Chương 24 - Tôi Làm Nổ Tung Vài Chiếc Giày Da Lộn Màu Xanh.
Chúng ta đang ở đâu vậy?” tôi hỏi.
Chúng tôi đứng trên đại lộ không một bóng người bên ngoài cánh cổng của một điền trang lớn. Chúng tôi dường như vẫn còn ở Memphis - ít nhất thì cây cối, thời tiết, ánh sáng ban chiều vẫn y như cũ.
Điền trang ít nhất rộng một vài hecta. Cánh cổng bằng kim loại màu trắng có thiết kế vô cùng lôi cuốn với hình bóng của những người chơi đàn guitar và các nốt nhạc. Phía sau cánh cổng, một con đường lái xe vào nhà uốn lượn xuyên qua các hàng cây dẫn đến ngôi nhà cao hai tầng có mái cổng hình cột màu trắng.
“Ồ, không,” Carter thốt lên. “Anh nhận ra cánh cổng này.”
“Gì chứ? Sao nào?”
“Cha đã từng đưa anh đến đây. Mộ của một pháp sư vĩ đại… thần Thoth chắc đang giỡn chơi với chúng ta rồi.”
“Carter, anh đang nói gì thế? Có ai đó được chôn ở đây sao?”
Anh ấy gật đầu. “Đây là Graceland. Nhà của nhạc sĩ nổi tiếng nhất trên thế giới.”
“Michael Jackson sống ở đây sao?”
“Không phải, ngốc ạ,” Carter nói. “Elvis Presley.”
Tôi không biết mình nên cười hay nên chửi thề nữa. “Elvis Presley. Ý là anh nói đến mấy bộ đồ vest trắng đính đá rởm lấp la lấp lánh, mái tóc láng mượt chải phồng, bộ sưu tập đĩa của ông ngoại - tay Elvis đó ấy hả?”
Carter bồn chồn nhìn quanh. Anh ấy rút kiếm ra, mặc dầu dường như chỉ có mình chúng tôi ở đây. “Đây là nơi ông ta sinh sống rồi qua đời. ông ta được chôn ở phía sau biệt thự đó.”
Tôi nhìn chằm chằm lên ngôi nhà. “Anh đang nói với em rằng Elvis là một pháp sư sao?”
“Không biết nữa.” Carter siết chặt thanh kiếm của mình. “Thần Thoth đã nói đến điều gì đó rằng âm nhạc cũng là một kiểu phép thuật. Nhưng có gì đó không đúng. Sao chỉ có chúng ta ở đây thôi? Thường thì ở đây có hàng đống du khách ấy chứ.”
“Kỳ nghỉ lễ Giáng sinh chăng?”
“Nhưng không có nhân viên an ninh gì hết à?”
Tôi nhún vai. “Có lẽ nó giống những gì Zia đã làm ở Luxor. Có lẽ thần Thoth đã quét sạch mọi người khỏi chỗ này.”
“Có lẽ thế.” Nhưng tôi có thể nói rằng Carter vẫn trông bồn chồn lắm. Anh đẩy cổng, chúng mở ra nhẹ nhàng. “Không đúng,” anh lẩm bẩm.
“Đúng thế,” tôi đồng ý. “Nhưng ta cứ đi vào viếng thôi nào.”
Khi chúng tôi đi lên phía trên con đường lái xe vào nhà, tôi không thể không nghĩ rằng ngôi nhà của “Vua” chẳng ấn tượng lắm. So với mấy ngôi nhà của người giàu và nổi tiếng mà tôi đã thấy trên tivi, thì nơi ở của Elvis nhỏ đến đáng thương. Nhà chỉ cao hai tầng, với mái cổng cột trắng kia và tường gạch. Những con sư tử bằng thạch cao lố bịch nằm ở hai bên hông bậc thềm. Có lẽ vào thời của Elvis thì mọi chuyện đơn giản hơn, hoặc có lẽ ông ta đã tiêu hết tiền của mình cho những bộ cánh đính đá rởm lấp la lấp lánh.
Chúng tôi ngừng lại dưới chân bậc thềm.
“Vậy Cha đã đưa anh đến đây ư?” tôi hỏi.
