11. VỤ CƯỚP DÂU
Sáu tháng trời khát khao ước ao được kề cận, được sở hữu nàng. Chiếc “Quả cảm” vẫn dọc ngang trên sóng nước biển khơi, sông rạch. Chiếc “Quả cảm” đến rồi đi, riêng lòng khát khao của Guma thì mãi còn ở lại. Anh đã g nàng sau khi từ Santo Arnaro trở về ngay bữa đó. Anh đến cùng Rodolfo và thấy nàng trông còn xinh đẹp hơn - hơi e lệ, với ánh mắt nhìn thật trong sáng. Cô chú nàng, những người bà con nàng đang cùng sống, chủ một quầy rau quả nhỏ, hy vọng nhiều vào sắc đẹp của Livia (tìm một chú rể khá giả) thoạt tiên nồng nhiệt cảm ơn anh đã cứu mạng, nhưng sau đó lại nhìn anh với ánh mắt không mấy cảm tình. Họ nghĩ Guma sẽ đến, sẽ nghe những lời cảm ơn rồi sau đó cứ thẳng đường mình mà đi, khỏi quay đầu lại. Mà anh ta ở lại đây làm gì cơ chứ? Livia có thể chờ đợi gì ở một tay lái thuyền nghèo xơ xác thế kia? Và họ còn biết hy vọng gì ở một kẻ còn nghèo hơn chính họ.
Trong sáu tháng ấy Guma phải chịu ánh mắt lườm nguyết của cô chú nàng để thi thoảng được gặp nàng và trò chuyện vài câu (nàng nói là chính, anh thường chỉ yên lặng lắng nghe). Những ánh mắt tức giận, ác cảm và khinh miệt. Anh đã cứu mạng họ thật, nhưng giờ đây anh đang tước đi niềm hy vọng cuối cùng họ có về một cuộc sống tương lai dễ chịu hơn. Bất chấp những cái nhìn ác cảm, những lời thì thầm đủ to để có thể lọt tai, Guma vẫn đến, luôn lúng túng, vụng về trong bộ quần áo bất biến (và duy nhất) mà anh có.
Ngay tuần đầu tiên anh đã viết cho Livia một bức thư. Thoạt tiên anh định nhờ cô Dulce xem để sửa lỗi dùm. Nhưng anh thấy xấu hổ và cứ thế gửi đi:
L. thân mến của anh, gửi em lời chào bằng cả trái tim.
Bằng bàn tay vụng về và một trái tim điên dại khát khao anh viết mấy dòng này cho em.
Livia tình yêu của anh, anh muốn em đọc lá thư này thật kỹ và trả lời thật khẩn cấp cho anh, anh muốn câu trả lời thật chân thành từ trái tim em.
Livia, em có biết tình yêu bắt đầu từ cái hôn và kết thúc bằng những giọt nước mắt? Nhưng em yêu, nếu em cũng có tình cảm giống như anh thì với chúng mình mọi chuyện sẽ ngược lại, nó bắt đầu bằng một cái nhìn, lớn lên qua cái hôn và sẽ không bao giờ kết thúc? Em có tin tình yêu của anh là như thế không? Anh muốn em trả lời hết mọi câu hỏi của anh thế nhé? Em yêu, anh nghĩ tim em là một vỏ sò bằng vàng có chữ Nhân Hậu ở bên trong.
Livia, tình yêu của anh, hình như anh sinh ra là đã yêu em, anh không thể giấo được nỗi đau trong tim mình nữ, anh nói đó là sự thực em hiểu không?
Em là hy vọng duy nhất của anh, anh trao cả trái tim cho em và sẽ làm bất cứ thứ gì em muốn, anh sợ em không thích anh nhưng tim anh luôn ở trong tay em cho đến giây phút cuối của đời anh.
Khi vừa gặp em anh như mất hồn vì lòng khao khát về em, anh đinh nói ngay nhưng cuối cùng em cũng đã nghe được những lời cầu nguyện của anh.
Anh viết thư cho em để mở trái tim mình, anh không yêu ai khác ngoài em, anh tôn trọng em và yêu em như hạnh phúc muôn đời của anh.
Anh mong em đừng cho ai xem lá thư này để người ta cười nhạo trái tim đầy khao khát của anh, anh có thể phang chèo lên bất kỳ ai cười nhạo anh, anh hy vọng được em trả lời ưng thuận và anh cũng không nói với ai bí mật giữa chúng mình.
