← Quay lại trang sách

Chương 4 TÌM KIẾM

Căn nhà ở ngõ Gái Góa không phải là nơi cư trú thường ngày của Rodolphe. Ông thường sinh hoạt tại một trong những tòa nhà lớn nhất của khu ngoại ô Saint-Germain, cuối phố Plumet.

Để tránh những nghi lễ đã quy định đối với các bậc vương giả, ông đã giấu kín tung tích từ khi đến Paris. Đại biện* của ông bên triều đình Pháp đã thông báo rằng nguyên thủ quốc gia của mình sẽ tiến hành những cuộc thăm hỏi xã giao chính thức cần thiết với danh nghĩa Bá tước Duren.

Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao cấp ba, thấp hơn Đại sứ và Công sứ.

Nhờ thông lệ khá quen thuộc như vậy ở các Triều đình Bắc Âu, một vương công đi đây đi đó vừa tự do thoải mái lại vừa thoát được những phiền toái của yêu cầu giao tế.

Tuy cũng muốn giấu kín hành tung nhưng Rodolphe vẫn phải tôn trọng lề thói mà sắp xếp nhà cửa đàng hoàng sang trọng.

Chúng tôi xin mời độc giả vào thăm căn nhà lớn ở phố Plumet một hôm sau ngày Chọc Tiết đi Algérie.

Đồng hồ mới mười giờ sáng.

Giữa một gian phòng lớn ở tầng trệt, án ngữ văn phòng của Rodolphe, ông Murph ngồi sau một bàn giấy rộng, đang niêm phong các văn thư.

Một người môn lại, mặc lễ phục đen, cổ đeo dây chuyền bạc, mở rộng hai cánh cửa phòng đợi và thông báo:

– Ngài Nam tước de Graün!

Ông Murph không bỏ dở công việc, chào ông Nam tước bằng một cử chỉ thân mật và vồn vã, mỉm cười:

– Thưa ngài Đại biện, mời ngài sưởi ấm chút đã, lát nữa tôi sẽ xin hầu ngài.

– Thưa ngài Bí thư, tôi chờ lệnh của ngài. – Nam tước de Graün vui vẻ đáp lời, nửa đùa nửa rất lễ phép, cúi chào thật thấp nhà quý tộc đáng kính.

Nam tước khoảng năm mươi tuổi, có bộ tóc xám, thưa, rắc phấn đôi chút và hơi uốn bồng, cằm dô che lấp một nửa sau cà vạt quấn cao bằng lụa mousseline hồ bột trắng tinh. Nét mặt thanh tú, tư thế phong nhã, sau cặp kính gọng vàng lóe lên ánh nhìn vừa tinh quái vừa sắc sảo. Tuy đã mười giờ sáng, Nam tước de Graün vẫn mặc áo choàng đen theo lễ tiết quy định, một huy hiệu nhiều màu nổi bật trên ve áo bên trái. Nam tước đặt mũ trên một chiếc ghế và đến gần lò sưởi, trong khi đó Murph vẫn tiếp tục công việc.

– Đêm qua, có lẽ Điện hạ làm việc rất khuya, phải không, ông Murph thân mến! Công văn giấy tờ nhiều thế cơ mà?

– Điện hạ mới đi nghỉ lúc sáu giờ. Ngoài những thư khác, ngài đã viết một lá thư dài tám trang cho Đại thống chế và lại còn đọc cho tôi viết một lá thư nữa dài không kém, cho Chủ tịch Hội đồng Tối cao.

– Tôi có nên đợi Điện hạ dậy để bảo cho Người biết những tin tức mà tôi mới thăm dò được không?

– Không cần đâu, thưa Nam tước thân mến! Điện hạ đã ra lệnh không được đánh thức Người trước hai hay ba giờ chiều. Ngài muốn Nam tước sẽ cho gửi đi những giấy tờ này ngay sáng hôm nay bằng chuyến xe riêng không nên đợi đến sáng thứ Hai. Nam tước truyền đạt cho tôi những chi tiết thu lượm được, tôi sẽ trình lại Điện hạ, sau khi Người thức dậy. Lệnh của Người là như thế đấy!