“Ừm.” Carter đưa mắt nhìn đám sư tử như thể đề phòng chúng tấn công. “Cha thích nhạc blues và nhạc jazz, gần như thế, nhưng ông nói rằng Elvis là một người quan trọng vì ông ấy đã đón nhận âm nhạc của người Mỹ gốc Phi và khiến chúng trở nên phổ biến với người da trắng, ông ấy đã góp phần phát minh ra nhạc rock and roll. Mà thôi, Cha và anh đến thành phố này để dự hội nghị chuyên đề hay gì gì đó. Anh không nhớ nữa. Cha đã nằng nặc kéo anh đến đây.”
“Anh may thật đấy.” Và đúng thế, có lẽ tôi đang bắt đầu hiểu rằng cuộc sống của Carter với Cha không phải toàn màu hồng và những ngày nghỉ, nhưng tôi vẫn không ngăn được mình có chút ghen tị. Không phải tôi muốn nhìn thấy Graceland gì đâu, dĩ nhiên là thế rồi, những Cha chưa bao giờ cố lôi đưa tôi đến bất cứ nơi nào cho bằng được - ít ra là thế mãi đến chuyến đi đến Bảo tàng Anh vào cái ngày ông biến mất. Tôi thậm chí còn không biết Cha là một fan hâm mộ của Elvis, buồn thật đấy.
Chúng tôi bước lên bậc thềm. Cánh cửa trước nhà tự bật mở.
“Anh không thích điều này,” Carter nói.
Tôi quay lại nhìn ra phía sau, và máu tôi hóa đông cứng lại. Tôi tóm lấy cánh tay anh trai mình, “Ừm, anh Carter, đúng lúc nói về những điều chúng ta không thích…”
Đang tiến vào trên đường xe chạy vào nhà là hai tên pháp sư tay khua khoáng gậy và đũa phép.
“Vào trong,” Carter bảo. “Mau!”
Tôi không có nhiều thời gian để ngắm nghía ngôi nhà. Phòng ăn của ngôi nhà nằm bên tay trái và một phòng âm nhạc kiêm phòng khách nằm phía tay phải, bên trong có một cây đàn piano và một cái cổng tò vò bằng kính màu trang trí hình những con công. Tất cả vật dụng đều được chăng dây giới hạn. Ngôi nhà có mùi như người già.
“Vật quyền năng,” tôi nói. “Ở đâu chứ?”
“Không biết,” Carter gắt. “Người ta đâu có liệt kê ‘vật quyền năng’ trong chuyến tham quan đâu!”
Tôi liếc nhìn qua cửa sổ. Kẻ thù của chúng tôi đang đến gần. Tên đi trước vận quần jean, áo sơ-mi không tay đen, giày ống, và một cái mũ cao bồi tả tơi. Hắn ta trông giống như một kẻ sống ngoài vòng pháp luật hơn là một pháp sư. Tên bạn của hắn cũng mặc tương tự nhưng vạm vỡ hơn, hai cánh tay xăm trổ, đầu trọc, râu ria lởm chởm. Khi chúng ở cách chúng tôi khoảng mười mét, tên đội mũ cao bồi hạ thấp cây gậy xuống, cây gậy biến thành một cây súng săn.
“Ồ, làm ơn đi!” Tôi hét lớn, rồi đẩy Carter vào phòng khách.
Phát súng làm nổ tung cửa trước nhà Elvis và hai tai tôi kêu ù ù. Chúng tôi bò lóp ngóp và chạy vào sâu trong nhà. Chúng tôi băng qua một căn bếp lỗi thời, rồi vào một căn phòng làm việc kỳ lạ nhất mà tôi được nhìn thấy. Bức tường phía sau được xây bằng gạch chăng đầy dây leo, với một bên là thác nước đang nhỏ xuống tí tách. Thảm là một mớ lỉa chỉa màu xanh lục (mà này, cả sàn lẫn trần nhà đấy nhé), đồ dùng trong căn phòng được chạm trổ ra hình dáng của các loài động vật kỳ quái. Cứ như là như thế vẫn chưa đủ đáng sợ cho lắm, những con khỉ bằng thạch cao cùng các con sư tử nhồi bông được sắp đặt đầy chủ ý khắp căn phòng. Bất chấp tình thế hiểm nguy của mình, nơi này xấu kinh đến nỗi tôi buộc phải ngừng lại mà thắc mắc.
“Chúa ơi,” tôi nói. “Elvis chẳng có chút óc thẩm mỹ nào cả sao?”
“Căn Phòng Rừng Rậm,” Carter nói. “Ông ta đã trang trí nó giống thế này để chọc điên bố mình.”
“Em đánh giá cao về điều đó.”
Một tiếng súng nổ lại vang lên khắp cả ngôi nhà.