Anh mong em trả lời ngay để biết tình cảm của em nhưng anh muốn có câu trả lời chân thật từ trái tim em, em hiểu không?
Câu trả lời ưng thuận của em sẽ làm dịu trái tim đau khổ của anh em biết không?
Xin lỗi em vì chữ xấu và lỗi nhiều.
Em thấy chữ viết khác từ giữa thư vì anh thay bút. Anh viết thư này ở nhà một mình không ai giúp em hiểu không?
Anh muốn được ôm em ngay, anh yêu và tôn trọng em bằng cả trái tim mình em hiểu không?
Gumercindo
KHẨN
Đúng ra thì chút xíu nữa bức thư này đã gây nên một vụ cãi vã, đánh nhau. Thực tình người mở đầu bức thư là tiến sĩ Filadelfio. Hầu như không ai gọi lão là Filadelfio, mọi người đều gọi lão là tiến sĩ. Lão viết những câu chuyện thành thơ, những bài ABC đất cảng, những bản hò vè. Lúc nào cũng như chuếnh choáng hơi men, luôn bực bội nếu ai đó nghi ngờ sự uyên bác của mình (lão từng theo học trường dòng một năm), thỉnh thoảng lão kiếm vài xu chỗ này, chỗ khác bằng cách viết hộ thư cho những kẻ có gia đình, những cặp đã hứa hôn, những tình nhân bất chợt. Lão đọc diễn văn trong các lễ rửa tội, các dám cưới, mọi lễ khai trương ở chợ và khi hạ thủy các con thuyền. Dân cảng thích lão và thường giúp lão kiếm tiền để ăn, để uống. Bút dắt tai, lọ mực trong túi, một chiếc ô vàng, một cuộn giấy, dưới nách lão còn kẹp theo một cuốn sách của Alan Kardec. Cả đời lão đọc cuốn sách đó nhưng chưa bao giờ đọc hết, mới dừng ở trang ba mươi song lão luôn tự coi mình là một tay thôn linh học. Và lão cũng chưa từng dự một buổi lễ thông linh bởi rất sợ những linh hồn từ cõi khác. Buổi chiều lão thường ngồi ở đâu đó trước chợ, trên một chiếc thùng và trở thành cầu nối cho những cuộc tình đất cảng, bi kịch hóa những hoàn cảnh ốm đau cơ cực trong gia đình cánh thợ thuyền, thậm chí viết những lời nguyện gởi Iemanja do quá rõ cuộc sống của người dân đất cảng. Khi thấy Rufino đến lão cười mỉm, vừa nhún vai và hỏi:
- Cô nào mới đây?
Rufino sẽ nói tên và lão sẽ viết một bức thư, cũng y như mọi bận. Và khi gặp một người nào đó lão sẽ bỏ nhỏ một lời khuyên:
- Elisa giờ tự do đấy. Rufino bỏ ả rồi.
Và lão viết thư gởi Elisa dùm ai đó. Cứ thế lão kiếm tiền để sống, nói đúng hơn là để uống. Có lần với mười đồng tostan lão đã sáng tác cho Jacques một tuyệt phẩm bản thân lão cũng thấy tự hào, một bức tâm thư mà đến giờ Judith vẫn mang trong ngực áo:
(Thương nhớ tặng VH-J)
Nhớ hôm nào anh mới gặp em
Ta đi bên nhau, trên bờ cát trắng
Biển xôn xao
sóng hồng sắc nắng
Biển một bên
và em một bên.
Trong mỗi vỏ ốc trắng hồng tay em nhặt lên
Anh nghe vọng tiếng trùng dương sóng dậy
Vòng xoáy ốc
theo kim thời gian
vẫn còn xoay mãi đấy
Như nhắc hoài kỷ niệm của ngày qua...
Và chiếc vỏ óc nga bông xinh xắn
Vật kỷ niệm em trao
anh muốn giữ đến ngàn sau
Như âm bản một trời đêm sao sáng
Nhớ mãi hôm nào khoảnh khắc bên nhau...
