Chương 23 - Bài Kiểm Tra Cuối Cùng Của Giáo Sư Thoth.
Sadie đây. Xin lỗi vì sự chậm trễ, mặc dầu tôi không cho là các bạn nhận ra điều đó trong cuộn băng ghi âm này. Anh trai nhanh nhảu đoảng của tôi đã đánh rơi micrô vào một cái hố đầy… ồ, đừng bận tâm. Chúng ta quay lại với câu chuyện nào.
Carter giật mình tỉnh dậy, đập mạnh đầu gối vào khay đựng nước, buồn cười muốn chết.
“Ngủ ngon chứ?” tôi hỏi.
Anh chớp mắt nhìn tôi với vẻ bối rối. “Em trở thành con người.”
“Anh mới dễ thương làm sao khi nhận ra điều đó.”
Tôi cắn một miếng pizza nữa. Tôi chưa bao giờ ăn pizza bày trong đĩa sứ hay uống Coca trong một cái ly thủy tinh cả (không có đá - người Mỹ kỳ quái thật) nhưng tôi đang tận hưởng dịch vụ của khoang hạng nhất.
“Em đã biến lại cách đây một tiếng.” Tôi hắng giọng. “Cũng khá… ừm… khá có ích, những điều anh đã nói ấy, về việc tập trung vào những điều quan trọng ấy.”
Nói có từng ấy thôi mà cũng đủ ngượng nghịu rồi, vì tôi nhớ mọi điều mà anh ấy kể cho tôi khi tôi còn là con diều hâu về các chuyến hành trình của anh ấy với Cha - chuyện anh ấy bị lạc ở đường tàu điện ngầm như thế nào, bị ốm ở Venice ra sao, kêu ré lên như con nít khi tìm thấy một con bọ cạp trong tất của mình. Quá nhiều vũ khí để trêu chọc anh ấy, nhưng kỳ lạ là tôi chẳng có hứng. Cái cách anh ấy trải lòng mình ra… Có lẽ anh ấy đã nghĩ rằng tôi không hiểu anh ấy khi ở trong hình dáng một con diều hâu - nhưng anh ấy đã quá thành thật, quá vô tư, và anh ấy đã làm thế để giúp tôi bình tĩnh lại. Nếu anh ấy đã không nói điều gì đó để tôi tập trung vào, thì chắc rằng hiện tôi vẫn còn đang săn chuột đồng phía trên dòng sông Potomac.
Carter đã nói về Cha như thể các chuyến cùng nhau du hành của họ là việc tuyệt vời lắm, đúng thế, nhưng đồng thời cũng là một việc chán phèo, với Carter luôn vật vã tìm cách làm vui lòng cha và luôn có thái độ tốt nhất, mà không có ai để sẻ chia căng thẳng, hay nói chuyện cùng. Phải thừa nhận rằng, cha quả là người có sức ảnh hưởng to lớn. Bạn sẽ gặp rắc rối khi không có được sự đồng ý của ông. (Rõ ràng tôi có được cái tính cách thu hút thuyết phục đến không ngờ này từ đây rồi.) Tôi chỉ gặp ông hai lần một năm, ấy vậy mà tôi vẫn phải chuẩn bị tinh thần cho những lần gặp gỡ đó. Lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu tự hỏi liệu Carter có thực sự nhận được phần hơn không. Liệu tôi có đổi cuộc đời mình lấy đời sống của anh ấy không?
Tôi cũng quyết định không kể cho anh ấy nghe về điều thật sự đã
biến tôi thành người là gì. Tôi đã không tập trung nhớ về Cha gì cả. Tôi đã hình dung rằng Mẹ còn sống, tưởng tượng ra mẹ con tôi cùng nhau đang rảo bước trên đường Oxford, ngắm nhìn các ô cửa trưng bày rồi trò chuyện rồi cười đùa - giống như một ngày bình thường mà mẹ con tôi chưa từng có cơ hội chia sẻ với nhau. Một mong ước bất khả thi, tôi biết chứ. Nhưng lại vô cùng mạnh mẽ đủ khiến tôi nhớ mình là ai.
Tôi chẳng nói ra một lời nào về chuyện này, nhưng Carter lại chăm chú nhìn mặt tôi, và tôi có cảm giác rằng anh ấy đã đọc được ý nghĩ của tôi hơi quá rõ.
Tôi nhấp một ngụm Coca. “Mà này, anh đã lỡ mất bữa trưa rồi đấy.”
“Em đã không thử đánh thức anh sao?”
Ở phía hàng ghế đối diện, nữ thần Bast ợ to. Cô ấy vừa mới xử xong đĩa cá hồi và trông khá là thỏa mãn. “Ta có thể triệu hồi một ít Friskies,” cô ấy đề nghị. “Hay sandwich pho-mát.”
“Không, cám ơn,” Carter lẩm bẩm. Anh ấy trông não nề.
“Chúa ơi, anh Carter,” tôi nói.”Nếu bữa trưa quan trọng đến thế với anh, thì em có một ít pizza còn thừa…”
“Không phải thế,” anh ấy nói. Rồi anh ấy kể cho chúng tôi nghe về việc ba của anh ấy suýt chút nữa đã bị Set tóm cổ như thế nào.
Tin tức đó khiến tôi khó thở.
Tôi có cảm giác như một lần nữa lại bị mắc kẹt trong hình dáng con diều hâu, không thể nghĩ được điều gì cho ra hồn. Cha đã bị nhốt trong một cái kim tự tháp đỏ sao? Chú Amos tội nghiệp sẽ bị sử dụng như là một con tốt ư? Tôi nhìn nữ thần Bast tìm kiếm sự an ủi.
“Chúng ta có làm được gì không vậy?”