– Tuyệt quá! Điện hạ sẽ hài lòng về những điều tôi sẽ trình Người. Nhưng này, ngài Murph thân mến, tôi hy vọng rằng trong chuyến công văn chuyển đi này không có tin xấu. Còn những tin tức mới đây mà tôi đã có vinh dự chuyển đến Điện hạ thì…

– Báo rằng mọi việc ở “đâu đó” ngày càng tốt; và vì thế mà Điện hạ nhất quyết phải bày tỏ càng sớm càng hay, sự hài lòng của Người đối với Chủ tịch Hội đồng Tối cao, với Đại nguyên soái và Người còn muốn rằng Nam tước phải chuyển thư đi ngay ngày hôm nay đấy!

– Tôi nhận ra ngay tính cách của Điện hạ qua kiểu làm việc như vậy. Nếu lá thư khiển trách thì Người sẽ không vội vã như thế đâu, vả chăng chỉ có mỗi một lời đánh giá về chính sách cai trị kiên quyết và khôn khéo của các nhà cầm quyền lâm thời ở nước chúng ta hiện nay. Cũng đơn giản thôi, – Nam tước mỉm cười, nói tiếp – chiếc đồng hồ loại cực tốt và đã được Điện hạ điều chỉnh hoàn bị, chỉ cần lên dây cót đều đặn hàng ngày là nó sẽ chạy chính xác, không nhanh, không chậm, ổn định, chắc chắn để tiếp tục chỉ đạo thời gian biểu và công việc cho mỗi ngày, cho mỗi người chúng ta. Trật tự, kỷ luật trong bộ máy Nhà nước lúc nào cũng tạo ra niềm tin và sự bình tĩnh trong dân chúng; đó là những điều tôi hiểu được qua các tin tức tốt đẹp mà ông vừa cho tôi hay.

– Thế còn ở đây, không có gì mới hay sao, thưa Nam tước thân mến, không có gì bị tiết lộ ra ngoài chứ? Những việc phiêu lưu, bí ẩn của chúng ta ấy mà!

– Hoàn toàn không có ai biết! Từ khi Điện hạ đến Paris, người ta đã quen với việc hiếm thấy Người xuất hiện ở một số gia đình rất hạn chế để thăm hỏi xã giao; người ta tin rằng Người rất muốn được yên tĩnh, rằng Người hay rong chơi ở ngoại thành. Điện hạ đã khéo léo tách ra được các thị thần và sĩ quan tùy tùng, hai người này từ Đức mới theo Người sang đây.

– Họ có thể là những nhân chứng khá khó chịu cho chúng ta.

– Vì thế, ngoài Bá tước phu nhân Sarah Mac-Gregor và anh trai của bà ta, ông Tom Seyton de Halsbury và Karl, tên tay chân mù quáng của họ, không còn ai biết đến sự giả trang của Điện hạ nữa, mà cả Bá tước phu nhân, cả anh bà ta, cả Karl đều chẳng có lợi gì để có thể tiết lộ những bí mật ấy.

– Chà! Ông Nam tước thân mến ơi. – Murph mỉm cười. – Thật đáng buồn là bà Bá tước trời đánh ấy lại góa chồng vào đúng lúc này!

– Bà ta đã kết hôn vào năm 1827 hay 1828, phải không?

– Năm 1827, ít lâu sau khi đứa con gái nhỏ tội nghiệp của bà ta chết. Nếu còn sống, nó đã mười sáu tuổi kia đấy; thế mà đến bây giờ Điện hạ ngày ngày vẫn còn âm thầm thương xót.

– Nỗi thương tiếc dễ hiểu thôi, vì sau khi Điện hạ kết hôn chính thức, Người chẳng sinh được đứa con nào!

– Này, Nam tước thân mến ạ, cũng vì vậy mà tôi đã đoán rất đúng rằng ngoài nỗi thương hại đối với cô bé Sơn Ca, sự quan tâm của Điện hạ đối với cô bé tội nghiệp ấy còn bắt nguồn chủ yếu từ việc cô bé cùng lứa tuổi với đứa con gái tội nghiệp mà Người vẫn hằng thương tiếc không nguôi cho đến bây giờ, tuy ngài rất ghét Bá tước phu nhân, mẹ nó.

– Thật là nguy hại, khi mà ta tưởng là tránh được cái bà Sarah, thì bà ta lại góa chồng mười tám tháng sau khi Điện hạ mất đi người vợ mẫu mực nhất đời. Tôi tin rằng Bá tước phu nhân hẳn cho là mình được thần số mệnh ưu đãi bởi hai cái tang liền, bên góa chồng, bên góa vợ!