Tên bài thơ là Kỷ niệm, bản thân lão cũng xúc động với tác phẩm của mình khi nhìn Jacques với đôi mắt rớm nước:
- Lẽ ra mình phải làm chính trị mới phải, anh bạn ạ. Đất cảng này không phải là nơi để tớ tiến thân. Nhưng cậu thấy đấy, ngay Rui Barbosa cũng có làm được trò trống gì trong chính trị…
Lão đọc to bài thơ, chép lại bằng nét chữ rõ ràng của mình, nhận mười đồng tostan và nói:
- Tớ sẽ trả tiền lại cho cậu nếu cô nàng không đổ sau bức thư này nhanh như thuyền quay tránh bão.
- Ồ, sau ông lại...
- Không, không, tớ sẽ hoàn trả, đúng thế...
Vào các dịp lễ hội ở Cachoeira và Sao Felix lão theo thuyền bạn bè đến viết thư, làm thơ thuê tại các buổi chợ phiên, các hội chợ ở đó, nơi tiếng tăm lão đã tới từ lâu.
Lão thành nơi bắt buộc để gởi gắm niềm tin của mọi người. Rất nhiều lần lão đã trả lời những bức thư do chính tay mình viết. Với sự can thiệp của lão bao trẻ con đất cảng đã ra đời, bao cô gái cảng đã thành gia thất. Lão còn viết thư cho bà con những gia đình ở xa, báo cho họ về cái chết của những người thủy thủ đã ra đi không trở lại. Lão thường uống nhiều hơn vào những ngày như thế.
Guma chọn lúc lão hoàn toàn rảnh rỗi để nói chuyện. Chiều hôm ấy tiến sĩ không có mấy khách và đang ngồi xỉa răng, vừa suy nghĩ xem ai sẽ là người bao cho lão bữa ăn tối. Guma đến bên:
- Xin chào tiến sĩ.
- Chúc cậu thuận buồm xuôi gió. Cậu đến thật đúng lúc đấy. - Lão ưa nói thật.
Guma yên lặng, chưa biết phải bắt đầu ra sao. Tiến sĩ khuyến khích:
- Sao, cậu đang tìm ai đó để thế chỗ Rosa phải không? Tôi sẽ viết cho cậu một bài thơ không cô nào cưỡng nổi.
- Chính vì vậy mà...
- Cậu tính bắt con cá nào vậy? Tên cô nàng ấy là gì?
- Đấy là điều tôi không muốn nói…
Tiến sĩ tỏ vẻ phật ý:
- Suốt mười hai năm tớ ở đây đã có ai tin nhầm vào tớ đâu. Tớ câm như hầm mộ, cậu không thấy sao?
- Không phải chuyện nghi ngờ, tiến sĩ. Tôi sẽ nói sau…
- Cậu muốn có một bức thư tình thật hay, đúng không?
- Tôi muốn ông viết một bức thư, trong đó nói…
- Vậy vào việc thôi. Cô ấy thế nào?
- Rất đẹp.
- Tôi muốn hỏi (lão hơi bực vì định nói “tôi muốn biết” nhưng quên mất vào phút chót) cô ấy là con nhà lành, là gái đứng đường hay là gái thủy thủ? - Gái thủy thủ ngụ ý các cô gái lai bán bar yêu cánh thủy thủ thuần túy vì cảm giác, không đòi hỏi tiền nong.
- Cô ấy con nhà đàng hoàng. Tôi muốn cưới cô ấy.
- Vậy cậu phải kiếm loại giấy màu cam cho vào phong bì, mấy thứ văn phòng phẩm có hình tim lồng nhau ấy.
Guma đi tìm mua mấy thứ đó. Tiến sĩ khuyên:
- Thứ như vậy tốn mất hai cruzados nhưng trông được lắm.
Khi Guma quay lại tiến sĩ bắt đầu viết thư, vừa đọc thành tiếng. Tên của người nhận được ghi bằng chữ L như ý Guma.
Tranh cãi nổ ra ở đoạn bức thư nói: ”Em yêu, anh nghĩ tim em là một vỏ sò bằng vàng có chữ Nhân Hậu ở bên trong”. Thoạt tiên lão ví trái tim như một cái két bằng vàng. Guma không đồng ý về cái két và đề nghị thay bằng vỏ sò. Anh nghĩ không có gì đẹp bằng một chiếc vỏ sò. Két sắt là một thứ trông thật xấu xí, nặng nề như một cái rương. Tiến sĩ không buồn tranh cãi, lão nói hoặc là két sắt hoặc chẳng thư từ gì hết. Mà ai soạn thư chứ, lão hay Guma? Guma giật phắt bức thư từ tay nhà thông thái, lấy luôn bút, mực và bỏ về thuyền mình. Anh xóa cái két, thay bằng vỏ sò. Và tự mình viết hết bức thư với một niềm vui vô hạn. Viết xong anh giải thích thêm về chuyện đổi nét chữ và lại đi tìm tiến sĩ.
