← Quay lại trang sách

Chương 11 MỘT MỐI THÂN TÌNH GƯỢNG GẠO

Chúng tôi sẽ dẫn bạn đọc đến ngôi nhà phố Temple, ngày ông d’Harville tự tử, khoảng ba giờ chiều.

Ông Pipelet, ở một mình trong lô của người gác cổng, miệt mài làm việc, đang sửa lại cái ủng, đã nhiều lần tuột khỏi tay ông, từ buổi trêu chọc cuối cùng và táo bạo của Cabrion.

Vẻ mặt của người gác cổng đứng đắn này có vẻ ỉu xìu, buồn bã hơn ngày thường.

Như một người lính bị bại trận nhục nhã, bàn tay buồn bã lần lên các vết sẹo, ông Pipelet thở dài rất mạnh, ngừng làm việc, ngón tay run run đưa đi đưa lại trên nếp gãy chéo ở cái mũ loe đã bị bàn tay láo xược của Cabrion tạo nên.

Rồi tất cả bực bội, lo lắng, sợ sệt của Alfred lại trỗi dậy khi nghĩ đến sự theo đuổi trêu chọc rất vô lý, dai dẳng của tên họa sĩ bất tài kia.

Ông Pipelet không có tầm suy nghĩ cao rộng, trí tưởng tượng của ông không mấy linh hoạt, nên thơ, nhưng ông có một lối cảm nghĩ thẳng đuột, rất chắc chắn và rất logic.

Điều không may, do một hệ quả tự nhiên của lối suy nghĩ cứng đờ, không hiểu được tính kỳ quặc điên rồ của thứ mà trong từ ngữ nhà nghề gọi là biếm họa, ông Pipelet cố tìm những lý do hợp lý cho thái độ quá đáng của Cabrion và ông đặt ra cho chủ đề đó rất nhiều câu hỏi không giải đáp được.

Cho nên, đôi khi ông như Pascal tái sinh, thấy chóng mặt vì mãi thăm dò cái cực không đáy mà tài năng tai hại của tên họa sĩ đã đào ra dưới chân ông. Biết bao lần bị tổn thương trong việc thổ lộ tình cảm, ông buộc phải co lại nhờ có chủ nghĩa hoài nghi thái quá của bà Pipelet, chỉ dừng lại ở sự việc, không thèm đi sâu nguyên nhân, bà coi thái độ khó hiểu của Cabrion đối với Alfred chẳng qua chỉ là trò đùa!

Ông Pipelet, một con người nghiêm chỉnh, đứng đắn, không thể chấp nhận lối giải thích như vậy. Ông rên rỉ vì sự mù quáng của vợ. Danh dự làm người của ông chồm lên với ý nghĩ ông có thể là đồ chơi của một sự sắp đặt tầm thường: một trò hề. Ông hoàn toàn tin rằng hành động khác thường của Cabrion che giấu một âm mưu đen tối, dưới vẻ bề ngoài phù phiếm.

Chính vì phải giải bài toán tai quái ấy mà con người đội mũ loe kia luôn luôn phải tận dụng phép biện chứng vững chắc của mình.

– Tôi thà đưa đầu lên máy chém, – con người khắc khổ ấy nói, con người mà hễ đụng đến vấn đề nào là thổi phồng nó lên – tôi thà đem đầu lên máy chém còn hơn thừa nhận Cabrion chỉ lăn xả vào tôi để trêu chọc vớ vẩn. Người ta chỉ làm trò hề trước công chúng. Thế mà vừa rồi, cái thằng ấy chẳng cần có ai chứng kiến. Nó hành động một mình, trong tối, như mọi lần, nó đã lẻn vào cái lô vắng vẻ của tôi để đặt lên trán tôi nụ hôn kinh tởm, đáng phẫn nộ. Và như thế, tôi xin hỏi bất cứ ai không liên quan: để làm gì? Không phải để tỏ ra gan dạ vì không ai trông thấy nó cả. Không phải vì tình dục… vì trái với tự nhiên. Không phải vì tình bạn… Tôi chỉ có một kẻ thù trên đời, là hắn. Phải thừa nhận rằng ở đó có một bí mật mà lý trí của tôi không len vào được! Vậy thì cái kế hoạch ma quỷ này, nung nấu từ lâu, theo đuổi với một sự kiên trì đáng sợ, nhằm đi đến đâu? Đó là điều tôi không thể hiểu. Sự bất lực không thể vén được bức màn này làm cho tôi suy nhược và tiêu hao!