– Tham vọng điên rồ của bà ta lại trỗi dậy, mạnh mẽ, khát khao hơn bao giờ hết; tuy nhiên bà ta vẫn biết rằng mình bị Điện hạ ghét cay ghét đắng; ghét cũng đúng thôi, chẳng phải là tại bà ta mà… Chà chà! Nam tước ạ, cầu Chúa để bà ta đừng có gây cho chúng ta những tai vạ nào khác nữa!

– Có gì mà ta phải sợ, ông bạn Murph thân mến? Ngày xưa kia! Khi bà ta còn có ma lực lôi kéo được Điện hạ như là một người phụ nữ khôn khéo, giảo hoạt đối với một chàng trai mới biết yêu lần đầu và nhất là lại đang ở trong cảnh ngộ mà ta đã biết đấy; nhưng những ảnh hưởng hồi ấy đã tiêu tan sau khi những mưu toan bất chính của bà ta bị phát giác và nhất là bởi những ấn tượng về sự kiện đáng sợ mà bà ta đã gây ra.

– Nói khe khẽ chứ, Nam tước de Graün thân mến, nói khẽ chứ. Chao ôi, lúc này đang là cái tháng tai hại ấy, cũng lại sắp đến cái ngày tai hại không kém ấy, ngày 13 tháng Giêng khó quên ấy; tôi thường lo cho Điện hạ mỗi khi cái ngày ấy lại tới.

– Tuy vậy, nếu một lỗi tày đình có thể được tha thứ nhờ lòng ăn năn hối hận, thì Điện hạ chắc là phải được xá tội rồi!

– Thôi, xin Nam tước. Nam tước de Graün ạ, Nam tước miễn cho, đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, cũng vì chuyện ấy mà tôi sẽ mất vui cả ngày đấy!

– Tôi vừa mới nói là những ý đồ của bà Sarah lúc này thật phi lý, cái chết của bé gái tội nghiệp mà ông nhắc đến lúc này đã cắt đứt mối liên hệ cuối cùng có thể còn gắn bó Điện hạ với bà ta; bà ta sẽ hóa điên nếu cứ khư khư ôm lấy mối hy vọng hão huyền ấy mãi!

– Đúng quá! Nhưng mà bà ta là một kẻ điên rồ nguy hiểm. Anh bà ta, Nam tước biết đấy, cũng đồng tình với bà ta, khăng khăng theo đuổi những mộng tưởng tham lam và dù rằng cặp bài trùng ấy lúc này có nhiều cơ thất vọng hơn như là cách mười tám năm họ có nhiều cơ hy vọng.

– Chao ôi! Kể sao cho hết những tai họa mà lão thầy tu hổ mang Polidori đã gây ra trong thời gian ấy do sự đồng tình tội lỗi của lão!

– Người ta cho tôi biết là thằng khốn kiếp ấy đã ở đây một, hai năm rồi, đang lâm vào tình trạng cực kỳ nghèo khổ, hoặc đang lăn xả vào một mưu đồ ám muội gì đó.

– Giỏi giang, uyên bác, tài trí thông minh như thế mà sa đọa đến như vậy được!

– Nhưng lại cũng tai ác kinh khủng! Cầu Chúa đừng cho lão gặp lại bà Bá tước. Hai tâm địa xảo trá ấy mà liên kết lại thì thật nguy hiểm!

– Ông Murph thân ái, tôi nhắc lại một lần nữa, dù cho khát vọng của bà Bá tước có phi lý đến mấy đi chăng nữa thì lợi ích bản thân của bà ta cũng luôn luôn ngăn trở bà ta nhân sở thích phiêu lưu của Đức ông mà mưu toan một điều gì đó xấu xa!

– Tôi cũng mong như vậy, tuy nhiên sự ngẫu nhiên đã phá hỏng mưu toan nào đây mà tôi không rõ, chắc chắn là đáng bỉ, mà bà ta đã giao ước với lão Thầy Đồ; lão vô lại ghê gớm ấy lúc này không còn có thể làm hại ai được nữa; lão đang sống ở Saint-Mandé, chẳng một ai biết đến, ăn năn hối lỗi giữa những người nông dân lương thiện. Chao ôi! Tôi phải công nhận là, vì cốt để trả thù cho tôi mà Điện hạ đã bắt đầu phải chịu một hình phạt kinh khủng, đã tự đặt mình vào một hoàn cảnh gay go.