Nét mặt cô ấy buồn bã. “Sadie, ta không biết. Set sẽ trở nên sung mãn nhất vào ngày sinh nhật của hắn, và bình minh sẽ là thời khắc tốt nhất để sử dụng phép thuật. Nếu hắn có thể tạo ra một vụ nổ năng lượng bão lớn vào lúc bình minh của ngày hôm đó - sử dụng không chỉ phép thuật của chính mình, mà còn cộng hưởng vào phép thuật của hắn bao sức mạnh từ các vị thần khác mà hắn đã biến được thành nô lệ… khối lượng hỗn loạn mà hắn có thể giải thoát ra là không thể tưởng tượng được.” Cô ấy rùng mình. “Carter, cậu nói một con quỷ bình thường đã đưa cho hắn ý tưởng đó sao?”
“Nghe có vẻ như thế,” Carter đáp. “Hay nói cho cùng là hắn đã sửa đi kế hoạch ban đầu.”
Nữ thần Bast lắc đầu. “Chuyện này nghe chẳng giống Set chút nào.”
Tôi ho khan. “Ý cô là gì? Nghe giống hệt gã ấy chứ.”
“Không,” nữ thần Bast khăng khăng. “Việc này khủng khiếp quá, thậm chí với cả hắn. Set mong ước được làm vua, nhưng một vụ nổ như thế có thể sẽ chẳng để lại gì cho hắn cai trị cả. Gần như là…” Cô ngừng lại, ý nghĩ ấy dường như quá kinh hoàng. “Ta không hiểu chuyện này lắm, nhưng chúng ta sắp hạ cánh rồi. Hai người sẽ phải hỏi Thoth thôi.”
“Cô nói như thể cô sẽ không đi cùng chúng tôi vậy,” tôi bảo.
“Thoth và ta không hòa thuận với nhau cho lắm. Các cơ hội sống sót của cả hai có thể tốt hơn…”
Đèn dây an toàn bật sáng. Cơ trưởng thông báo rằng chúng tôi đang bắt đầu đáp xuống Memphis. Tôi chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ và trông thấy một con sông màu nâu rộng lớn cắt ngang quang cảnh - một con sông lớn hơn bất cứ con sông nào tôi đã từng thấy. Nó gợi cho tôi bồn chồn nghĩ về một con rắn khổng lồ.
Một cô tiếp viên tiến đến và chỉ vào đĩa thức ăn của tôi. “Xong rồi chứ em?”
“Chắc thế,” tôi rầu rĩ đáp.
Memphis không biết rằng bấy giờ là mùa đông ở đó. Cây cối vẫn xanh tươi và bầu trời xanh trong văn vắt.
Lần này chúng tôi kiên quyết không để cho nữ thần Bast “mượn” thêm bất cứ chiếc xe nào, vì thế cô ấy đồng ý thuê một chiếc miễn là cô ấy có một chiếc mui trần là được. Tôi không hỏi cô ấy lấy tiền ở đâu ra, rồi chẳng mấy chốc chúng tôi đã vi vu qua các con đường gần như vắng lặng của Memphis trên chiếc BMW hạ mui.
Tôi chỉ nhớ được loáng thoáng về thành phố. Chúng tôi đi qua một khu vực dân cư có lẽ đã được dùng làm cảnh dựng cho bộ phim Cuốn Theo Chiều Gió - các căn biệt thự màu trắng to lớn nằm trên các bãi cỏ khổng lồ, in bóng lên đấy là những cây bách, mặc dù mấy ông già Noel trang trí bằng nhựa trên mái nhà đã phá vỡ mất hiệu ứng của quang cảnh, ở khu nhà kế bên, chúng tôi suýt bị giết bởi một bà già lái một chiếc Cadillac ra khỏi khu vực đỗ xe của nhà thờ. Nữ thần Bast bẻ lái và ấn còi, bà già đó chỉ mỉm cười và vẫy vẫy tay. Lòng mến khách của dân niềm Nam, tôi cho là thế.
Qua thêm vài khối nhà nữa, các căn nhà trở thành những mái lều đổ nát. Tôi nhìn thấy hai cậu nhóc người Mỹ gốc Phi vận quần jeans và áo sơ-mi bó sát, đang ngồi phía trước mái hiên ôm đàn guitar hát nghêu ngao. Giọng hát của họ nghe khá hay, tôi những muốn được dừng xe lại.
Ở góc cua kế tiếp là một nhà hàng được xây bằng gạch không nung với biển hiệu được vẽ tay ghi rõ GÀ & BÁNH QUẾ. Hai mươi người đang sắp hàng ở bên ngoài.
“Người Mỹ các anh có khẩu vị lạ nhất trần đời đấy. Đây là hành tinh gì ấy nhỉ?” tôi hỏi.
Carter lắc đầu. “Vậy thần Thoth sẽ ở đâu đây?”
Nữ thần Bast ngửi ngửi trong không khí rồi rẽ trái vào con đường có tên Poplar. “Chúng ta đang đến gần. Theo như những gì ta biết về Thoth, ông ta chắc chắn sẽ tìm một trung tâm dạy học nào đó. Một thư viện, có lẽ thế, hay một nơi lưu trữ sách trong lăng mộ của một pháp sư.”
“Ở Tennesse không có được nhiều mấy thứ đó,” Carter đoán.
Rồi tôi nhìn thấy một biển hiệu và cười toe toét. “Trường đại học Memphis thì thế nào?”
“Giỏi lắm, Sadie!” nữ thần Bast kêu lên.
Carter cau có nhìn tôi. Cậu bé tội nghiệp lại ghen tị ấy mà, các bạn biết rồi đấy.
