Chương 26 - Lên Con Thuyền Mang Tên Nữ Hoàng Ai Cập.
Nếu nói đến chuyện đến vùng đất của cái chết, con thuyền khá là ổn. Nó có nhiều boong tàu liên kết có các thanh chắn màu đen và xanh lục được trang hoàng lộng lẫy. Bánh guồng hai bên khuấy tung nước sông thành bọt trắng xóa, và dọc theo vỏ thuyền, tên con thuyền lấp lánh trong những con chữ được mạ vàng: Nữ hoàng Ai Cập.
Thoạt nhìn, bạn sẽ nghĩ rằng con thuyền chỉ là một điểm thu hút khách du lịch: một trong mấy cái casino nổi hay các du thuyền dành cho những người già.
Nhưng nếu nhìn kỹ hơn bạn sẽ bắt đầu nhận ra các chi tiết nho nhỏ kỳ lạ. Tên con thuyền được viết bằng chữ Demotic và chữ tượng hình phía dưới tên tiếng Anh. Các đám khói phát ra tia lửa cuồn cuộn bốc lên phía trên các ống khói như thể các động cơ đang đốt cháy vàng. Những quả cầu lửa nhiều màu sắc bay qua bay khắp boong tàu. Và trên mũi thuyền, hai con mắt được vẽ bằng sơn đang chuyển động và nhấp nháy, rà soát khắp mặt sông để phòng trừ rắc rối.
“Điều này thật kỳ lạ” Sadie nhận xét.
Tôi gật đầu. “Anh đã từng nhìn thấy các con mắt được vẽ trên thuyền trước đây. Người ta vẫn thường làm thế khắp vùng Địa Trung Hải. Nhưng thường thì chúng không chuyển động.”
“Gì chứ? Không, không phải những con mắt ngu ngốc kia. Quý bà trên boong tàu cao nhất ấy. Đó chẳng phải là…” Sadie đột nhiên cười toe toét. “Nữ thần Bast!”
Chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa, họ nhà mèo yêu thích của chúng tôi đang ngả người ra phía bên ngoài buồng lái. Tôi định vẫy tay với cô ấy, rồi tôi nhận ra sinh vật đang đứng kế bên nữ thần Bast, tay nắm chặt bánh lái. Người đó có cơ thể của con người và vận trang phục trắng của thuyền trưởng. Nhưng thay vì đầu người, một cái rìu hai lưỡi mọc ra từ cổ áo. Mà tôi không nói đến một cái rìu nhỏ dùng để chặt củi đâu nhé. Tôi đang nói về cái rìu chiến: hai cái lưỡi sắt hình lưỡi liềm giống hệt nhau, một cái ở phía trước nơi đáng lý ra là mặt ông ta, cái còn lại ở phía sau, những mép lưỡi rìu dính tung tóe mấy đốm màu đỏ trông thật đáng ngờ.
Con thuyền tiến vào vũng tàu đậu. Các quả cầu lửa bắt đầu bay vèo vèo khắp nơi - hạ ván cầu, buộc dây thừng, căn bản là thực hiện các công việc của thủy thủ đoàn. Làm sao chúng có thể làm được điều đó khi chẳng có lấy cánh tay nào, và cũng không khiến cho mọi thứ bốc lửa, tôi không biết được, nhưng việc này chẳng phải là điều kỳ lạ nhất mà tôi đã thấy trong tuần qua.
Nữ thần Bast leo xuống từ buồng lái. Cô ấy ôm chầm lấy chúng tôi khi chúng tôi lên thuyền - ôm cả lấy Khufu, người đang cố đáp trả lại bằng cách bắt rận cho cô ấy.
“Ta rất vui khi hai người còn sống!” nữ thần Bast nói với chúng tôi. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
Chúng tôi kể sơ lược cho cô ấy nghe và tóc cô ấy một nữa lại dựng đứng lên. “Elvis hả? Gừ! Thoth đang trở nên càng lúc càng ác nghiệt khi cao tuổi. À mà, ta không thể nói rằng ta lấy làm vui khi được ở trên con tàu này lần nữa. Ta ghét nước, nhưng ta cho là…”
“Cô đã ở trên con tàu này trước đây?” tôi hỏi.
Nụ cười trên khuôn mặt nữ thần Bast tắt dần. “Hàng triệu câu hỏi như thường lệ, nhưng hãy đi ăn trước đã. Thuyền trưởng đang đợi.”
Tôi không nóng lòng muốn gặp mặt với cái rìu khổng lồ, tôi cũng không hăm hở gì với thêm một bữa tối có món pho-mát-nướng-Friskies của nữ thần Bast, nhưng chúng tôi vẫn đi theo cô ấy vào trong thuyền.