Người gác cổng thật thà này lại vừa làm nhức nhối thêm vết thương lúc nào cũng chảy máu, tay đang buồn bã rờ vào nếp gãy của cái mũ thì một giọng the thé từ một tầng trên vang dội xuống tận lồng cầu thang:

– Nhanh, nhanh lên, ông Pipelet, lên đây nhanh lên!

– Tôi không biết giọng người này. – Alfred nói, sau một hồi chăm chú lắng nghe. Và cánh tay đang thọc vào chiếc ủng của ông buông rơi xuống đầu gối.

– Ông Alfred, nhanh lên nào! – Tiếng nói càng khẩn khoản.

– Cái giọng này nghe hoàn toàn lạ. Giọng đàn ông đang gọi tôi, chỉ biết chắc được có thế. Như thế chưa đủ để tôi bỏ phòng này mà đi, để lô vắng, bỏ nó mà đi khi bà nhà tôi vắng nhà. Không bao giờ! – Alfred hùng dũng kêu lên. – Không bao giờ!!!

– Ông Pipelet, – tiếng gọi lại tiếp tục – nhanh lên nào. Bà Pipelet đang khó ở!

– Anastasie! – Alfred chồm dậy khỏi ghế, la to, rồi lại ngồi thụp xuống, nói một mình. – Rõ đồ trẻ con! Vô lý, bà ấy mới đi ra ngoài cách đây một tiếng! Hay là bà ấy đã về mà tôi không thấy? Điều này hơi bất thường nhưng phải nói rằng vẫn có thể.

– Ông Pipelet ơi, lên đây, tôi đang ôm bà ấy trong tay!

– Người ta ôm vợ tôi trong tay! – Ông Pipelet vùng dậy.

– Tôi không thể một mình cởi dây nịt ngực cho bà Pipelet! – Tiếng nói tiếp tục.

Lời nói ấy có một tác động thần kỳ đến Alfred. Mặt ông đỏ ửng, tính nghiêm chỉnh trong người ông trỗi dậy.

– Người đàn ông lạ mặt kia nói đến việc cởi dây nịt cho Anastasie. – Ông la lên. – Tôi phản đối, tôi cấm đấy!

Ông lao ra khỏi lô, nhưng đến thềm, ông dừng lại. Ông Pipelet ở trong một tình thế gay go, đầy kịch tính mà các nhà thơ thường khai thác. Một bên là bổn phận giữ ông lại trong lô, một bên là tình nghĩa vợ chồng, ông phải lên tầng trên.

Giữa những giằng xé khổ sở ấy, tiếng nói lại tiếp tục:

– Ông Pipelet, ông không lên! Mặc… tôi cắt dây! Tôi nhắm mắt lại đây!

Lời đe dọa ấy buộc ông Pipelet phải quyết định.

– Ông… – ông quát to, oang oang như sấm, đâm đầu chạy khỏi lô – vì danh dự, tôi ra lệnh cho ông không được phép cắt gì hết, để bà nhà tôi yên! Tôi lên đây.

Và Alfred đâm sầm vào cầu thang tối om, trong lúc bối rối ông vẫn để cửa lô mở.

Ông vừa ra khỏi thì một bóng người lọt vào, cầm cái búa của thợ giày trên bàn, nhảy lên giường, trong tay cầm một miếng bìa dày, bốn góc đã cắm sẵn đinh, đóng miếng bìa lên tường cuối phòng, rồi biến mất.