Một vài phút sau, chúng tôi lững thững đi xuyên qua khuôn viên của một trường cao đẳng nhỏ: các tòa nhà gạch đỏ cùng các sân trong rộng lớn. Cả khu trường im lặng một cách kỳ quái, ngoại trừ âm thanh của tiếng dội banh lên mặt sân bê-tông.
Ngay khi Carter nghe thấy âm thanh đó, anh ấy trở nên vui vẻ hơn. “Bóng rổ.”
“Ồ, xin anh đấy,” tôi nói. “Chúng ta cần tìm thần Thoth.”
Nhưng Carter đi theo âm thanhcủa tiếng banh, còn chúng tôi thì đi theo anh ấy. Anh ấy đi vòng qua góc một tòa nhà và đứng khựng lại. “Hãy hỏi chúng xem.”
Tôi không hiểu anh ấy đang nói gì. Rồi tôi rẽ vào góc tường và hét lên khe khẽ. Trên sân bóng rổ, năm cầu thủ đang trong một trận đấu căng thẳng. Chúng mặc đủ kiểu áo thi đấu của các đội bóng rổ khác nhau của Mỹ, và tất cả dường như đều thiết tha giành chiến thắng - khọt khẹt gầm gừ lẫn nhau, cướp bóng rồi đẩy người.
Ồ… và tất cả cầu thủ đều là khỉ đầu chó.
“Con vật thiêng của Thoth,” nữ thần Bast nói. “Chúng ta đến đúng nơi rồi.”
Một trong số những con khỉ đầu chó có bộ lông vàng rực rỡ hơn đám còn lại, và ờ, cùng cái mông cũng nhiều màu sắc hơn. Nó mặc một cái áo thể thao màu tía và trông quen đến lạ.
“Đó… có phải là áo thi đấu của đội Lakers không?” tôi hỏi, ngần ngừ khi thậm chí chỉ là gọi tên nỗi ám ảnh ngốc nghếch của Carter ra.
Anh ấy gật đầu, và cả hai chúng tôi cười toe toét.
“Khufu!” cả hai chúng tôi hét lên.
Đúng vậy, chúng tôi không biết nhiều lắm về con khỉ đầu chó đó. Chúng tôi đã ở cùng nó chưa đầy một ngày, và thời gian ở căn biệt thự của chú Amos dường như cách đây hàng thế kỷ, nhưng dầu vậy tôi vẫn có cảm giác như bọn tôi vừa mới tìm thấy được người bạn đã lạc mất từ lâu.
Khufu nhảy bổ vào cánh tay tôi mà sủa lên. “Agh! Agh!” Nó nhấc nhấc tóc tôi lên, tìm kiếm chấy, tôi cho là thế [Không được đưa ra lời bình luận nào, Carter!], rồi tọt xuống đất, đập đập tay xuống mặt đường để bày tỏ nó vui mừng đến thế nào.
Nữ thần Bast cười lớn. “Nó nói rằng cô có mùi như mùi của những con hồng hạc.”
“Cô nói được tiếng khỉ đầu chó sao?” Carter hỏi.
Nữ thần nhún vai. “Nó cũng muốn biết hai người đã ở đâu.”
“Chúng tôi đã ở đâu sao?” tôi nói. “Ừm, đầu tiên, nói với nó rằng tôi đã trải qua phần lớn thời gian trong ngày trong bộ dạng diều hâu, chứ không phải là hồng hạc và không kết thúc bằng chữ -o, vì thế tôi không phải là khẩu phần ăn của nó. Thứ nữa…”
“Đợi đã.” Nữ thần Bast quay về phía Khufu và nói, “Agh!” Rồi cô ấy nhìn tôi. “Được rồi, nói tiếp đi.”
Tôi chớp chớp mắt. “Okay… ừm, và thứ hai là, nó đã ở đâu vậy?”
Cô ấy dịch những gì tôi nói chỉ với một tiếng gừ duy nhất.
Khufu khịt khịt mũi rồi tóm lấy trái bóng rổ, khiến đám bạn khỉ đầu chó gầm gừ cào gãi hầm hè đến là cuồng loạn.
“Nó lặn xuống sông rồi bơi trở lại” nữ thần Bast phiên dịch, “nhưng khi nó quay lại, ngôi nhà đã bị phá hủy và chúng ta đã đi mất. Nó đã đợi nguyên cả một ngày để chờ Amos trở về, nhưng ông ta đã không quay lại. Vì thế Khufu lên đường tìm đến Thoth. Xét cho cùng thì các con khỉ đầu chó chịu sự bảo vệ của ông ta.”
“Sao lại thế?” Carter hỏi. “Ý tôi là, tôi không cố ý làm mất lòng ai đâu nhé, nhưng thần Thoth là vị thần của kiến thức, đúng không?”
“Khỉ đầu chó là những con vật rất thông minh,” nữ thần Bast nói.
“Agh!” Khufu ngoáy mũi, rồi quay cái mông màu sắc sặc sỡ về hướng chúng tôi. Nó ném quả banh về phía bạn mình. Chúng bắt đầu tranh giành nhau, khoe những chiếc răng nanh với nhau và vỗ bình bịch vào đầu mình.
“Thông minh ư?” tôi hỏi.
“Ồ, chúng không phải là mèo, xin cô nhớ kỹ cho,” nữ thần Bast nói thêm. “Nhưng, đúng thế, thông minh. Khufu nói rằng ngay khi Carter giữ lời hứa của mình, nó sẽ đưa hai người đến gặp giáo sư.”
Tôi chớp chớp mắt. “Giáo… ồ, ý cô là… đúng rồi.”
“Lời hứa nào?” Carter hỏi.