- Tiền công của ông đây.
- Cậu không muốn tớ viết nốt sao?
- Không. Nhưng tôi trả đủ… - Và Guma đưa lão tám trăm reis đã hứa.
Tiến sĩ bỏ tiền vào túi, đóng chặt nắp lọ mực và nhìn Guma với ánh mắt nghiêm trang:
- Cậu đã bao giờ nhìn thấy cái két chưa?
- Sao lại chưa? Thậm chí tôi đã khuân một cái to tướng màu xanh lên thuyền mình ở Maragogipe…
- Nhưng cậu chưa hề thấy một cái nào bằng vàng, đúng không?
- Chưa bao giờ.
- Vì vậy cậu nói vỏ sò đẹp hơn. Nếu đã thấy cái két bằng vàng hẳn cậu không cãi thế.
Và như vậy bức thư được gởi đi, vẫn với chiếc vỏ sò. Guma tự mình mang thư đến ngay tối đó. Livia có nhà, họ ngồi nói chuyện một lát, trước khi về anh nói:
- Anh có cái này muốn gởi em, nhưng phải thề là em chỉ mở nó một mình thôi.
- Em thề.
Anh đưa nàng bức thư và đi ra, gần như chạy. Anh chỉ dừng lại khi ra sát bờ biển và cả đêm trằn trọc khắc khoải với ý nghĩ không biết nàng sẽ trả lời sao.
Nàng đã trả lời miệng anh khi anh quay lại ngày hôm sau:
- Em sẽ sửa soạn của hồi môn…
Cô chú nàng, những người đặt mọi hy vọng vào cuộc hôn nhân của Livia, khi biết chuyện đã cấm cửa không cho anh đặt chân đến nhà họ nữa. Chẳng ai hay Rodolfo lúc này lang bạt tận đâu, Guma chẳng còn biết nhờ ai giúp đỡ. Khi không phải chở hàng anh quanh quẩn nhiều giờ cạnh nhà Livia chỉ để gặp nàng một thoáng, trao đổi vài câu và hẹn gặp. Niềm đam mê nơi anh càng lúc càng cao. Cuối cùng anh thổ lộ với Rufino. Chàng da đen cầm một đoạn cây vẽ vu vơ trên mặt đất và nói:
- Tớ thấy chỉ còn một cách giải quyết vụ này thôi…
- Cách nào?
- Bắt cóc cô ta.
- Nhưng…
- Không có chuyện gì đâu. Cậu bàn trước với cô ấy, đưa cô ấy lên thuyền một tối nào đó rồi chở về Cachoeira. Khi quay về gia đình cô ấy buộc phải đồng ý cho cưới thôi.
- Mình biết để cô ấy lại Cachoeira với ai?
- Với mẹ vợ của Jacques - Rufino trả lời sau một thoáng suy nghĩ.
- Đến Jacques hỏi xem hắn nghĩ sao về chuyện đó đi.
Jacques vừa cưới vợ vài tháng trước. Mẹ vợ gã sống ở Cachoeira, Livia có thể sống với bà trong khi Guma thu xếp chuyện cưới hỏi với gia đình nàng. Jacques đồng ý ngay. Guma lại đến quanh quẩn gần nhà Livia để tìm cách gặp và thống nhất với nàng mọi chuyện.
Anh đã gặp và bàn với Livia, nàng đồng ý vì bản thân cũng r nhớ anh. Họ thỏa thuận sẽ hành động vào tối thứ bảy sau, khi cô chú nàng đi thăm ai đó. Nàng sẽ kiếm cớ để ở nhà một mình và họ sẽ bỏ trốn. Đêm đó tại quán “Sao hải đăng” Guma đã rượu mọi người và đồng ý với tiến sĩ rằng cái két đẹp hơn vỏ sò. Nhưng tất nhiên đó phải là một cái két vàng.