Công việc này làm nhanh đến nỗi người gác cổng chợt nhớ ra cửa lô vẫn để mở, lật đật xuống cầu thang để đóng, mang theo chìa khóa và lại leo lên tầng trên, không ngờ vực đã có ai vào phòng mình. Sau khi đã cẩn thận như vậy, Alfred lại xông đi cứu Anastasie và ráng sức la:

– Ông ơi, không cắt gì hết! Tôi lên… tôi đây… Ông phải tế nhị với bà nhà tôi.

Người gác cổng đáng kính rơi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Vừa mới leo lên mấy bậc đầu của cầu thang, ông lại nghe thấy tiếng Anastasie không phải ở gác trên mà ở ngoài lối đi vào.

Tiếng nói ấy càng the thé hơn lúc nào hết:

– Alfred, sao lại để lô vắng thế? Đi đâu, ông lão chạy rong kia?

Lúc đó, ông Pipelet sắp đặt chân phải lên sàn của tầng một. Ông đứng sững lại, quay đầu xuống phía chân cầu thang, miệng há hốc, mắt trừng trừng, một chân nữa lại giơ lên.

– Alfred! – Bà Pipelet kêu.

– Anastasie đang ở dưới này. Vậy, không phải ở trên và không ốm đau gì cả! – Ông Pipelet tự nhủ, vẫn trung thành với lập luận logic chặt chẽ của mình. – Nhưng cái giọng đàn ông không quen, dọa cởi dây áo bà ấy, là ai? Một thằng bợm? Nó trêu tôi để đùa tai quái? Nó có ý đồ gì? Có điều gì bất thường trong việc này? Đếch cần. Làm nghĩa vụ đã, đến đâu thì đến. Sau khi nói chuyện xong với bà nhà tôi, tôi sẽ lên làm sáng tỏ cái bí mật này, kiểm tra lại tên này.

Ông Pipelet băn khoăn bước xuống, mặt đối mặt với vợ.

– Bà đấy à? – Ông nói.

– Vâng, đúng tôi. Ông còn muốn là ai nữa?

– Đúng bà, mắt tôi không nhầm chứ?

– Ái chà, ông làm gì mà mắt to như lỗ đáo thế kia? Ông nhìn tôi như muốn nuốt chửng tôi.

– Bởi sự có mặt của bà chứng tỏ ở đây có những việc… những việc…

– Việc gì? Nào, đưa chìa khóa lô đây. Tại sao lại để lô vắng? Tôi từ bến xe ngựa Normandie đi về đây. Tôi đi xe ngựa, chở cho ông Bradamanti cái rương. Ông ấy không muốn ai biết ông ấy đi chiều nay và không tin cái thằng Tập Tễnh chết tiệt ấy. Đúng thôi!

Nói xong, bà Pipelet cầm lấy chìa khóa từ tay chồng, mở cửa lô và bước vào.

Cả hai vừa vào thì một người nhẹ nhàng tụt xuống cầu thang, đi nhanh qua trước cửa lô mà không ai biết. Đó là người có cái giọng đàn ông đã gây bao nhiêu điều khổ sở cho ông Alfred.

Ông Pipelet nặng nề ngồi xuống ghế, nói với vợ giọng xúc động:

– Anastasie, tôi thấy khó chịu trong người. Ở đây có những việc… những việc…

– Ông lại nói nhảm gì đấy? Ở đâu mà chẳng có việc! Ông sao thế? Nào, ái chà, mồ hôi vã ra ướt đầm. Ông vừa làm việc gì quá sức? Người ông đẫm mồ hôi, ông ơi!

– Vâng, đẫm mồ hôi và phải thế… – Ông Pipelet đưa tay lên mặt ướt giàn giụa – ở đây có những việc làm người ta điên đảo.

– Lại còn gì nữa? Ông chẳng lúc nào yên. Lúc nào cũng cứ phải nhót đi như con mèo ốm, đáng lẽ cứ ngồi yên trên ghế để trông lô.

– Anastasie, bà không công bằng, nói rằng tôi nhót đi như con mèo ốm. Nếu tôi có nhót… là vì bà.