“Tách ra nào!” Carter bảo.
“Ý tồi!” tôi có thể nghe thấy tiếng hai tên pháp sư đi bình bịch tìm kiếm khắp các căn phòng, đập vỡ mọi thứ khi chúng đến gần.
“Anh sẽ đánh lạc hướng chúng,” Carter nói. “Em lục soát. Phòng chứa cúp nằm ở phía bên kia.”
“Carter!”
Nhưng anh trai ngốc nghếch của tôi đã bỏ chạy để bảo vệ tôi. Tôi ghét khi anh ấy làm thế. Lẽ ra tôi nên đi theo anh ấy, hoặc chạy đi hướng khác, nhưng tôi lại choáng váng đứng chết trân một chỗ khi Carter rẽ qua góc tường với thanh kiếm giương cao, cơ thể anh ấy bắt đầu phát ra ánh sáng màu vàng… và mọi thứ trở nên rối tung rối mù cả lên.
Bụp! Một tia sáng màu lục bảo khiến Carter quỵ xuống. Trong một phần giây, tôi tưởng là anh ấy bị trúng đạn, và tôi phải cố kìm chế để không hét toáng lên. Nhưng ngay lập tức, Carter đổ ập người xuống và bắt đầu co rút lại, áo quần, thanh kiếm, tất tần tật - tan thành một mảnh xanh lục bé tẻo teo.
Con thằn lằn đã từng là anh trai tôi chạy như bay về phía tôi, leo lên chân và chui vào lòng bàn tay tôi, nhìn tôi đầy tuyệt vọng.
Từ phía bên kia góc tường, một giọng nói cộc lốc vang lên, “Tách ra và tìm con em. Nó chỉ ở gần đâu đây thôi.”
“Ôi Carter,” tôi thì thầm một cách trìu mến với con thằn lằn. “Em muốn giết anh vì chuyện này quá đi thôi.”
Tôi nhét anh ấy vào túi áo và bỏ chạy.
Hai tên pháp sư tiếp tục đập vỡ và phá tan thành mọi thứ khắp cả Graceland, hất ngã đồ đạc trong nhà rồi cho nổ vụn mọi thứ. Hình như chúng không phải là những người hâm mộ Elvis.
Tôi trốn sau một bên dưới các sợi dây thừng, trườn qua tiền sảnh, và tìm thấy phòng chứa cúp. Đáng kinh ngạc là trong này chứa đầy cúp. Những chiếc đĩa nhạc vàng gắn chen chúc trên các bức tường. Mấy bộ áo liền quần đính đá rởm của Elvis lấp lánh trong bốn hộp bằng kính. Căn phòng được chiếu sáng mờ mờ, chắc là để giữ cho mấy bộ áo quần khỏi làm chói mắt các du khách, và âm nhạc nhẹ nhàng vang lên từ các loa phía trên đầu: Elvis đang cảnh báo mọi người không được giẫm lên đôi giày da lộn màu xanh của ông ta.
Tôi tia khắp căn phòng nhưng chẳng tìm thấy gì trông có phép thuật. Bộ áo quần ư? Tôi hy vọng thần Thoth không mong tôi phải mặc một bộ chứ. Các đĩa vàng à? Giống kiểu đĩa ném Fribee xinh xắn thật đấy, nhưng không phải rồi.
“Jerrod!” một giọng nói từ phía bên phải tôi vang lên. Một tên pháp sư đang đi về cuối tiền sảnh. Tôi lao nhanh về phía lối ra khác, nhưng lúc đó một giọng khác ngay bên ngoài đáp lại, “Vâng, tao đang ở phía này.”
Tôi bị bao vây.
“Carter,” tôi thì thầm. “Tổ cha cái bộ óc thằn lằn của anh.”
Anh ấy vùng vẫy hoảng loạn trong túi tôi nhưng chẳng giúp được gì.
Tôi lần mò khắp cái túi pháp sư của mình và tóm lấy cây đũa phép. Liệu tôi có nên vẽ một vòng tròn phép thuật không nhỉ? Không có thời gian, và tôi không muốn phải một mình đấu tay đôi với hai tên pháp sư lớn tuổi hơn. Tôi buộc phải ở trong trạng thái linh động. Tôi lấy cái que của mình ra và biến nó thành một cây gậy hoàn chỉnh. Tôi có thể khiến nó bốc cháy, hay biến nó thành một con sư tử, nhưng điều đó sẽ giúp ích được gì? Hai tay tôi bắt đầu run rẩy. Tôi muốn co lại thành một quả banh mà ẩn vào bên dưới bộ sưu tập đĩa vàng của Elvis.
