ra một chút ngăn nắp giữa cảnh hỗn độn: một vòng tròn được ghép lại từ những tảng đá ám khói đen sì, dấu tích còn lại của một đống lửa trại xa xưa. Xa hơn một chút, ở trên cùng một đống xương, hai chiếc xương sọ ngựa đang nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Làm thế nào chúng có thể tới được đây? Xa hơn nữa, hang động kết thúc bằng một đống đá tảng lớn. Có vẻ như không có lối ra nào: hang động này là một ngõ cụt.

Tôi đi xuống phía trái, đi ra gần rìa đá. Matthew theo sau. Hai ngọn đèn trên đầu chúng tôi tạo ra những chiếc bóng dài nhảy nhót sau những cột đá. Phía sau chúng, ở gần phía sau rìa đá, có vài đống đá. Khi chúng tôi tới gần, tôi đếm được năm đống. Chúng đã được xếp thành hình thon dài bởi một bàn tay nào đó khéo léo hơn bàn tay của thiên nhiên. Và ở trên mỗi đống đá có đặt một chiếc mũ sắt có vành cong lên nhọn hoắt ở hai đầu. Mũ sắt của những nhà chinh phục Tây Ban Nha.

“Đây là một ngôi mộ” tôi thì thầm, và lập tức những vách đá chộp lấy lời tôi nói và rải chúng vang ra khắp xung quanh.

Ở dưới chân mỗi ngôi mộ có xếp một đống trang bị - một thanh kiếm, một chiếc áo giáp mạng sắt, một túi bằng da đã mục nát. Matthew quỳ gối xuống và bắt đầu thận trọng nhìn qua đống đồ đạc. Tôi đi qua, nhìn vào từng ngôi mộ, tự hỏi thầm về những người lính nằm bên dưới.

Khuất sau một cột đá ở góc trong cùng, tôi bắt gặp ngôi mộ thứ sáu.

Hẳn là người cuối cùng, vì ông ta không còn ai để lấy đá lấp mộ cho mình. Ông ta cũng không có một chiếc mũ sắt để làm bia mộ. Tuy thế, ông ta đã thu xếp để mình nằm ngửa thẳng người, hai tay xếp lại trước ngực. Người đàn ông này mặc một chiếc áo dài xám có mũ trùm được kéo sụp xuống quanh đầu khiến tôi chỉ có thể thoáng nhìn thấy hốc mắt của xương sọ chằm chằm nhìn ra từ bên trong. Người đàn ông này trông rất giống thần Chết, ngoại trừ việc những ngón tay xương xẩu của ông ta cầm một tượng chịu nạn lớn bằng gỗ thay vì một lưỡi hái.

Có phải đây chính là chàng trai trẻ tóc vàng mà những bài sonnet đã ngợi ca hay không?

Dưới chân ông ta có một chiếc túi hai ngăn. Một loại túi dùng để treo lên yên ngựa.

Tôi quỳ xuống mở một bên túi bằng những ngón tay run rẩy. Đó là một cuốn sách. Tôi từ tốn lấy cuốn sách và mở ra.

Nhà quý tộc tài ba

Don Quixote

Người Mancha

Do Miguel de Cervantes Saavedra sáng tác.

Kẹp vào cuốn sách là một tập giấy. Tôi giở chúng ra. Những trang bản thảo được viết bằng kiểu chữ gò bó khó đọc. Kiểu chữ thư kí. Ở đầu trang bản thảo đầu tiên chỉ có một từ:

Cardenio

Bên dưới, bản thảo được viết bằng tiếng Anh : Don Quixote và anh hầu Sancho bước vào .

Tôi dò dẫm tìm chỗ ngồi xuống, tim đập thình thịch, cổ họng kho rát. Vở kịch thất lạc. Không nghi ngờ gì nữa.

Vở kịch bắt đầu, giống như trong cuốn sách của Cevantes, với việc nhà quý tộc cùng anh hầu trông thấy một chiếc hòm da rách tả tơi giữa vùng núi non hoang vu. Trong chiếc hòm có một chiếc khăn tay gói đầy vàng, và một cuốn sổ bìa trang trí cầu kì.

Hãy giữ lấy vàng, anh bạn Sancho, nhà quý tộc nói. Ta sẽ giữ cuốn sách .

Đúng như Jem Granville đã nói: một bản thảo thời Jacobean của vở kịch Cardenio … vở kịch bị thất lạc của Shakespeare.

“Matthew” tôi khẽ gọi. “Xem này”.

Ông ta không trả lời.

Tôi quay lại nhìn. Matthew không còn ở chỗ ngôi mộ nơi tôi đã rời khỏi ông ấy. Tôi cũng nhận ra chiếc đèn trên mũ tôi là nguồn sáng duy nhất trong hang lúc này. Đứng dậy, tôi quay lại vài bước. “Matthew?”

Nhưng không còn ai khác trong hang. Rồi cảm giác có những đôi mắt đang theo dõi khiến tôi nổi gai óc. Khắp xung quanh mình, vang vọng lại từ các vách đá và những tảng đá rơi, tôi nghe thấy tiếng lưỡi dao được rút ra khỏi vỏ.