– Vì tôi?

– Vâng, để tránh cho bà một sự lăng nhục mà bà và tôi sẽ phải xấu hổ và đau khổ. Tôi đã phải bỏ nhiệm sở mà tôi coi thiêng liêng như bốt gác của người lính.

– Người ta muốn lăng nhục tôi à?

– Không phải bà, bởi vì việc lăng nhục phải xảy ra trên kia mà bà thì đi khỏi đó, nhưng…

– Có trời mà hiểu được những lời ông ca cẩm. Ông mất trí thật rồi. Phải thấy rằng ông đã có những lúc lơ đễnh… một tiếng búa gõ… và chỉ tại tên Cabrion trời đánh! Từ cái trò hề hôm nọ của hắn, trông ông lạ hẳn đi, lúc nào cũng ngơ ngác. Tên khốn kiếp ấy lúc nào cũng làm ông hoảng hốt à?

Anastasie vừa nói xong câu đó, thì một việc kỳ lạ xảy ra. Alfred ngồi, quay mặt về phía giường.

Căn phòng được chiếu bởi ánh sáng nhợt nhạt của một ngày đông và một ngọn đèn. Giữa lúc bà vợ nhắc đến tên Cabrion, dưới hai thứ ánh sáng lờ mờ ấy, ông Pipelet tưởng như thấy xuất hiện trong bóng tối khuôn mặt bất động và ranh mãnh của tay họa sĩ.

Đúng là hắn ta, mũ chóp nhọn, tóc dài, mặt gầy, nụ cười tinh quái, chòm râu vót nhọn và cái nhìn như thôi miên…

.

Một lúc, ông Pipelet tưởng mình nằm mơ, ông dụi mắt, tưởng là ảo ảnh…

Không phải ảo ảnh.

Không còn gì thật hơn vật mới xuất hiện đó…

Điều hãi hùng, không thấy có thân mình mà chỉ có một cái đầu, da thịt rất sống động, nổi bật trên nền của phòng tối.

Vừa trông thấy hình ảnh này, ông Pipelet ngã vật ra phía sau, không nói một lời. Ông giơ cánh tay phải về phía giường, hoảng sợ chỉ vào cái hình tượng khủng khiếp ấy, khiến bà Pipelet phải quay lại để tìm nguyên nhân của sự kinh hãi đó. Bà cũng phát hoảng mặc dầu xưa nay vốn là người táo tợn.

Bà lùi hai bước, nắm chặt bàn tay ông Alfred, la lên:

– Cabrion!

– Vâng! – Ông Pipelet giọng lắng xuống, thều thào, mắt nhắm lại.

Sự sửng sốt của hai vợ chồng là niềm vinh dự lớn lao của người nghệ sĩ đã vẽ rất thành công Cabrion trên tấm bìa.

Phút ngạc nhiên đã qua, Anastasie, cũng như sư tử cái, leo phốc lên giường và không phải không có cảm xúc mạnh, giật miếng bìa đóng đinh ra khỏi tường.

Nữ hiệp sĩ kết thúc chiến công bằng tiếng kêu quen thuộc lúc xung trận:

– Nào!

Alfred mắt vẫn nhắm, bàn tay giơ về phía trước, đứng không động đậy như trong mọi lúc nguy khốn của đời mình. Chỉ có cái mũ loe thỉnh thoảng lại run rẩy, đu đưa chứng tỏ sức mạnh liên tục của cơn xúc động bên trong.

– Mở mắt ra, ông lão yêu quý, – bà Pipelet đắc thắng nói – chẳng có gì, chỉ là một bức vẽ chân dung của thằng khốn kiếp Cabrion! Này, xem tôi giẫm lên mặt nó! – Và Anastasie trong cơn giận dữ, ném bức tranh xuống đất, vừa giẫm, vừa la. – Nếu nó bằng xương bằng thịt, tôi cũng xử như thế. – Rồi nhặt bức chân dung lên. – Xem này, giờ nó mang vết chân giẫm của tôi, xem đi!