Hãy để ta tiếp quản nào, Isis nói. Ta có thể khiến kẻ thù của chúng ta tan thành bụi.
Không thể, tôi bảo bà ấy.
Cô sẽ khiến hai ta bị giết chết đấy.
Tôi có thể cảm thấy áp lực bà ấy đè nặng lên ý chí của mình, cố thoát ra ngoài. Tôi có thể cảm nhận sự giận dữ của bà ấy đối với các tên pháp sư này. Sao bọn họ dám thách đấu với chúng ta? Chỉ một chữ thôi, chúng ta có thể tiêu diệt họ.
Không, tôi lại nghĩ. Rồi tôi nhớ đến điều Zia đã nói: sử dụng bất cứ thứ gì cô có trong tay. Căn phòng được thắp sáng lờ mờ… có lẽ tôi nên làm cho nó tối hơn một chút nữa.
“Bóng tối” tôi thì thầm. Tôi cảm nhận dạ dày mình co giật, và ánh sáng nhấp nháy tắt đi. Âm nhạc ngừng bặt. Ánh sáng tiếp tục mờ dần - thậm chí cả ánh nắng cũng lụi tàn bên ngoài các ô cửa sổ cho đến khi cả căn phòng trở nên tối đen.
Ở đâu đó bên trái tôi, tên pháp sư thứ nhất thở dài đầy bực tức. “Jerrod!”
“Không phải tao, Wayne!”
Jerrod khăng khăng trả lời. “Mày luôn đổ lỗi cho tao!”
Wayne lẩm bẩm điều gì đó bằng tiếng Ai Cập, vẫn tiếp tục hướngvề phía tôi. Tôi cần thứ gì đó đánh lạc hướng hắn ta.
Tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng về quang cảnh xung quanh mình. Mặc dầu không gian vẫn tối đen như mực, tôi vẫn có thể cảm nhận được Jerrod đang ở tiền sảnh phía bên trái tôi, loạng choạng đi trong bóng đêm. Tôi cảm nhận Wayne ở đâu đó phía ngoài bức tường bên phải, chỉ cách cánh cửa một vài bước chân. Và tôi có thể mường tượng ra bốn tủ kính trưng bày hiện vật chứa mấy bộ áo quần của Elvis.
Chúng đang phá nhà ông đấy, tôi nghĩ. Hãy bảo vệ nó đi!
Một lực kéo mạnh hơn xuất hiện trong bụng tôi, như thể tôi đang nhấc một vật nặng - rồi tủ trưng bày mở bung ra. Tôi nghe thấy tiếng vải căng cứng loạt soạt, như tiếng những cánh buồm trong gió, và lờ mờ nhận ra bốn hình dáng trắng nhợt đang di chuyển - mỗi một hướng cửa có hai bóng.
Wayne là người đầu tiên hét lên khi bộ áo quần trống không của Elvis tấn công hắn ta. Khẩu súng săn của hắn ta lóe lên trong bóng tối. Rồi phía bên trái tôi, Jerrod la lên vì ngạc nhiên. Một tiếng sầm nặng nề vang lên cho tôi biết rằng hắn ta đã bị đánh ngã. Tôi quyết định đi về hướng Jerrod - đi về hướng gã mất thăng bằng tốt hơn là đi về hướng gã có cây súng. Tôi rón rén lẻn qua cửa và đi về cuối hành lang, bỏ lại sau lưng tên Jerrod đang khoa chân múa tay loạn xạ và la lối, “Leo xuống! Leo xuống!”
Hạ gục hắn ta khi hắn ta đang thất thế, Isis giục. Đốt hắn thành tro đi!
Một phần trong tôi biết rằng bà ấy có lý: nếu tôi để cho Jerrod toàn thây, chỉ loáng thôi là hắn ta sẽ lạiđứng dậy mà lại đuổi theo tôi; nhưng có vẻ như việc đả thương hắn là không phải cho lắm, nhất là khi hắn ta đang bị bộ áo quần của Elvis tấn công. Tôi tìm thấy một cánh cửa và lao ra ngoài trong ánh nắng ban chiều.
Tôi đang ở sân sau của Graceland. Một đài phun nước lớn chảy róc rách ở gần đó, bao quanh là những tấm bia mộ. Một tấm trên đỉnh có ngọn lửa lồng trong khung kính và được chất đầy hoa. Tôi đoán đại: chắc là bia mộ của Elvis.