Đó là dạo tháng sáu, tháng của những cơn gió Nam và giông bão. Tháng sáu Iemanja thường tung ra những ngọn gió Nam dữ dội. Băng qua cửa vịnh vào mùa này khá nguy hiểm, bão biển thường dữ dội hơn mọi khi. Ngay các con tàu lớn của hãng Baiana cũng thường gặp hiểm nguy vào tháng sáu.
Đêm tháng sáu ấy mây đen bao phủ bầu trời, Iemanja có muốn bơi đi ngăm trăng cũng chịu. Gió Nam ẩm lạnh thổi lộng trên cảng vắng khiến khách đi đường phải dựng cổ, ẩn sâu hơn vào chiếc áo khoác trên người. Guma chiếm vị trí quan sát của mình ở góc phố rui Barbosa từ khi trời còn sáng. Rufino ở cạnh anh và họ không rời mắt khỏi nhà Livia. Họ thấy cô của Livia đóng cửa quầy, nghe tiếng nói chuyện ở phòng trong và lát sau thấy hai người đi ra. Guma nhẹ cả người. Nàng đã thu xếp để không phải đi. Anh theo hai người đến tận bến tàu điện: bà cô đang mỉm cười, ông chú đang đọc báo… Lúc Rufino gõ cửa một bà hàng xóm gọi Livia:
- Cháu không đi sao, Livia? Nếu vậy sang bên bác chơi.
Thấy Rufino gõ cửa, Livia hạ giọng nói với gã và quay sang bà hàng xóm:
- Cô cháu quên cái ví nên nhắn kêu cháu mang ra.
Nàng vào trong lấy chiếc ví cùng cây dù và nói với bà hàng xóm:
- Cô cháu đang đợi ở bến xe điện. Cháu mang cả dù theo luôn, trời chắc sắp mưa.
Bà hàng xóm đưa mắt nhìn xuống:
- Bác tin là bà ấy mang dù theo rồi… Mà trời chắc cũng sắp mưa
Livia đi ra. Họ băng qua quảng trường, xuôi xuống theo các bậc thang, nàng chợt thấy mình đang đứng trước cảng và trước biển, quê hương mới của mình. Guma quấn nàng vào chiếc áo mưa của anh, Rufino đi trước để họ khỏi gặp người quen. Mưa bắt đầu rơi, nhỏ nhưng lạnh. Rufino chia tay hai người khi họ đến chỗ con thuyền neo tại biển.
Đó là dạo tháng sáu, tháng của những cơn gió mạnh khi Livia chuyển nơi sống - chuyển cả cuộc đời mình - từ phố phường ra biển cả. Chiếc “Quả cảm” hướng mũi lao mình đi ngược gió, ánh đèn đỏ soi đường trên mặt biển. Một chủ thuyền đang vào bến chúc Guma thuận buồm xuôi gió. Lần đầu tiên Livia đáp trả bằng lời chào của chốn biển khơi:
- Chúc thuận buồm xuôi gió:
Gió Nam thổi tung tóc nàng. Guma đang gập người bên tay lái, mùi hương lạ dâng lên từ biển, niềm vui rộn rã trong lòng, cũng dâng lên qua tiếng hát của nàng. Livia chào mừng biển bằng bài ca hay nhất mà nàng biết. Con thuyền lướt sóng hướng ra cửa vịnh bằng những bài ca hay nhất co người phụ nữ hát lên, những bài ca vốn có thể làm xiêu lòng gió biển. Livia thấy hạnh phúc, Guma cũng quá hạnh phúc để thoạt tiên không nhận thấy cơn bão đến gần. Livia nằm dưới chân anh, mái tóc nàng trong gió. Rồi họ đi trong im lặng vì nàng không hát nữa. Giờ chỉ còn những ngọn gió Nam đang cất lên bài ca tang tóc của mình.