Alfred lắc đầu không nói và ra hiệu cho vợ cất bức tranh đáng ghét ấy đi.

– Còn đứa nào trâng tráo hơn! Chưa hết, ở dưới, hắn còn viết bằng chữ đỏ: “Cabrion tặng ông Pipelet, bạn yêu quý suốt đời.” – Bà gác cổng nói khi đem tấm bìa ra ngoài sáng xem.

– Tặng bạn yêu quý suốt đời. – Alfred thều thào.

Và ông giơ cả hai bàn tay lên trời như để trời làm chứng cho điều lăng nhục mới này.

– Nhưng này, sao thế nhỉ? – Bà Anastasie nói. – Bức tranh này sáng nay chưa có khi tôi dọn giường, chắc chắn như thế. Vừa rồi ông đã mang chìa khóa lô đi theo, chẳng ai vào được khi ông đi vắng. Thế thì sao bức tranh lại vào được đây? Ái chà, biết đâu chẳng phải là ông lão yêu quý đặt nó vào đấy?

Nghe giả thuyết quái đản ấy, Alfred chồm lên khỏi ghế, mở đôi mắt giận dữ, hung tợn.

– Tôi, tôi treo trong phòng chân dung của tên ác ôn không những quấy rối tôi bằng sự có mặt bỉ ổi của nó, mà còn theo đuổi tôi, đêm trong mơ, ngày trong tranh! Vậy Anastasie, bà muốn tôi thành thằng điên để đem trói à?

– Thì đã sao? Muốn được yêu, biết đâu ông đã làm lành với Cabrion trong lúc tôi đi vắng. Có gì hại đâu?

– Tôi mà làm lành với… Trời, bà hiểu như vậy?

– Rồi thì có thể ông ta tặng ông bức tranh chân dung để biểu thị tình bạn. Nếu đúng thế, ông đừng chối!

– Anastasie!

– Nếu đúng thế, phải thừa nhận ông cũng đồng bóng như một phụ nữ.

– Bà ơi!

– Nói cho cùng, chính ông đã treo bức tranh này lên.

– Tôi… Trời ơi, trời ơi!

– Thế thì còn ai vào đây nữa?

– Bà, thưa bà…

– Tôi?

– Phải, – ông Pipelet la lên, vẻ lơ láo, nhớn nhác – chính bà. Tôi cần phải thấy là chính bà. Sáng nay, quay lưng vào giường, tôi chẳng thấy gì.

– Không, ông yêu quý…

– Tôi nói rằng, phải là bà… nếu không thì là quỷ sứ, bởi vì tôi không rời khỏi lô và khi tôi lên tầng trên để trả lời người đàn ông nào đó gọi tôi, tôi có chìa khóa. Cửa đã đóng chặt, chính bà đã mở ra. Chối được không?

– Quả đúng như vậy!

– Vậy bà thú nhận?

– Tôi thú thực là chẳng hiểu gì hết! Đó là một trò đùa khá hay, công bằng mà nói.

– Một trò đùa! – Ông Pipelet giận đến phát rồ. – A, bà vẫn nói là trò đùa. Tôi thì tôi nói với bà, việc này che giấu một âm mưu kinh tởm. Có cái gì đó trong chuyện này. Có sự chuẩn bị hẳn hoi… một âm mưu. Người ta rải hoa để che cái vực thẳm, định làm cho tôi mê đi, không thấy được vực thẳm tôi sẽ rơi vào. Tôi chỉ còn cách tìm đến luật pháp để được che chở. May thay, Chúa Trời vẫn phù hộ nước Pháp. – Và ông Pipelet ra cửa.

– Ông đi đâu, ông lão?

– Đến sở cẩm đưa đơn kiện và bức chân dung này là bằng chứng người ta quấy rối tôi.

– Ông kiện gì?