Mộ của một pháp sư.
Dĩ nhiên là thế rồi. Chúng tôi đã tìm kiếm cả ngôi nhà, nhưng vật chứa phép thuật phải nằm trong mộ phần của ông ta. Nhưng chính xác vật đó là gì?
Trước khi tôi có thể đến gần ngôi mộ, cánh cửa bật mở. Tên hói đầu to lớn với bộ râu lỉa chĩa lao ra. Một bộ áo quần Elvis rách tả tơi đang quấn hai ống tay áo quanh cổ hắn như thể nó đang chơi trò nhông nhông cưỡi rồng đi chơi.
“Á à.” Tên pháp sư quẳng bộ áo liền quần đi. Giọng hắn ta xác nhận cho tôi biết hắn ta chính là Jerrod. “Mi chỉ là con oắt con. Mi đã gây ra cho bọn ta khá nhiều rắc rối đấy, nhãi ranh ạ.”
Hắn ta hạ thấp cây gậy của mình xuống và bắn ra một tia sáng màu lục. Tôi nâng cây đũa phép của mình lên và làm cho tia chớp năng lượng đó lệch hướng bay thẳng lên cao. Tôi nghe thấy một tiếng gù gù đầy ngạc nhiên - tiếng kêu của một con bồ câu - rồi một con thằn lằn mới toanh rơi phịch từ trên trời xuống chân tôi.
“Xin lỗi,” tôi nói với nó.
Jerrod gầm gừ và ném cây gậy xuống. Rõ quá rồi, hắn ta chuyên về các loài thằn lằn thì phải, vì cây gậy hắn đã biến thành một con rồng lửa có kích thước bằng một chiếc xe taxi ở Luân Đôn.
Con quái vật tấn công tôi với tốc độ không ngờ. Nó há miệng và lẽ ra đã cắn đứt đôi tôi rồi đấy, nhưng tôi có vừa đủ thời gian để chèn cây gậy vào miệng nó.
Jerrod phá ra cười. “Chiêu hay đó, con nhóc!”
Tôi cảm nhận được hai hàm của con rồng đang ép xuống cây gậy. Chỉ vài giây thôi là cây gậy gỗ đó sẽ gãy phăng, còn tôi sẽ là món ăn vặt của con rồng lửa đó. Giúp tôi một tí nào, tôi bảo với nữ thần Isis. Tôi cẩn thận, vô cùng cẩn thận tiếp nhận sức mạnh của bà ấy. Làm chuyện này mà không để cho bà ấy chiếm lĩnh được tôi giống như là lướt ván phía trên một con sóng lớn, cố gắng hết sức để giữ được thăng bằng. Tôi cảm nhận được năm ngàn năm kinh nghiệm, kiến thức, và sức mạnh cuồn cuộn trong mình. Bà ấy đưa ra cho tôi các chọn lựa, và tôi đã chọn cái dễ dàng nhất. Tôi chuyển sức mạnh qua cây gậy và cảm nhận nó mỗi lúc mỗi nóng dần lên trong tay, phát ra ánh sáng trắng. Con rồng xì xụt khọt khẹt khi cây gậy của tôi kéo dài ra, khiến hàm của nó phải mở ra lớn hơn, lớn hơn và rồi: bùm!
Con rồng vỡ tan xác và mấy mảnh phần gậy còn lại của Jerrod rơi lả tả xuống quanh tôi.
Jerrod chỉ thần người được trong một giây thì tôi đã phóng đũa phép của mình mà vụt một cú đích đáng vào trán hắn. Mắt hắn lé xẹ, rồi hắn đổ ập xuống mặt đường. Cây đũa phép quay trở lại trong tay tôi.
Đó sẽ là một cái kết hạnh phúc dễ thương biết bao… ngoại trừ việc tôi quên bẵng tên Wayne. Tên pháp sư mũ cao bồi lao ra khỏi cửa, suýt chút nữa vấp phải anh bạn mình, nhưng hắn ta lấy lại thăng bằng với tốc độ chớp nhoáng.
Hắn hét lên, “Nổi gió!” thế là cây gậy bay khỏi tay tôi rơi vào tay hắn ta.
Hắn mỉm cười đầy độc ác. “Chiến đấu giỏi lắm, cưng à. Nhưng phép thuật nguyên tố tự nhiên luôn là nhanh nhất.”