– Gay go à! Không đâu! Ông Murph thân mến ạ, vì cuối cùng thì vấn đề là thế này này. Một tên tù khổ sai lẩn trốn, một tên sát nhân mà ai cũng biết, đột nhập nhà ông và cầm dao đâm ông, ông có thể giết lão bằng quyền tự vệ chính đáng hoặc đưa lão ra tòa; trong cả hai trường hợp đó, tên ăn cướp ấy đều đáng chết cả. Vậy mà bây giờ, thay vì giết lão hoặc quăng lão cho đao phủ, bằng một hình phạt nặng nề nhưng thích đáng, ông khiến con quái vật ấy không còn làm hại xã hội được nữa, ai lại tố cáo ông kia chứ! Công lý sẽ đứng về phía tên ăn cướp ấy à? Ông có đáng bị kết tội một khi ông đã làm ít hơn luật pháp cho phép ông làm hay không? Ông chỉ gây mù lòa cho kẻ mà đáng lẽ ông có quyền được giết một cách hợp pháp? Tại sao, để bảo vệ mạng sống của tôi hoặc để trả thù cho tôi về một tội ngoại tình đầy đủ tang chứng, xã hội công nhận cho tôi quyền vừa làm quan tòa, vừa làm đao phủ và tôi không thể nào thay đổi theo ý muốn án tử hình tôi có thể phán quyết mà vẫn vô can? Và nhất là trường hợp tên ăn cướp ta đang nói tới. Vấn đề là ở chỗ đó. Tôi tạm gạt sang một bên tước vị vương công của Liên bang Đức. Tôi biết là trước pháp luật, tước vị không có nghĩa lý gì hết. Nhưng về mặt ấy thì vẫn có những quyền miễn trừ phải tính đến. Vả lại, ta thử hình dung một vụ xét xử dựng lên để chống lại Điện hạ xem thế nào! Sẽ có bao nhiêu hoạt động hào hiệp biện hộ cho Người? Sẽ có bao nhiêu việc thiện, bao nhiêu món tiền bố thí được biết đến? Hơn nữa, trong điều kiện mà vụ xét xử xảy ra, hãy giả định là vụ án lạ lùng ấy được đưa ra trước tòa đi nữa, thì ông thử nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra nào?

– Chính Điện hạ thường hay nói điều ấy với tôi! Người sẽ chấp nhận lời buộc tội và sẽ không dựa chút nào vào quyền bất khả xâm phạm của phẩm tước. Nhưng mà sẽ có những ai tiết lộ các sự kiện không hay ấy? Nam tước cũng biết tính kín đáo như bưng của ông David và của bốn người Hungary phục vụ ở ngôi nhà phố Gái Góa chứ? Tay Chọc Tiết được Điện hạ gia ơn giúp đỡ như vậy sẽ không bao giờ hở môi về chuyện trừng trị tên Thầy Đồ vì y cũng sợ liên lụy nữa kia. Trước khi đi Algérie, y đã thề với tôi rằng sẽ giữ kín việc ấy. Còn về tên cướp kia, thì lão cũng thừa biết rằng đi thưa kiện tức là đi nộp mình cho đao phủ.

– Vậy là cả Điện hạ, cả ông, cả tôi, đều không ai muốn tiết lộ ra hết phải không? Ông Murph thân mến ạ, dù cho có một số người đã biết điều bí ẩn ấy, nhưng không vì thế mà không giữ kín được. Tình hình dự kiến có xấu đi mấy thì chỉ còn có một vài trở ngại là đáng kể mà thôi. Vả lại nhiều việc làm cao quý, nhiều hành động vĩ đại sẽ vì thế mà được nhiều người biết đến nhân vụ án lạ lùng ấy, khiến tôi xin nhấn mạnh bị cáo buộc tội như thế hóa ra lại là một thắng lợi lớn cho Điện hạ.

– Cứ như ông nói thì tôi hoàn toàn yên tâm. Nhưng ông đã bảo là ông đem đến cho tôi nhiều tin tức thu lượm được nhờ các giấy tờ tìm thấy ở lão Thầy Đồ. Và những lời khai của mụ Vọ khi mụ nằm ở nhà thương. Mụ mới được xuất viện mấy ngày gần đây, cái chân gãy đã lành hẳn.