– Kiện gì à? Thế nào! Kẻ thù quyết liệt của tôi tìm mọi cách xảo trá đặt chân dung của nó vào nhà tôi, đến tận giường cưới của tôi mà các ngài quan tòa lại không bảo vệ tôi? Đưa bức chân dung đó cho tôi, Anastasie, đưa cho tôi, chỉ cần nhìn thấy nó là tôi điên lên! Cái thằng phản phúc ấy không thể chối được, có chữ của nó đây: “Cabrion tặng ông Pipelet, bạn yêu quý suốt đời.” Suốt đời! Vâng, đúng thế, có lẽ nó muốn cướp mạng sống của tôi cho nên nó theo đuổi tôi mãi, rồi cuối cùng nó sẽ đạt được. Tôi sẽ thường xuyên bị báo động, tôi tin rằng thằng quỷ sứ ấy lúc nào cũng ở đây, dưới sàn, trên tường, trên trần nhà! Đêm nó nhìn tôi ngủ ôm ấp vợ trong tay. Ngày, nó đứng sau lưng tôi, lúc nào cũng với nụ cười quái ác. Ai nói rằng lúc này nó không ở đây, nấp đâu đấy, như một côn trùng có nọc độc? Nào, mày có ở đây không, quỷ sứ? Có đây không? – Ông Pipelet la to, đảo đầu một vòng với lời nguyền rủa giận dữ như muốn hỏi bằng mắt tất cả các vật dụng trong nhà.

– Tôi đang ở đây, ông bạn ơi! – Cái giọng quen thuộc của Cabrion êm ái vang lên.

Những lời nói ấy có vẻ phát ra từ cuối phòng, nhờ tài nói tiếng bụng, bởi tên họa sĩ bất tài quái ác đang đứng ngoài cửa lô, đã không bỏ sót chi tiết nào của màn kịch vừa rồi. Nhưng sau khi nói xong câu nói trên, nó khôn ngoan lẩn đi, không phải không để lại, sau này ta sẽ biết, một đề tài mới gây giận dữ, ngạc nhiên và suy nghĩ cho nạn nhân của mình.

Bà Pipelet, lúc nào cũng can đảm và hoài nghi, soát lại gầm giường, mọi ngóc ngách của cái lô nhưng chẳng thấy gì, soát lại cả lối đi nhưng cũng vô hiệu, trong khi ông Pipelet rã rời vì đòn đánh mới, ngồi phịch xuống ghế, khổ sở, tuyệt vọng.

– Không sao cả, ông Alfred ạ, – bà Anastasie nói, lúc nào cũng tỉnh táo – thằng khốn kiếp ấy nấp ở gần cửa và trong khi chúng ta tìm ở đằng này thì nó lại chuồn đằng kia. Chịu khó một chút! Có ngày bà sẽ tóm được mày, lúc đó thì liệu hồn! Mày sẽ ăn cán chổi của bà!

Cửa mở và mụ Séraphin, quản gia của lão chưởng khế Jacques Ferrand, bước vào.

– Chào bà Séraphin, – bà Pipelet nói.

Muốn giấu việc gia đình, không cho người ngoài biết, bà lấy lại ngay vẻ vui tươi, vồn vã hỏi:

– Bà cần gì nào?

– Nói cho tôi biết cái biển mới của nhà ta là nghĩa gì?

– Cái biển mới của nhà chúng tôi?

– Cái bảng con…

– Cái bảng con?

– Vâng, bảng đen, chữ đỏ, treo trên cửa.

– Thế nào? Ngoài phố?

– Vâng, ngoài phố, đúng trên cửa nhà ta.

– Bà Séraphin, tôi chịu, không hiểu nổi. Thế ông có hiểu gì không?

Alfred vẫn lặng câm.

– Thật ra, đấy là việc của ông Pipelet, – mụ Séraphin nói – ông ấy sẽ giải thích cho tôi hiểu.

Alfred thốt ra tiếng rên ú ớ, nghe không rõ, vẫy vẫy cái mũ loe.

Động tác kịch câm ấy có nghĩa là ông Alfred tự nhận bất lực, không giải thích được cho người khác rằng bản thân đã mắc vào vô số bài toán không giải được.