Hắn ta nện mạnh đầu của cả hai cây gậy, của hắn và của tôi, xuống mặt đường. Một làn sóng gợn lăn tăn trên đất và mặt đường như thể mặt đất trở thành chất lỏng, hất ngã tôi xuống và làm cây đũa phép của tôi bay vọt. Tôi bò thụt lùi lại, nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng Wayne đang ngâm nga, triệu hồi lửa từ các cây gậy.
Dây thừng, nữ thần Isis nói. Mỗi một pháp sư đều mang theo dây thừng.
Hoảng loạn khiến đầu óc tôi trống rỗng, nhưng tay tôi theo bản năng lần mò vào cái túi phép thuật của mình. Tôi lấy ra một cuộn dây bện nhỏ. Không hẳn là dây thừng, nhưng nó dậy lên trong tôi một ký ức - điều gì đó Zia đã làm ở bảo tàng New York. Tôi ném cuộn dây bện về phía Wayne và hét lên từ mà Isis đã gợi ý: “Tas!”
Một chữ tượng hình vàng bốc cháy trong không khí phía trên đầu Wayne:
Cuộn dây bện đánh về phía hắn như một con rắn giận dữ, mỗi lúc mỗi dài ra và dày hơn. Mắt Wayne mở lớn. Hắn loạng choạng lùi lại và bắn ra các tia lửa từ cả hai cây gậy, nhưng sợi dây thừng quá nhanh. Nó quấn quanh mắt cá chân và hất ngã hắn ta sang một bên, quấn quanh toàn bộ cơ thể cho đến khi hắn ta bị bao trọn trong một cái kén bằng dây bện từ cằm cho đến ngón chân. Hắn vùng vẫy rồi gào toáng lên rồi gọi tôi bằng một vài cái tên không được hay ho lắm.
Tôi lảo đảo đứng dậy. Jerrod vẫn đang bất tỉnh. Tôi lấy lại cây gậy của mình đang nằm kế bên Wayne. Hắn ta tiếp tục vùng vẫy cố thoát khỏi đống dây và chửi rủa bằng tiếng Ai Cập với giọng Mỹ miền Nam, nghe là lạ.
Kết liễu hắn đi, nữ thần Isis cảnh báo. Hắn vẫn có thể nói. Hắn sẽ không ngừng lại cho đến khi tiêu diệt được cô.
“Lửa!” Wayne hét lên. “Nước! Pho mát!”
Thậm chí cả mệnh lệnh Pho mát cũng không hiệu lực. Tôi cho là sự phẫn nộ đã khiến cho phép thuật của hắn ta rối loạn, khiến hắn ta không thể nào tập trung được, nhưng tôi biết rằng hắn ta sẽ nhanh chóng hồi phục thôi.
“Im lặng,” tôi bảo.
Giọng Wayne ngay lập tức tắt ngúm. Hắn ta vẫn tiếp tục gào thét, nhưng chẳng phát ra bất cứ âm thanh nào.
“Tôi không phải là kẻ thù của ông,” tôi nói với hắn ta. “Nhưng tôi cũng không thể để ông giết tôi được.”
Có thứ gì đó ngọ nguậy trong túi áo tôi, tôi chợt nhớ ra Carter. Tôi mang anh ấy ra. Anh ấy nhìn có vẻ ổn, tất nhiên ngoài trừ việc anh ấy vẫn là con thằn lằn.
“Em sẽ cố biến anh trở lại,” tôi nói với anh ấy. “Hy vọng em không làm cho mọi việc trở nên tệ hơn.”
Anh ấy phát ra tiếng tặc tặc chẳng truyền cho tôi chút xíu xiu tự tin nào cả.
Tôi nhắm mắt lại và hình dung Carter đúng như anh ấy: một cậu bé mười bốn tuổi cao to, ăn mặc kém cỏi, rất con người, rất khó ưa. Carter bắt đầu có cảm giác nặng dần trong tay tôi. Tôi đặt anh ấy xuống và quan sát con thằn lằn biến thành hơi giống một con người. Đếm được đến ba, thì anh trai tôi đã đang nằm sấp dưới đất, thanh kiếm và cái túi nằm kế bên anh ấy trên bãi cỏ.
Anh ấy nhổ cỏ ra khỏi miệng mình. “Sao em làm được điều đó?”
“Em không biết nữa,” tôi thừa nhận. “Anh dường như… không tốt lắm.”
“Cám ơn nhiều.” Anh chàng đứng dậy rồi kiểm tra quanh để bảo đảm mình có đủ ngón tay. Rồi anh ta nhìn thấy hai tên pháp sư và há hốc cả miệng ra. “Em đã làm gì với chúng thế?”