Khóe miệng của nữ thần Bast giật giật. “Hình như cậu đã hứa cho nó thấy các kỹ năng chơi bóng rổ của cậu.”
Mắt Carter mở lớn đầy hoảng hốt. “Chúng ta không có thời gian!”
“Ồ, ổn thôi,” nữ thần Bast hứa. “Tốt hơn hết là tôi nên đi.”
“Nhưng đi đâu, Bast?” tôi hỏi, vì tôi không nôn nóng được chia cắt khỏi cô ấy lần nữa. “Chúng tôi sẽ tìm cô như thế nào?”
Ánh mắt cô ấy chuyển sang có gì đó như hối lỗi, như thể cô ấy vừa mới gây ra một tai nạn khủng khiếp vậy. “Tôi sẽ tìm hai người khi hai người ra khỏi, nếu hai người ra khỏi…”
“Ý cô là gì khi nói nếu thế?” Carter hỏi, nhưng nữ thần Bast đã biến thành con Muffin và bỏ chạy thật nhanh.
Khufu cứ khăng khăng gầm gừ với Carter. Nó tóm lấy tay anh ấy, kéo anh ấy vào sân banh. Đám khỉ đầu chó nhanh chóng tách thành hai đội. Một nửa cởi áo thi đấu của mình ra. Nửa còn lại thì vẫn giữ nguyên. Carter ấy à, buồn thay, lại thuộc đội không-áo-thi-đấu, và Khufu giúp anh ấy cởi áo sơ-mi ra, để lộ ra bộ ngực xương xẩu. Hai đội bát đầu chơi.
Này nhé, tôi chẳng biết gì về bóng rổ cả. Nhưng tôi khá chắc rằng cầu thủ đúng ra là không tự vấp giày mình mà té, hay giơ trán bắt bóng, hoặc rê bóng (có phải từ đó không nhỉ?) với cả hai tay như thể đang vỗ về một con chó mắc bệnh dại. Nhưng đó chính xác là cách Carter chơi bóng. Mấy con khỉ chỉ việc càn qua người anh ấy, đúng theo nghĩa đen luôn. Chúng ghi hết điểm này đến điểm khác trong khi Carter loạng choạng ngã lui ngã tới, bị bóng đập vào người mỗi khi nó đến gần, vấp phải tay chân của những con khỉ cho đến khi anh ấy hoa cả mắt, quay vòng vòng và ngã sấp xuống. Bọn khỉ ngừng chơi và nhìn anh ấy mà không tin nổi. Carter nằm giữa sân, người đầy mồ hôi và hổn hà hổn hển. Mấy con khỉ quay nhìn Khufu. Điều chúng nghĩ khá là rõ ràng: Ai đã mời cái con người này thế? Khufu che mắt mình lại vì xấu hổ.
“Carter này,” tôi hớn hở gọi, “ba hoa đủ thứ về bóng rổ và đội Lakers, vậy mà anh hoàn toàn là kẻ bỏ đi! Bị khỉ đánh bại!”
Anh ấy khổ sở rên rỉ. “Đó là… đó là trò chơi yêu thích của Cha.”
Tôi nhìn chằm chằm Carter. Trò chơi yêu thích của Cha. Chúa ơi, sao tôi lại không nghĩ ra chuyện đó cơ chứ?
Hình như anh ấy tưởng nét mặt ngớ ra của tôi như là lời chỉ trích nghiêm khắc hơn.
“Anh… anh có thể nói cho em bất cứ thống kê nào của NBA mà em muốn,” Carter hơi tuyệt vọng. “Tỷ lệ phần trăm các cú bắt bóng bật bảng, chuyền bóng hỗ trợ, ném phạt.”
Đám khỉ kia quay trở lại trận bóng, lờ đi cả Carter lẫn Khufu. Khufu phát ra âm thanh khinh ghét, nửa khạc nửa gầm gừ.
Tôi hiểu cái tình cảm đó, nhưng tôi đã tiến lên và chìa tay ra với Carter. “Thế thì đi thôi. Không sao đâu.”
“Nếu anh có đôi giày tốt hơn,” anh ấy giả thiết. “Hay nếu anh không quá mệt mỏi…”
“Carter này,” tôi cười khẩy và nói. “Không sao cả đâu. Và em sẽ không hé bất cứ lời nào với Cha khi chúng ta cứu được ông.”
Anh ấy nhìn tôi với vẻ biết ơn hiển hiện, (ừm, xét cho cùng, tôi là một người khá tuyệt vời đấy chứ.) Rồi anh ấy nắm lấy tay tôi, tôi kéo anh ấy đứng lên.
“Giờ thì vì Chúa, anh mặc áo vào đi,” tôi nói. “Còn Khufu, giờ là lúc mày dẫn bọn tao đến gặp giáo sư đấy.”
Khufu dẫn bọn tôi đi vào một tòa nhà khoa học vắng tanh không một bóng người. Không khí trong hành lang có mùi giấm, và các phòng thí nghiệm không người trông giống mấy phòng thí nghiệm trong trường trung học ở Mỹ, chứ không phải là nơi mà một vị thần muốn lai vãng. Chúng tôi leo lên cầu thang và thấy một dãy văn phòng của các giáo sư. Phần lớn cửa đều được đóng kín. Một phòng được để mở, để lộ ra không gian chẳng lớn hơn gì so với phòng đựng chổi, nhét đầy những sách là sách, một cái bàn làm việc bé tẻo teo, và một cái ghế. Tôi tự hỏi liệu vị giáo sư đó đã làm điều gì sai trái đến nỗi chỉ nhận được một văn phòng bé như thế.
“Agh!” Khufu ngừng lại phía trước một cánh cửa gỗ gụ bóng láng, đẹp hơn nhiều so với những cái còn lại. Một cái tên mới tong lấp lánh trên mặt kính: DR. THOTH.