– Đừng quan tâm, bà Séraphin ạ. – Bà Anastasie nói tiếp. – Ông Alfred nhà tôi có chứng hẹp môn vị nhưng cái biển bà nói là gì, có thể là của ông hàng rượu bên cạnh?

– Không, không phải, tôi nói cái bảng con treo trên cửa nhà ta.

– Hay bà muốn đùa…

– Hoàn toàn không phải, tôi vừa mới thấy khi bước vào. Ở trên có viết bằng chữ to: Pipelet và Cabrion kết thân với nhau và những người khác. Hỏi ông gác cổng.

– A, trời! Trên cổng nhà chúng tôi có viết như thế! Có không, ông Alfred?

Ông Pipelet nhìn mụ Séraphin, ngơ ngác, ông không hiểu, không muốn hiểu.

– Có viết như thế, ngoài phố, trên một tấm biển? – Bà Pipelet tiếp lời, choáng váng vì việc làm táo tợn đó.

– Vâng, tôi vừa mới thấy. Tôi liền nói ngay: “Kỳ quặc! Ông Pipelet thợ giày lại rao trên áp phích cho người qua lại biết ông kết thân với ông Cabrion. Nghĩa là thế nào? Có cái gì không rõ ràng. Nhưng trên biển lại viết: “Hỏi ông gác cổng.” – Mụ Séraphin bỗng dừng lại và la lên:

– Ông nhà làm sao ấy, cẩn thận chứ bà! Ông ấy sắp ngã ngửa!

Bà Pipelet đỡ ông Alfred vào lòng, gần ngất xỉu.

Bị một đòn quá mạnh, người đàn ông đội mũ loe gần như bất tỉnh nhân sự, nói thều thào:

– Thằng khốn kiếp! Hắn bêu tôi ra trước công chúng!

– Bà Séraphin, tôi đã nói với bà, ông Alfred bị hẹp môn vị, lại thêm một chứng tai quái nó hành ông ấy như kim châm. Ông lão không trụ được lâu đâu! May thay tôi còn một ít rượu mạnh, có thể làm ông ấy đứng lên được.

Quả thật, nhờ phương thuốc thần diệu của bà Pipelet, ông Alfred tỉnh dần. Nhưng, hỡi ôi, vừa mới hồi tỉnh lại, ông lại phải chịu thêm một thử thách mới độc ác hơn.

Một người đứng tuổi ăn mặc chỉnh tề, vẻ mặt hồn nhiên, hay đúng hơn là ngây ngô mà người ta thường gọi, không hề có ý mỉa mai, là anh “thộn”, ở Paris, mở phần có ô kính và di động được của cánh cửa, hỏi với vẻ đặc biệt tò mò.

– Tôi vừa đọc trên biển treo trên lối đi: “Pipelet và Cabrion kết thân với nhau và những người khác. Hỏi ông gác cổng.” Ông là ông gác cổng, ông làm ơn cho tôi được vinh dự biết chuyện này là thế nào?

– Chuyện này là thế nào à! – Ông Pipelet la to, giọng oang oang, bao nhiêu căm tức dồn nén lâu nay nổ tung. – Có nghĩa Cabrion là một tên bịp bợm khốn nạn, thưa ông!

Anh thộn lùi một bước trước sự bùng nổ giận dữ bất ngờ.

Ông Alfred điên tiết, mắt long lanh, mặt đỏ ửng, người nhô một nửa ra khỏi lô, hai tay nắm chặt tấm pa-nô dưới cánh cửa. Sau lưng ông, khuôn mặt của mụ Séraphin, Anastasie vẽ ra mờ mờ trong bóng tối nhập nhoạng của lô. Ông Pipelet la to:

– Ông biết cho, tôi không giao thiệp với thằng khốn kiếp Cabrion, lại còn kết thân nữa thì không bao giờ!

– Đúng thế, lão ngốc kia có phải lâu nay nằm trong hũ mới đi hỏi một điều như thế! – Bà Pipelet, giọng rất chua, nhô cái mặt cà khịa lên khỏi vai ông chồng.