“Chỉ là trói một tên. Đánh ngất một tên. Bằng phép thuật.”
“Không, ý anh là…” Anh ấy ấp úng, tìm kiếm từ để nói, rồi chịu thua và chỉ tay về phía hai tên pháp sư.
Tôi nhìn về phía đó và á lên. Wayne không còn chuyển động nữa. Mắt và miệng hắn ta mở to, nhưng chẳng chớp mắt hay thở gì cả. Kế bên hắn, tên Jerrod trông cứng đơ y chang. Trong khi chúng tôi quan sát, miệng chúng bắt đầu phát sáng như thể chúng đã nuốt phải diêm vậy. Hai quả cầu lửa nhỏ xíu xiu màu vàng trồi ra giữa mồm chúng rồi bắn thẳng vào không khí, biến mất trong ánh mặt trời.
“Đó… đó là gì thế?” tôi hỏi. “Chúng đã chết rồi sao?”
Carter thận trọng tiếng về phía chúng và đặt tay lên cổ Wayne. “Da
hắn ta chả giống da người chút nào. Giống đá hơn ấy.”
“Không, chúng là con người mà! Em có biến chúng thành đá đâu!”
Carter chạm tay vào trán Jerrod nơi tôi đã dùng cây đũa phép đập vào. “Nứt rồi”
“Gì?”
Carter cầm thanh kiếm của mình lên. Trước khi tôi kịp hét lên, anh ấy đã tộng chuôi kiếm xuống mặt Jerrod và đầu của tên pháp sư vỡ vụn ra thành từng mảnh nhỏ giống một cái chậu hoa.
“Chúng được làm từ đất sét,” Carter nói. “Cả hai tên đều là các shabti.”
Anh đá vào cánh tay của Wayne và tôi nghe thấy nó vỡ lạo xạo bên dưới sợi dây bện.
“Nhưng chúng cũng đọc được thần chú,” tôi nói. “Và còn nói chuyện nữa. Chúng là thật.”
Chúng tôi đứng đó nhìn khi các shabti tan thành bụi, chẳng để lại gì ngoài đám dây cuộn bé xíu của tôi, hai cây gậy, và một đống áo quần bẩn thỉu.
“Thần Thoth đang thử thách chúng ta,” Carter nói. “Thế nhưng… những quả cầu lửa đó…” Anh ấy cau mày như thể đang cố nhớ lại điều gì đó quan trọng.
“Chắc đấy phép thuật đã biến chúng thành sinh động,” tôi đoán. “Bay trở lại với chủ nhân của mình - như thể một bản báo cáo về những gì chúng đã làm sao?”
Với tôi mà nói, đó là một giả thiết đáng tin cậy, nhưng Carter dường như vô cùng lo lắng. Anh ấy chỉ về phía cánh cửa sau đã bị nổ tung của Graceland. “Toàn bộ căn nhà đều như thế sao?”
“Tệ hơn nhiều.” Tôi nhìn xuống bộ áo quần của Elvis đã hư nát bên dưới áo quần của Jerrod cùng các hạt đá rởm rải rác khắp nơi. Có thể Elvis chẳng có chút khiếu thẩm mỹ nào đấy, nhưng tôi vẫn thấy có lỗi vì đã phá tang hoang cung điện của Vua. Nếu nơi này quan trọng đối với Cha… Đột nhiên một ý nghĩ xuất hiện khiến tôi tươi tỉnh lại. “Chú Amos đã nói gì ấy nhỉ, khi chú ấy sửa lại cái đĩa lót ấy?”
Carter cau mày. “Đây là nguyên cả căn nhà đấy, Sadie. Không phải là một cái đĩa lót đâu.”
“Nhớ rồi,” tôi nói. “Hi-nehm!”
Một biểu tượng chữ tượng hình bằng vàng xuất hiện sống động trong lòng bàn tay tôi.
Tôi giơ nó lên cao và thổi nó về phía ngôi nhà. Nguyên cả khu vực Graceland bắt đầu phát sáng. Các mảnh cửa quay trở lại vị trí cũ và tự lành lặn lại. Các mảnh áo rách của Elvis biến mất.
“Ối chà,” Carter thốt lên. “Em có nghĩ bên trong cũng được sửa lại không?”