Chẳng thèm gõ cửa, Khufu đẩy cửa ra và lạch bà lạch bạch đi vào bên trong.
“Đến phiên anh, ông gà ạ” tôi nói với Carter. (Và đúng thế, tôi chắc anh ấy đang hối hận vì đã kể cho tôi nghe về tình tiết đặc biệt đó. Dầu sao thì, tôi không thể hoàn toàn thôi không trêu chọc anh ấy. Tôi phải giữ danh tiếng cho mình chứ.)
Tôi cho là mình sẽ thấy thêm một căn phòng đựng chổi khác. Nhưng thay vào đó, văn phòng này lớn đến không thật.
Trần nhà cao ít nhất mười mét, với một bên văn phòng toàn là cửa sổ, nhìn ra được đường chân trời của Memphis. Các cầu thang kim loại dẫn lên một gác lửng có cái kính thiên văn khổng lồ choáng hết cả chỗ, và ở đâu đó bên trên ấy vọng xuống tiếng guitar điện được chơi khá là tệ. Các bức tường khác của văn phòng là hàng hàng lớp lớp các kệ sách. Các bàn thao tác đầy ứ những thứ lặt vặt - các ống nghiệm hóa học, những chiếc máy tính đang lắp rắp dở dang, thú nhồi bông với những sợi dây điện ló ra khỏi đầu. Căn phòng nồng nặc mùi thịt bò nấu chín, nhưng lại hương khoi khói thơm thơm hơn mà trước đây tôi chưa hề ngửi thấy.
Điều kỳ lạ nhất là, ngay phía trước mặt chúng tôi, sáu con chim cổ dài - những con cò quăm - ngồi phía sau những chiếc bàn như các nhân viên tiếp tân, đang dùng mỏ gõ tanh tách vào những chiếc máy tính xách tay.
Carter và tôi nhìn nhau. Lần đầu tiên tôi không thể thốt nên lời.
“Agh!” Khufu cất tiếng gọi.
Phía trên gác xép, tiếng gảy đàn ngừng lại. Một người đàn ông gầy và cao lêu nghêu ở độ tuổi hai mươi đứng dậy, cây guitar điện trong tay. Anh ta có chỏm tóc vàng bù xù như Khufu, vận một chiếc áo blu trắng đầy những vết bẩn bên ngoài chiếc quần jeans bạc màu và áo phông đen. Lúc đầu tôi nghĩ máu đang rỉ ra từ khóe miệng anh ta. Rồi tôi nhận ra đó là một thứ nước sốt thịt nào đó.
“Hay quá.” Anh ta cười toe toét. “Ta vừa mới khám phá ra điều này, Khufu à. Đây không phải là Memphis, Ai Cập.”
Khufu liếc xéo tôi, và tôi có thể thề rằng nét mặt của nó muốn nói, Giờ mới biết hả.
“Ta cũng đồng thời khám phá ra một kiểu pháp thuật mới mang tên nhạc blues,” người đó tiếp tục nói. “Và món thịt nướng. Đúng, mày phải thử món thịt nướng.”
Khufu có vẻ chả ấn tượng gì mấy với lời nói đó. Nó leo lên nóc của một cái kệ sách, vơ lấy một hộp Cheerios và bát đầu nhai tóp tép.
Người đàn ông chơi guitar trượt xuống từ lan can cầu thang trong sự thăng bằng hoàn hảo và đáp xuống trước mặt chúng tôi.
“Isis và Horus,” anh ta nói. “Ta thấy hai người đã tìm được cơ thể mới cho mình rồi nhỉ.”
Đôi mắt anh ta có cả tá sắc màu trong đó, chuyển đổi như một cái kính vạn hoa, với hiệu ứng thôi miên.
Tôi lắp ba lắp bắp nói. “Ừm, chúng tôi không…”
“Ồ, ta hiểu,” anh ta đáp. “Chỉ đang chia sẻ cơ thể thôi chứ gì? Đừng nghĩ ta bị lừa trong một phút nhé, Isis. Ta biết cô đang nắm quyền mà.”
“Nhưng không phải!,” tôi phản đối. “Tên tôi là Sadie Kane. Tôi cho rằng anh là Thoth phải không nào?”
Anh ta nhướn mày. “Cô khẳng định rằng không biết ta sao? Dĩ nhiên ta là Thoth. Đồng thời cũng được gọi là Djehuti. Và còn được gọi…”
Tôi cố không bật cười. “Ja-hooty hả?”
Thần Thoth trông khó chịu, “Ở thời Ai Cập Cổ Đại, đó là một cái tên vô cùng hay. Người Hy Lạp gọi ta là Thoth. Rồi sau đó họ nhầm ta với thần Hermes của họ. Thậm chí còn dám đổi cả tên thành phố thiêng liêng của ta thành Hermopolis, cho dù bọn ta chẳng giống nhau một chút nào. Tin ta đi, nếu ngươi có bao giờ gặp được Hermes…”
“Agh!” Khufu hét lên với cái miệng đầy Cheerios.
“Ngươi nói đúng,” thần Thoth đồng ý. “Ta đang bị lạc đề. Vậy ngươi khẳng định mình là Sadie Kane. Và…” Anh ta ngoặt ngón tay về phía anh Carter, người đang nhìn các con cò quăm đánh máy. “Ta cho rằng ngươi không phải là Horus.”
“Carter Kane,” Carter nói, vẫn bị phân tâm bởi các màn hình của mấy con cò quăm. “Đó là gì thế ạ?”