Nam tước rút trong túi ra một tập giấy:

– Những điều thăm dò được đây này! Nó liên quan đến công cuộc tìm lai lịch một cô gái có tên là Sơn Ca và liên quan đến việc tìm chỗ ở hiện nay của cậu François Germain, con trai của lão Thầy Đồ!

– Nam tước de Graün thân mến, ông làm ơn đọc những điều ghi chép ấy tôi nghe xem sao. Tôi biết Điện hạ muốn những gì, tôi sẽ xem xét những thông tin ấy đã đầy đủ chưa. Ông vẫn luôn luôn hài lòng về người chỉ điểm của ông đấy chứ?

– Hắn thật là một người quý báu, rất thông minh khôn khéo và kín đáo. Đôi lúc tôi bắt buộc phải hạn chế bớt sự sốt sắng quá mức của hắn vì ông cũng biết là Điện hạ cũng muốn tự mình tìm hiểu một số vấn đề.

– Này, tay ấy vẫn chưa biết tí gì về phần của Điện hạ tham gia trong toàn bộ công việc này chứ?

– Tuyệt đối chưa! Hàm ngoại giao của tôi là lý do tuyệt vời cho những cuộc dò xét mà tôi có trách nhiệm phải thực hiện. Badinot, tên hắn đấy, có rất nhiều tay chân và những mối quan hệ hoặc công khai hoặc kín đáo trong tất cả các tầng lớp xã hội. Trước kia hắn là đại tụng*. Sau đó, hắn buộc phải bán lại chức vụ vì tội bội tín; hắn vẫn còn ghi lại được khá nhiều chi tiết rất chính xác về gia sản và địa vị của các khách hàng cũ; hắn biết khá nhiều chuyện bí ẩn mà hắn đã nhiều lần khoe là đã đem ra để tống tiền; đã vài lần giàu có rồi lại hết nhẵn, lên voi xuống chó trong công việc làm ăn, đã quá lộ liễu để có thể tiếp tục đầu cơ kiếm chác, lần hồi kiếm ăn bằng những công việc ít nhiều bất chính, một loại Figaro* đấy! Khá kỳ lạ để có thể tin được, hễ đâu có lợi là lăn vào tận tụy hết mình cho người trả tiền, hắn chẳng có lợi lộc gì để lừa bịp chúng ta. Vả lại, tôi cũng đã cho người bí mật theo dõi hắn. Chúng ta chẳng có lý do gì để nghi ngờ hắn cả.

Người thay mặt cho các thân chủ trong các việc kiện tụng trước tòa án, khác với trạng sư.

Nhân vật thợ cạo láu lỉnh, khôn khéo và gian hùng trong những vở kịch do Beaumarchais sáng tác.

– Vả chăng những tin tức mà hắn đưa lại cũng khá là chính xác nữa!

– Hắn trung thực theo kiểu của hắn và tôi xin đảm bảo với ông Murph thân mến là tay Badinot ấy thuộc một kiểu người rất độc đáo trong các loại nhân vật bí ẩn chỉ có thể gặp và tồn tại được ở đất Paris này mà thôi; hẳn là hắn sẽ khiến Điện hạ thấy thú vị, chẳng qua việc hắn được vào diện kiến với Điện hạ là không cần thiết!

– Có thể tăng thêm thù lao cho hắn không?

– Năm trăm franc một tháng và những món chi cho các khoản tiền lặt vặt, bất ngờ, cũng gần bằng số tiền đó rồi; theo tôi thế cũng đã đủ; hắn chẳng kêu ca gì đâu! Việc tăng lương cho hắn rồi sẽ xét sau, thưa ông.

– Hắn không biết xấu hổ vì nghề này à?

– Trái lại thì có! Hắn có vẻ tự hào là đằng khác. Đến báo cáo tình hình với tôi, hắn lúc nào cũng ra bộ quan trọng, tôi không muốn nói là có vẻ ngoại giao khôn khéo nữa kia! Thằng cha buồn cười ấy cứ làm như đó là việc quốc gia đại sự. Lại còn ra vẻ kinh ngạc trước những mối liên quan bí ẩn giữa những quyền lợi linh tinh, vặt vãnh với số phận các vương triều. Đúng vậy, đã có vài lần hắn dám trâng tráo bảo tôi: “Gớm, sao mà nhiều rắc rối đến thế trong bộ máy chính quyền của một nước mà người dân thường không hề biết.” Tuy nhiên, có ai dám cho rằng những điều tôi ghi được và nộp lại cho ông, thưa ông Nam tước, lại có ảnh hưởng ít nhiều đến nền chính trị châu Âu như thế.