“Em…” Tầm nhìn của tôi chợt nhòe đi, hai đầu gối tôi nhũn xuống. Hẳn tôi sẽ đập đầu vào mặt đường mất nếu như anh Carter đã không chụp được tôi.
“Không sao,” anh ấy nói. “Em đã sử dụng quá nhiều phép thuật thôi mà, Sadie. Thật tuyệt.”
“Nhưng chúng ta vẫn chưa tìm thấy vật mà thần Thoth muốn chúng ta tìm.”
“Ừm,” Carter nói. “Có lẽ chúng ta đã tìm được.”
Anh ấy chỉ tay về phía ngôi mộ của Elvis, và tôi thấy rõ nó: một vật lưu niệm được một người hâm mộ cuồng nhiệt nào đó bỏ lại - một chiếc vòng cổ bằng bạc có mặt là cây thánh giá với nút thắt thòng lọng, y hệt cái được in trên áo phông trong bức ảnh cũ của mẹ tôi.
“Là biểu tượng ankh,” tôi nói. “Biểu tượng của người Ai Cập về sự sống vĩnh hằng.”
Carter cầm nó lên. Có một cuộn giấy cói nhỏ được gắn vào chiếc vòng cổ.
“Gì đây?” anh ấy lẩm bẩm rồi mở cuộn giấy đó ra. Anh ấy nhìn nó chăm chú đến nỗi tôi cứ tưởng anh ta sẽ đốt thủng một lỗ qua cuộn giấy mất.
“Gì thế?” tôi nhìn qua vai anh ấy.
Bức vẽ trông khá cổ. Trên đó là hình một con mèo lốm đốm, màu vàng đang cầm con dao trong một chân mà chặt đầu một con rắn.
Bên dưới bức vẽ, ai đó đã viết dòng chữ bằng mực đen: Hãy tiếp tục cuộc chiến!
“Đây là hành động phá hoại công trình văn hóa, chứ gì nữa?” tôi hỏi. “Việc viết lên một bức vẽ cổ xưa như thế này ấy? Để tặng cho Elvis thì khá là kỳ cục.”
Hình như Carter không nghe thấy gì cả. “Anh đã nhìn thấy bức tranh này trước đây. Hiện diện trong nhiều ngôi mộ. Không biết sao anh chưa bao giờ ngộ ra được rằng…”
Tôi ngắm kỹ bức tranh hơn. Có điều gì đó trong bức tranh này khá là quen thuộc.
“Anh có biết nó có nghĩa gì không?” tôi hỏi.
“Đó là con Mèo của Ra, đang chiến đấu với kẻ thù quan trọng nhất của thần mặt trời, Apophis.”
“Con rắn,” tôi nói.
“Ừ, Apophis là…”
“Hiện thân của sự hỗn mang,” tôi nói, nhớ lại những gì nữ thần Nut đã nói với tôi.
Carter trông phục tôi lắm, như lẽ ra anh ấy nên thế. “Chính xác. Apophis thậm chí còn xấu xa hơn cả Set. Người Ai Cập nghĩ rằng Ngày Tận Thế sẽ đến khi Apophis ăn mặt trời và tiêu diệt tất cả Sự Sáng Tạo.”
“Nhưng… con mèo đã giết nó,” tôi nói đầy hy vọng.
“Con mèo buộc phải giết nó hết lần này đến lần khác,” Carter nói. “Giống như những gì Thoth đã nói về các bài bản lặp đi lặp lại. Vấn đề là… có lần anh đã hỏi Cha liệu con mèo có tên không. Và Cha đã nói rằng không ai biết chắc cả, nhưng phần lớn mọi người cho rằng nó tên là Sekhmet, cái nữ thần sư tử hung dữ này này. Bà ấy được gọi là Con Mắt của Ra vì bà ấy làm những việc xấu xa của ông ấy. Ông ta nhìn thấy kẻ thù; bà ta sẽ giết chết kẻ đó.”
“Được rồi. Vậy thì sao?”
“Thì nên con mèo trông không giống Sekhmet cho lắm. Anh vừa ngộ ra…”
Tôi cuối cùng cũng nhận ra, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi. “Con Mèo của Ra trông giống hệt Muffin. Đó là nữ thần Bast.”
Ngay lúc đó, mặt đất rùng rùng rung chuyển. Đài phun nước trong khu tưởng niệm bắt đầu phát sáng, và một cánh cửa tối đenđược mở ra.
“Đi thôi,” tôi nói. “Em có một vài câu hỏi cho thần Thoth. Và rồi em sẽ đấm vào mỏ ông ấy.”