Thần Thoth tươi tỉnh rạng rỡ hẳn lên. “Đúng rồi, chúng được gọi là máy tính. Tuyệt diệu, đúng không? Hình như…”
“Không, ý tôi là những con chim đang đánh máy cái gì thế ạ?” Carter nheo nheo mắt và đọc từ màn hình. “Một Chuyên Luận Ngắn Về Sự Tiến Hóa của Những Con Bò Tây Tạng ư?”
“Các bài luận văn học thuật của ta,” thần Thoth giải thích. “Ta cố làm một vài đề án cùng một lúc. Ví dụ như, cậu có biết trường đại học này không có lấy một chuyên đề nào về thuật tử vi hay các ngón lừa đảo của thầy lang không? Choáng chưa! Ta dự tính thay đổi điều đó. Ta đang sửa chữa trụ sở mới ngay lúc này ở dưới kia bên cạnh con sông ấy. Rồi đây Memphis sẽ trở thành một trung tâm học thuật đúng nghĩa!”
“Điều đó thật thông minh,” tôi miễn cưỡng nói. “Chúng tôi cần sự giúp đỡ để đánh bại Set.”
Các con cò quăm ngừng đánh máy mà nhìn tôi chăm chú.
Thần Thoth chùi vết sốt thịt nướng trên miệng mình. “Cô còn dám hỏi chuyện này sau lần vừa rồi ư?”
“Lần vừa rồi?” tôi lặp lại.
“Ta có bản báo cáo ở đâu đó…” Thần Thoth vỗ vỗ vào những cái túi trên áo phòng thí nghiệm, ông ta lấy ra một mẩu giấy nhăn nhúm và đọc. “Không phải, đây là danh sách tạp phẩm.”
Ông ta quẳng nó ra sau vai. Ngay khi mảnh giấy rơi xuống sàn nhà, nó biến thành một ổ bánh mì làm từ lúa mì, một bình sữa, và một lốc sáu lon Mountain Dew.
Thần Thoth kiểm tra hai tay áo. Tôi nhận ra các vết dơ trên áo khoác ông ta là các chữ được làm mờ, được in bằng mọi thứ tiếng. Các vết bẩn di chuyển và thay đổi, tạo thành các chữ tượng hình, các chữ cái tiếng Anh, các biểu tượng Demotic, ông ta phủi một vết bẩn ở ve áo thế là bảy chữ cái rơi xuống sàn, tạo thành từ: tôm đồng. Từ đó biến thành một động vật giáp xác nhầy nhầy, giống con tôm đất, rồi nó ngọ nguậy mấy cẳng chân chỉ trong một lúc trước khi một con cò quăm đớp lấy nó.
“À, đừng bận tâm,” thần Thoth lên tiếng. “Ta chỉ nói cho cô nghe phần ngắn gọn nhé: Để báo thù cho cha mình, Osiris, Horus đã thách đấu tay đôi với Set. Người chiến thắng sẽ trở thành vua của các vị thần.”
“Horus đã chiến thắng,” Carter nói.
“Ngươi đã nhớ ra!”
“Không, tôi đã đọc được về chuyện đó.”
“Và ngươi có nhớ được rằng không có sự giúp đỡ của ta, Isis và ngươi cả hai đều sẽ chết không? Ồ, ta đã cố đưa ra giải pháp hòa giải để ngăn ngừa trận chiến. Đó là một trong số các công việc của ta, ngươi biết đấy: gìn giữ cân bằng giữa trật tự và hỗn loạn. Nhưng k-k-không, Isis đã thuyết phục giúp cho phe của ngươi vì Set đang trở nên quá hùng mạnh. Và trận chiến sém chút đã hủy diệt cả thế giới.”
Hắn ta càm ràm quá nhiều, tiếng Isis vang lên trong đầu tôi. Trận chiến đâu có tệ lắm đâu.
“Không ư?” Thoth gặng hỏi, và tôi có cảm giác ông ta có thể nghe thấy giọng bà Isis rõ như tôi vậy. “Set đã đâm lòi một mắt của Horus.”
“Ối.” Carter chớp chớp mắt.
“Đúng thế, và ta đã thay con mắt đó bằng một con mắt mới được làm từ ánh trăng. Con Mắt Horus - biểu tượng nổi tiếng của ngươi đấy. Đó là ta, cám ơn rất nhiều. Và khi ngươi cắt đầu của Isis…”
“Ngừng, ngừng.” Carter liếc nhìn tôi. “Tôi đã cắt đầu con bé sao?”
Ta lành lại, Isis quả quyết với tôi.
“Chỉ là vì ta đã cứu ngươi, Isis!” thần Thoth nói. “Và đúng thế, Carter, Horus, hay bất cứ cái tên nào ngươi tự gọi mình cũng được, ngươi đã quá điên cuồng, ngươi đã cắt phăng đầu cô ta. Ngươi quá hấp tấp, ngươi thấy đấy - về việc tấn công Set khi ngươi vẫn còn yếu, và Isis đã cố ngăn ngươi lại. Điều đó đã khiến ngươi điên tiết thế là ngươi rút kiếm ra - Ồ, vấn đề là, hai ngươi đã gần như tiêu diệt lẫn nhau trước khi đánh bại được Set. Nếu ngươi bắt đầu một trận chiến khác với Chúa Đỏ, hãy thận trọng. Hắn ta sẽ dùng sự hỗn loạn để biến hai ngươi chống lại lẫn nhau đấy.”
Chúng ta sẽ đánh bại hắn ta lần nữa, Isis hứa. Thoth chỉ ghen tị mà thôi.
“Câm miệng,” Thoth và tôi nói cùng một lúc.