Bão đến thật nhanh, như thường gặp vào tháng sáu. Gió Nam rung chuyển cánh buồm trên thuyền “Quả cảm”. Ngọn đèn rọi lên các ngọn sóng nơi cửa vịnh. Guma đã qua nhiều cơn bão biển trong đời. Nhiều cơn gây khốn khó chết người cho các chủ thuyền nơi đất cảng. Có đêm anh từng ra biển một mình, bão quá mạnh khiến không ai dám đi để cứu một con tàu. Anh chưa từng sợ hãi. Anh đã quen với cái chết, với ý nghĩ trước sau rồi cũng bỏ thân nơi đáy biển ngoài khơi. Cơn bão hôm nay cũng hứa hẹn sẽ điên cuồng. Những con sóng dâng cao, đè lên đỉnh con sóng khác, như muốn ganh nhau vươn tới mức cao hơn. Anh đã trải qua nhiều cơn bão tồi tệ hơn mà chưa từng sợ hãi. Nhưng sao hôm nay a thấy sợ hãi, sao hôm nay anh lại lo gió sẽ dập tắt ánh đèn? Lần đầu tiên trong đời tim anh đập dồn sợ hãi trước biển khơi. Livia mệt mỏi với nỗi âu lo căng thẳng cả ngày, lo mọi chuyện có thể hỏng vào phút chót nếu cô chú khăng khăng buộc nàng cùng đi, đã nằm xuống ván thuyền cạnh chân Guma bên tay lái. Anh cảm thấy những sợi tóc mơn man trong gió. Cả con người anh hướng đến với nàng bởi rất có thể xảy ra chuyện họ sẽ không bao giờ được cùng nhau chung sống. Rất có thể họ sẽ cùng đi về thế giới của Aioca mà thân thể vẫn chưa hòa chung làm một. Giờ chết của họ còn chưa đến bởi họ vẫn chưa có được nhau, vẫn giữ nguyên nỗi khao khát trong lòng với những cơn run rẩy thỏa mãn khi hai cơ thể chạm nhau, bất kể bão tố và biển khơi hoang dã đang lồng lộn xung quanh. Guma không muốn chết đi mà chưa sở hữu được nàng, bởi nếu vậy anh sẽ mãi mãi phải về lại nơi này, nơi mình chết để tìm kiếm thân xác người con gái anh hằng ao ước.
Livia, vốn chưa biết gì về cuộc sống trên biển, nhìn anh đầy sợ hãi:
- Bao giờ cũng thế này sao, Guma?
- Nếu suốt đời thế này thì đâu có ai dám ra biển lần thứ hai.
Rồi nàng đứng lên ghì chặt lấy anh:
- Có thể đêm nay chúng mình chết mất?
- Cũng có thể không... Thuyền “Quả cảm” rất tốt, mà anh cũng rành chuyện này. - Anh mỉm cười với nàng, bất chấp phong ba bão tới.
Nàng nép chặt hơn vào anh. Và nói khẽ:
- Nếu nghĩ chúng mình sẽ chết, anh hãy yêu em ngay bây giờ đi, như vậy tốt hơn.
Đó cũng là khao khát của Guma. Bằng cách đó họ sẽ chết đi sau khi đã có được nhau, da thịt họ đã hòa vào nhau, nỗi khát khao của họ đã được thỏa mãn. Và họ sẽ bình yên đi vào cõi chết. Nhưng anh biết nếu vượt qua được cửa vịnh vào đến sông anh sẽ thoát và sẽ tìm được chỗ ẩn. Không thể đi tiếp đối đầu với con gió Nam có thể làm lật cả những con tàu. Ngọn đèn vẫn sáng, vẫn còn phương cứu rỗ
Mưa xối xả dội xuống thuyền, dán bết quần áo Livia vào thân thể, tuôn như suối từ người Guma. Với cánh buồm căng gió, chiếc “Quả cảm” gần như nằm nghiêng trên mặt sóng, bị đẩy càng lúc càng xa ra biển, nơi không thuộc về họ mà về những con tàu viễn dương, những con tàu vận tải khổng lồ. Guma dồn hết sức lực còn lại ghì chặt tay lái, vẫn điều khiển được con thuyền của mình bất kẻ những đợt tấn công điên cuồng của sóng gió. Livia áp đầu vào vai anh, cầu khẩn:
- Nếu phải chết, anh hãy yêu em đi...
- Có thể chúng mình sẽ thoát...