Anh thộn lùi lại một bước, trịnh trọng nói:

– Thưa bà, áp phích treo lên là để đọc. Bà treo lên thì tôi đọc. Tôi có quyền đọc, bà không có quyền thô bỉ với tôi!

– Có ông mới là thô bỉ! Đồ bần tiện! – Bà Anastasie nhe răng phản đối.

– Bà thật thô lỗ, cộc cằn!

– Alfred, đưa cái dây đây, để tôi đo cái mõm của hắn để dạy cho hắn biết, già rồi mà còn làm trò hề. Đồ rởm!

– Chửi người khi người ta đến hỏi những điều viết trên áp phích! Không được đâu, thưa bà.

– Nhưng này ông! – Ông gác cổng kêu lên.

Anh thộn tức điên lên, nói tiếp:

– Ông kết thân với ông Cabrion, mặc xác ông, nhưng, mẹ kiếp, đừng có viết thành chữ to đập vào mắt người qua lại! Đã thế, tôi phải gọi ông là đồ thô lỗ và tôi sẽ đi kiện ông ở sở cẩm.

Và anh thộn căm tức rời đi.

Ông Pipelet, giọng ảo não:

– Anastasie, tôi biết, tôi không qua được đâu, tôi bị đánh gục. Tôi không hy vọng thoát khỏi tay hắn. Bà thấy đấy, tên tôi gắn liền với tên thằng khốn nạn trước công chúng. Hắn dám viết rằng tôi kết thân với hắn và người ta tin hắn. Tôi thăm dò. Tôi nói lên. Tôi thông báo. Thật quái đản, quá đáng! Một ý nghĩ tai quái, nhưng rồi phải chấm dứt. Quá mức rồi, hoặc hắn, hoặc tôi phải ngã trong cuộc vật lộn này!

Vượt lên sự trì trệ hằng ngày, ông Pipelet, với một quyết tâm mạnh mẽ, cầm bức chân dung của Cabrion chạy ra cửa.

– Alfred, ông đi đâu?

– Đến sở cẩm. Tôi sẽ nhấc luôn cái biển tồi tệ ấy đi. Với tấm biển, với bức tranh trong tay, tôi sẽ kêu với ông cẩm: “Hãy bảo vệ tôi! Trả thù cho tôi! Giải thoát cho tôi khỏi Cabrion!”

– Ông lão nói hay lắm! Cựa quậy đi, nhúc nhắc đi! Nếu ông không tháo được cái biển thì nhờ ông hàng rượu giúp cho, mượn ông ấy cái thang. Cabrion, thằng khốn kiếp! Tôi mà tóm được nó, tôi sẽ cho nó vào chảo rán, chỉ muốn thấy nó thật đau đớn. Có những người, người ta đem đi chém nhưng tội chưa bằng nó. Thằng vô lại, đáng đem ra bãi, thằng phản phúc!

Nhưng trong trường hợp này, Alfred lại tỏ ra độ lượng bao dung tuyệt vời. Dù rất căm ghét Cabrion, ông vẫn tỏ ra có chút tình thương tên họa sĩ.

– Không, – ông nói – dù có được tôi cũng không xin cái đầu của hắn!

– Tôi thì có, có… có… Mặc nó. Nào! – Anastasie hung dữ la to.

– Không, – Alfred nói tiếp – tôi không thích máu chảy, nhưng tôi có quyền đòi giam chung thân cái thằng tai ác ấy. Sự yên tĩnh của tôi đòi hỏi điều đó, sức khỏe của tôi buộc tôi điều đó. Pháp luật phải chấp thuận cho tôi sự đền bù đó. Nếu không, tôi sẽ rời nước Pháp, nước Pháp tươi đẹp của tôi! Đấy, người ta sẽ nhận được điều đó.

Và Alfred, đắm chìm trong đau thương, oai vệ bước ra khỏi lô, như những anh hùng, nạn nhân của thần định mệnh cổ xưa.