Ông ta nhìn tôi đầy ngạc nhiên. “Vậy, Sadie… cô đang cố nắm quyền kiểm soát. Việc đó sẽ không được lâu. Có thể cô là dòng dõi của các pharaoh đấy, nhưng Isis lại lừa đảo, khao khát quyền lực…”
“Tôi có thể kiểm soát bà ta,” tôi nói, và tôi phải sử dụng hết sức mạnh ý chí của mình để ngăn không cho Isis không buông ra những tràng lăng mạ.
Thần Thoth búng lên phím đàn guitar. “Đừng có đoan chắc như thế. Isis chắc chắn đã nói với cô rằng cô ta sẽ giúp đánh bại Set. Thế cô ta có nói cho cô rằng cô ta là nguyên nhân khiến Set trở thành người đầu tiên mất kiểm soát không? Cô ta đã trục xuất vị vua đầu tiên của bọn ta.”
“Ý ông là thần Ra ấy à?” Carter nói. “Chẳng phải ông ấy già đi và quyết định rời khỏi trái đất sao?”
Thần Thoth khịt mũi. “Ông ấy già, đúng là thế thật, nhưng ông ấy bị buộc phải rời đi. Isis quá mệt mỏi với việc chờ đợi ông ấy rút lui. Cô ta muốn chồng mình, Osiris, trở thành vua. Cô ta cũng đồng thời muốn thêm nhiều quyền lực. Vì thế, vào một ngày, khi Ra đang chợp mắt, Isis đã bí mật hứng chút nước dãi của vị thần mặt trời.”
“Eo ơi,” tôi kêu lên. “Từ khi nào nước dãi lại khiến người ta trở nên mạnh hơn thế?”
Thần Thoth quắc mắt nhìn tôi với vẻ cáo buộc. “Người ta trộn nước bọt đó với đất sét để tạo ra một con rắn độc. Đêm đó, con rắn đã lẻn vào phòng ngủ của Ra và cắn vào mắt cá chân ông ấy. Không có bất cứ pháp thuật nào, kể cả của ta, có thể chữa lành cho ông ta. Ông ấy sẽ chết…”
“Các vị thần có thể chết sao?” Carter hỏi.
“Ồ, có chứ.” Thần Thoth đáp. “Dĩ nhiên là phần lớn thời gian bọn ta cũng lại trỗi dậy từ Cõi Âm - cuối cùng là vậy. Nhưng nọc độc lần này đã ăn mòn sự sống của chính Ra. Isis, dĩ nhiên, đã chơi trò vô tội. Cô ta khóc lóc khi nhìn thấy Ra đau đớn. Cô ta cố giúp với phép thuật của mình. Cuối cùng cô ta bảo Ra rằng, có một cách duy nhất để cứu ông ấy: Ra phải nói cho cô ta nghe bí danh của mình.”
“Bí danh ư?” tôi hỏi. “Giống Bruce Wayne ấy hả?”
“Mọi vật trong Tạo Tác đều có một bí danh,” thần Thoth nói. “Ngay cả các vị thần cũng thế. Biết được bí danh của ai đó nghĩa là có được quyền khống chế sinh vật này. Ra vì quá đau đớn nên ông ấy đã đồng ý. Và Isis đã chữa lành cho ông ấy.”
“Nhưng việc đó khiến cô ta có quyền khống chế ông ấy,” Carter đoán.
“Cực kỳ mạnh,” thần Thoth đồng ý. “Cô ta buộc Ra rút lui về lại bầu trời, mở đường cho người yêu dấu của cô ta, Osiris ấy, trở thành vị vua mới của các vị thần. Set từng là cánh tay phải quan trọngcủa Ra, nhưng hắn ta không thể chịu được việc anh trai Osiris của mình trở thành vua. Điều đó khiến Set và Osiris trở thành kẻ thù, và năm thiên niên kỷ sau chúng ta lại ở đây, vẫn đánh nhau vì cuộc chiến đó, tất cả chỉ vì Isis.”
“Nhưng đó không phải là lỗi của tôi!” tôi nói. “Tôi sẽ không bao giờ làm điều như thế.”
“Sẽ không ư?” thần Thoth hỏi. “Cô sẽ không làm bất cứ điều gì để cứu gia đình mình, ngay cả khi việc đó phá vỡ sự cân bằng của vũ trụ sao?”
Đôi mắt kính vạn hoa của ông ta khóa chặt mắt tôi, và tôi cảm nhận một luồng chống đối trào dâng, ơ hay, sao tôi lại không nên cứu gia đình mình? Cái tên đầu đất mặc áo phòng thí nghiệm kia là ai mà dám chỉ bảo tôi nên hay không nên làm những gì cơ chứ?
Rồi tôi chợt nhận ra tôi không biết ai đang nghĩ về điều đó: nữ thần Isis hay là tôi. Sự hoảng loạn bắt đầu hình thành trong ngực tôi. Nếu tôi không thể phân biệt được đâu là ý nghĩ của mình và đâu là của nữ thần Isis, thì còn bao lâu nữa trước khi tôi hoàn toàn hóa điên đây?
“Không, Thoth,” tôi rên rỉ. “Ông phải tin tôi. Tôi đang kiểm soát - tôi, Sadie - và tôi cần sự giúp đỡ của ông. Set đã bắt cha của chúng tôi.”
Rồi tôi kể hết ra - mọi việc từ bảo tàng Anh cho đến cảnh mộng của Carter về kim tự tháp đỏ. Thần Thoth lắng nghe mà không bình luận gì, nhưng tôi có thể thề rằng các vệt bẩn mới hình thành trên chiếc áo phòng thí nghiệm của ông ta khi tôi nói, như thể một vài từ của tôi đang được thêm vào mớ hỗn độn đó.
“Chỉ cần xem thứ này giúp chúng tôi” tôi chấm dứt. “Carter, đưa ông ta cuốn sách.”