Trên trời không có lấy một vì sao, đây chẳng phải là đêm cho tình ái. Không một tiếng ca nào vọng lên từ cảng, chỉ có tiếng gió gào. Nhưng họ muốn ái ân vào đêm ấy, có thể là lần cuối cùng trong cả cuộc đời. Yêu đương cũng phải vội vã. Sóng làm ướt cả thuyền lẫn người. Họ chưa đi được bao xa suốt thời gian ấy. Tất cả những gì Guma gắng làm được là tránh bị kéo trôi qua cửa vịnh ra biển. Một con tàu đang vào cảng với cả ngàn ngọn đèn chiếu sáng. Sóng xô vào mạn tàu đầy bất lực. Nhưng chúng không bất lực trước con thuyền nhỏ xíu của Guma trông đôi lúc như biến đi trong làn nước. Chỉ có Livia đem lại cho anh lòng dũng cảm, chỉ có niềm khát khao được có nàng, được sống vì nàng khiến anh tiếp tục cuộc chiến đấu của mình. Anh chưa từng sợ hãi khi bão tố. Hôm nay là lần đầu tiên. Nỗi sợ hãi phải chết đi mà chưa được biết đến tình yêu của Livia.
Cuối cùng họ cũng vào được sông. Nhưng bão tố ở đây cũng chẳng dỡ hơn chút nào. Một cơn gió mạnh đã thổi tắt ngọn đèn trên thuyền “Quả cảm”. Livia gắng thắp lại nhưng bật cả hộp diêm mà vẫn không được. Guma cố tìm một nơi có thể neo thuyền. Gần cửa sông không có nhiều điểm như vậy. Gần chỗ hồn ma ngựa trắng có một chỗ. Nhưng cánh thủy thủ thà ở lại giữa tâm bão còn hơn neo thuyền tại đấy để nghe tiếng nước kiệu của tay chủ đồn điền xưa. Họ đã gần tới đó. Đã có thể nghe rõ tiếng vó ngựa trong nước chạy kỳ ảo ấy. Con ngựa chạy qua, rồi quay lại, mang theo gánh nặng trên lưng, hình ảnh nó nhoáng hiện lên trong mưa bão.
Livia khẽ cất tiếng hát, dịu dàng như lời mời gọi gởi đến Guma. Nhưng con ngựa trắng vấn đang phi. Thà chết trong mưa bão còn hơn. Hạnh phúc biết bao nếu được yêu nàng, được ghì chặt thân mình vào tấm thân trinh nữ của nàng! Một tia chớp vụt xé màn đêm, Livia nhìn thấy con lạch nhỏ ngay cạnh đấy.
- Xem kìa, Guma... Mình có thể neo thuyền ở đó.
Việc gì phải bận tâm về con ngựa trắng chứ? Nó sẽ không để nàng phải chết vào đêm nay, đêm hôn lễ của nàng. Con ngựa trắng vấn chạy, nhưng Livia đã cất tiếng hát và hoàn toàn không sợ nó. Nàng chỉ sợ bão tố và gió Nam, sợ tiếng sấm như tiếng gầm giận dữ của Iemanja, sợ ánh chớp như ánh mắt của Iemanja lóe sáng.
Và Guma hướng thuyền vào con lạch nhỏ.
Nhiều năm sau có một người (một ông già không ai còn nhớ tuổi) đã kể lại rằng không chỉ những đêm trăng là được tạo ra cho tình ái. Cả những đêm giông bão, đêm cuồng nộ của Iemanja cũng được tạo ra cho những cuộc ái ân. Tiếng rên rỉ yêu đương còn ngọt ngào hơn tiếng nhạc, ánh chớp lóe ngang trời biến thành những vì sao, những con sóng xô bờ biến thành những gợn sóng lăn tăn khi vỗ về bãi cát, nơi có hai người đang say đắm yêu đương. Đêm bão tố cũng dành cho tình yêu. Bởi tình yêu chính là tiếng nhạc, là những vì sao, là sự bình yên.
Có tiếng nhạc ngân nga trong tiếng rên đau đớn của Livia. Có những ánh sao trong ánh mắt nàng rực lên như những tia chớp cắt ngang trời. Tiếng kêu kiêu hãnh của Guma làm lặng câm tiếng sấm. Những con sóng vỗ vào bờ cát ven lạch mơn man như khi trời lặng gió dừng. Họ hạnh phúc vô cùng, và đẹp đẽ biết bao khi đêm tối đen không trăng sao ấy lại tràn ngập tình yêu khiến con ngựa bất hạnh kia được dỡ bỏ đi gánh nặng đầy ải của mình. Từ đó nó không bao giờ còn buông vó bên bờ sông ấy, nơi đã thành chốn hẹn hò ân ái của các thủy thủ ngày nay.