– Ái chà! Bao giờ chẳng thế, ba cái thằng vô lại lúc nào cũng rất giỏi tìm cách ngụy trang cho những tính đê tiện của chúng; để lừa phỉnh, lọt tai, qua mắt những người lương thiện… À, thưa Nam tước thân mến, thế những bản ghi chép, báo cáo ấy đâu?

– Thưa đây ạ, hoàn toàn ghi theo lời báo cáo của tay Badinot.

– Tôi xin nghe đây!

Nam tước de Graün đọc bản báo cáo sau đây:

– Những ghi chép liên quan đến Fleur-de-Marie.

“Vào đầu năm 1827, một người tên là Pierre Tournemine, hiện đang bị giam ở ngục Rochefort vì tội giả mạo, đã điều đình với mụ Gervais, tức mụ Vọ, để mụ này nhận nuôi một bé gái khoảng năm tuổi, với số tiền thuê là một nghìn franc, sau khi nhận đủ tiền.”

Ông Murph ngắt lời ông de Graün:

– Than ôi! Ông Nam tước thân mến ạ… 1827… đúng năm ấy đấy, Điện hạ được tin về cái chết của cô con gái tội nghiệp của Người mà Người vô cùng thương tiếc. Vì việc đó và cũng vì nhiều việc khác nữa, năm đó thật là tai hại cho Điện hạ của chúng ta.

– Những năm tốt lành thường vẫn hiếm, Murph ạ! Tôi tiếp tục nhé!

“Giao ước xong, cô bé ở với mụ này được hai năm, rồi sau đó, để khỏi bị mụ hành hạ không ngớt, cô bé đã bỏ đi, mụ Vọ qua bao nhiêu năm đằng đẵng không nghe nhắc đến cô bé nữa, lại tình cờ thấy cô bé ở một quán rượu trong khu Nội Thành cách đây khoảng độ sáu tuần. Cô bé đã trở thành thiếu nữ với biệt danh ‘Sơn Ca’. Vài hôm sau lần gặp gỡ đó, tên Tournemine, do quen biết Thầy Đồ ở ngục Rochefort, đã nhờ trao lại cho Cánh Tay Đỏ (người trao đổi thư từ bí mật và quen thuộc của bọn tù cầm cố hoặc bọn tù được phóng thích) một bức thư kể lể chi tiết những sự việc liên quan đến bé gái ngày xưa được giao cho mụ Gervais, tức mụ Vọ.

“Căn cứ vào bức thư ấy và theo lời khai của mụ Vọ, thì có mụ Séraphin gì đó, làm quản gia cho một người chưởng khế* tên là Jacques Ferrand năm 1827, nhờ Tournemine tìm cho mụ một người đàn bà nào chấp nhận với giá một nghìn franc, chăm sóc một đứa trẻ chừng năm đến sáu tuổi bị người ta bỏ rơi; như đã báo cáo trên đây.

Người có chức vụ chứng thực và quản lí giấy tờ khế ước; công chứng viên.

“Mụ Vọ nhận điều kiện ấy.

“Mục đích của Tournemine, khi thông báo những điều đó cho Cánh Tay Đỏ là để cho tên này có dịp tống tiền mụ Séraphin nhờ một tên thứ ba đứng ngoài, bằng cách dọa mụ rằng sẽ tiết lộ vụ bê bối đã bị quên đi khá lâu kia, Tournemine quả quyết rằng mụ Séraphin chỉ là tay sai của những nhân vật giấu mặt.

“Cánh Tay Đỏ đã giao bức thư đó cho mụ Vọ mà mới đây đã nhập hội với lão Thầy Đồ để gây án: điều đó cắt nghĩa vì sao mà tư liệu ấy lại ở trong tay tên ăn cướp ấy và vì sao mà khi gặp Marie ở quán Thỏ Trắng, mụ Vọ muốn khiến Marie phải bứt rứt, băn khoăn, mụ đã bảo: ‘Người ta đã biết được cha mẹ mày nhưng mày sẽ chẳng biết được mày là con ai đâu!’

“Vấn đề là ở chỗ không biết lá thư của Tournemine nói về bé gái trước kia được hắn giao phó cho mụ Vọ có đúng là thật hay không.