Carter lục lọi khắp cái túi của mình và lấy ra cuốn sách mà chúng tôi đã trộm ở Paris, “Ông đã viết cuốn sách này, đúng không?” anh ấy nói. “Nó nói cách để đánh bại Set.”
Thần Thoth mở những trang giấy cói. “Ôi trời. Ta ghét việc đọc lại các tác phẩm cũ của mình. Nhìn câu này xem. Lúc này ta sẽ không bao giờ viết theo kiểu đó.” Ông ta vỗ vỗ lên những cái túi áo phòng thí nghiệm. “Bút đỏ - có ai có bút đỏ không?”
Nữ thần Isis cáu tiết chống lại sức mạnh ý chí của tôi, một mực khăng khăng rằng bọn tôi nên cho nổ tung chút lý lẽ vào trong thần Thoth. Chỉ một quả cầu lửa thôi, bà ta van nài. Chỉ một quả cầu lửa phép thuật to lớn thôi, được không?
Tôi không thể không nói rằng mình cũng muốn lắm, nhưng tôi vẫn kiểm soát bà ta.
“Nghe này, thần Thoth,” tôi nói. “Ja-hoory, gì cũng được. Set ít nhất sẽ phá hủy toàn bộ vùng Bắc Mỹ, hay có thể nói là cả thế giới. Hàng triệu người sẽ chết, ông nói ông quan tâm đến sự cân bằng. Vậy ông sẽ giúp chúng tôi hay không?”
Trong một lúc, chỉ có tiếng gõ tách tách lên bàn phím của những con cò quăm.
“Cô đang gặp rắc rối,” thần Thoth đồng ý. “Vậy để ta hỏi xem, cô nghĩ sao khi cha cô đặt cô vào tình huống này? Sao ông ta lại thả các vị thần ra?”
Tôi suýt nữa đã nói, Để mang Mẹ quay lại. Nhưng tôi không còn tin điều đó nữa.
“Mẹ tôi nhìn thấy được tương lai,” tôi đoán. “Có điều gì đó xấu xa đang xảy đến. Tôi nghĩ bà và Cha tôi đang cố ngăn điều đó lại. Họ nghĩ cách duy nhất là thả các vị thần ra.”
“Ngay cả khi việc sử dụng sức mạnh của các vị thần là một mối nguy hiểm vô cùng lớn đối với con người,” thần Thoth nhấn mạnh, “và trái ngược với luật của Ngôi Nhà Sự Sống - nhân tiện, đó là điều luật mà ta đã thuyết phục Iskandar tạo ra.”
Tôi nhớ lại điều mà vị Pháp sư trưởng già đó đã nói cho tôi nghe trong Hành Lang Thời Đại. “Các vị thần có sức mạnh lớn, nhưng chỉ có con người mới có sự sáng tạo.”
“Tôi nghĩ mẹ tôi đã thuyết phục Iskandar rằng điều luật đó là sai lầm. Có lẽ ông ấy không thể công khai thừa nhận điều đó, nhưng bà đã làm cho ông ấy đổi ý. Dù là chuyện gì đang xảy đến đi chăng nữa - chuyện ấy rất xấu xa, các vị thần và con người sẽ phải cần đến nhau.”
“Và cái gì đang đến thế?” thần Thoth hỏi. “Sự trỗi dậy của Set ư?” Giọng ông ta trở nên nghiêm trang, như thầy giáo đang cố đưa ra một câu hỏi bẫy.
“Có lẽ,” tôi cẩn thận đáp, “nhưng tôi không biết.”
Phía trên giá sách, Khufu ợ to. Nó nhe những chiếc răng nanh của mình trong nụ cười toe toét răng dính đầy bẩn.
“Ngươi nói đúng đấy, Khufu” thần Thoth suy tư. “Con bé nói không giống Isis. Isis sẽ không bao giờ thừa nhận rằng cô ta không biết điều gì đó.”
Tôi phải giữ chặt bàn tay trong đầu mình lên miệng của nữ thần Isis.
Thần Thoth quẳng cuốn sách về lại cho Carter. “Để xem liệu hai ngươi có làm hành động giỏi như nói năng không. Ta sẽ giải thích cuốn sách thần chú, với điều kiện hai ngươi chứng minh cho ta rằng các ngươi thật sự đã kiểm soát được các vị thần của mình, rằng hai ngươi không chỉ đang lặp lại cùng mấy bài bản cũ.”
“Một bài kiểm tra ư?” Carter hỏi. “Chúng tôi chấp nhận.”
“Khoan khoan,” tôi phản đối. Có lẽ vì được học ở nhà nên Carter không nhận ra rằng “bài kiểm tra” thường là một điều xấu.
“Tuyệt,” thần Thoth nói. “Có một vật quyền năng mà ta cần từ lăng mộ của một pháp sư. Mang nó đến cho ta.”
“Lăng mộ của pháp sư nào cơ?” tôi hỏi.
Nhưng thần Thoth đã lấy một mẩu phấn từ áo phòng thí nghiệm ra và vẽ nguệch ngoạc trong không khí. Một cánh cửa mở ra trước mặt ông ta.
“Sao ông làm được điều đó thế?” tôi hỏi. “Nữ thần Bast nói rằng chúng ta không thể triệu hồi cổng dịch chuyển trong các Ngày Đen Tối cơ mà.”
“Người thường thì không thể,” thần Thoth đồng ý. “Nhưng một vị thần phép thuật thì có thể. Nếu hai ngươi thành công, chúng ta sẽ làm một buổi barbecue.”
Cánh cửa lôi chúng tôi đi vào khoảng không tối đen, và văn phòng của thần Thoth biến mất.