“Đã cho điều tra về mụ Séraphin và viên chưởng khế Jacques Ferrand.

“Quả là có hai người có tên như thế.

“Viên chưởng khế này ngụ ở số nhà 41, phố Sentier nổi tiếng khắc khổ và ngoan đạo, rất hay đi lễ ở nhà thờ. Trong khi thừa hành công việc, lão thường đòi hỏi sòng phẳng và đúng kỳ hạn một cách ngặt nghèo, thậm chí là cay nghiệt; văn phòng của lão có tín nhiệm; lão sống dè sẻn, gần như là hà tiện. Mụ Séraphin vẫn là quản gia của lão.

“Lão Jacques Ferrand, trước đây rất nghèo, đã mua lại chức vụ với số tiền ba trăm nghìn franc; số vốn liếng ấy được bỏ ra và bảo lãnh nhờ ông Charles Robert, sĩ quan chỉ huy thuộc lực lượng Vệ binh Quốc gia* thành phố Paris, ông này trẻ và đẹp trai, rất được hâm mộ trong một số giới, chia lợi nhuận với viên chưởng khế khoảng chừng năm chục nghìn franc gì đó mà không hề nhúng tay vào công việc tí nào. Một vài kẻ ác khẩu quả quyết rằng sau nhiều lần trúng đậm phát tài to ở thị trường chứng khoán chung với Charles Robert, viên chưởng khế hiện nay đã đủ khả năng hoàn lại số tiền vay trước đây cho việc chuyển nhượng chức vụ; nhưng uy tín của lão Jacques Ferrand đã khá vững tới mức người ta đều coi những lời đồn đại đó là vu khống, đáng khinh bỉ. Dường như là mụ Séraphin, quản gia của con người ‘thánh thiện, hiền đức’ ấy, chắc chắn có thể góp nhiều chi tiết quý giá về lai lịch của Marie.”

Lực lượng dân quân được thành lập sau cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, có nhiệm vụ duy trì luật lệ và trật tự trong mỗi thành phố, cũng như bảo vệ tổ quốc nếu cần thiết.

– Tuyệt quá, Nam tước thân mến ạ, một vài điểm có thể coi là thật trong lời khai của Tournemine. Có thể chúng ta sẽ tìm được ở nhà viên chưởng khế những phương tiện để từ đó tìm ra cha mẹ của cô gái đáng thương đó. Thế bây giờ ông có tin tức gì về con trai của lão Thầy Đồ không?

– Có thể chưa được chính xác lắm. Tuy nhiên, cũng đáng để chúng ta hài lòng.

– Tay Badinot của ông đáng giá thậtlà một kho vàng.

– Phải nhận ra rằng Cánh Tay Đỏ là mấu chốt của vấn đề này. Tay Badinot, chắc hẳn đã có vài manh mối với Sở Cảnh sát, đã loan báo cho chúng ta biết về tên này là tên trung gian của bọn tù phạm, đúng vào lúc Điện hạ bắt tay vào việc đi tìm người con trai Duresnel của bà Georges, người vợ bất hạnh của lão Thầy Đồ ấy.

– Tất nhiên là thế, và cũng vì đi tìm Cánh Tay Đỏ tại căn nhà tồi tàn của hắn ở số 13 phố Hàng Đậu mà Điện hạ đã gặp Chọc Tiết và Marie. Điện hạ nhất thiết muốn nhân dịp này quan sát những sào huyệt ghê tởm ấy với ý định, biết đâu Người có thể tìm được một vài kẻ bất hạnh để cứu vớt họ khỏi đống bùn nhơ. Linh tính của Người không sai, nhưng mà phải trải qua biết bao nguy hiểm. Lạy Chúa trên cao!

– Những nguy nan mà ông cũng đã can trường chia sẻ với Người, ông Murph thân mến ạ.

– Chẳng phải vì thế mà tôi lại thành người bán than tầm thường của Điện hạ à! – Ông Murph cười tủm tỉm đáp lại.

– Hỡi người vệ sĩ quả cảm, ông bạn đáng kính của tôi ơi, nhắc đến lòng dũng cảm và tận tụy của ông đối với Điện hạ thì cũng bằng thừa. Tôi lại tiếp tục báo cáo nhé. Đây là những tư liệu quan hệ đến François Germain, con trai của bà Georges và Thầy Đồ, tức Duresnel đấy!