Phòng ăn được trang trí đậm nét phong cách Ai Cập. Các bức bích họa đầy màu sắc vẽ những vị thần lấp đầy mấy bức vách. Các cây cột mạ vàng đỡ lấy trần nhà. Một bàn ăn dài chứa đủ các món mà bạn muốn - sandwich, pizza, hamburger, đồ ăn Mexico, thứ gì cũng có. Như thế này bù lại gấp mấy lần việc đã lỡ mất buổi barbecue của thần Thoth. Trên bàn phụ là một thùng đá, một dãy cốc bằng vàng, và một máy rót soda với chừng hai mươi lựa chọn khác nhau. Những cái ghế gỗ gụ được tạc hình trông giống các con khỉ đầu chó, khiến tôi nhớ lại hơi bị nhiều về Căn Phòng Rừng Rậm của Graceland, nhưng Khufu lại cho rằng chúng không có vấn đề gì. Nó la hét với cái ghế của mình như thể muốn cho cái ghế biết được rằng ai là con khỉ đứng đầu, sau đó ngồi xuống. Nó nhón lấy một trái bơ từ giỏ hoa quả và bắt đầu lột vỏ.
Phía bên kia căn phòng, một cánh cửa được mở ra, và anh chàng rìu xuất hiện. Anh ta phải cúi người xuống để tránh không phải bổ đôi khung cửa ra.
“Xin chào Ngài và Quý Cô Kane,” thuyền trưởng nói, cúi đầu chào chúng tôi. Giọng ông ta hơi lúng búng và run run phát ra dọc theo cái lưỡi rìu phía trước. Tôi đã từng xem một video về một anh chàng chơi nhạc bằng cách dùng búa đánh vào một cái cưa, và đó là kiểu âm thanh mà vị thuyền trưởng này phát ra. “Thật là vinh dự khi có mặt hai người trên thuyền của tôi.”
“Quý Cô,” Sadie ngâm nga. “Tôi thích lắm.”
“Tôi là Lưỡi Rìu Vấy Máu,” thuyền trưởng nói. “Mệnh lệnh của quý cô là gì ạ?”
Sadie nhướn mày nhìn nữ thần Bast. “Ông ấy làm theo mệnh lệnh của chúng tôi sao?”
“Với lý do chính đáng,” nữ thần Bast nói. “Ông ấy bị trói buộc với gia tộc cô. Cha cô…” cô ấy hắng giọng. “Ừm, cha và mẹ cô đã triệu hồi con thuyền này.”
Con quỷ rìu phát ra tiếng lùng bùng phản đối. “Cô đã không kể cho họ sao, nữ thần?”
“Thì ta đang kể đây,” nữ thần Bast cằn nhằn.
“Kể cho chúng tôi chuyện gì?” tôi hỏi.
“Chỉ là các chi tiết ấy mà.” Cô ấy vội vã chen ngang. “Con thuyền có thể được triệu hồi một lần trong năm, và chỉ trong lúc cần thiết nhất. Cậu sẽ phải ra lệnh cho thuyền trưởng ngay, ông ấy phải có được các chỉ dẫn rõ ràng nếu chúng ta phải đi đến đó, à, một cách an toàn.”
Tôi tự hỏi điều gì đang làm nữ thần Bast lo lắng, nhưng anh chàng rìu đang chờ đợi các mệnh lệnh, và các vết máu khô lốm đốm trên hai cái lưỡi rìu của anh ta bảo với tôi rằng tốt hơn hết tôi không nên để anh ta phải chờ đợi.
“Chúng tôi cần đến sảnh Phán Xét,” tôi bảo anh ta. “Hãy đưa chúng tôi đến Vùng Đất của Người Chết.”
Lưỡi Rìu Vấy Máu trầm ngâm nghĩ. “Tôi sẽ sắp xếp, thưa Ngài Kane, nhưng chuyện đó sẽ mất thời gian đấy.”
“Chúng tôi không có nhiều thời gian lắm.” Tôi quay sang nhìn Sadie. “Hôm nay là… cái gì nhỉ, là đêm của ngày hai mươi bảy phải không?”
Con bé gật đầu đồng ý. “Ngày mốt, vào lúc mặt trời mọc, Set sẽ hoàn tất kim tự tháp của mình và tiêu diệt thế giới trừ phi chúng tôi ngăn hắn ta lại. Vì thế, đúng vậy, Thuyền Trưởng Lưỡi Rìu Rất Lớn, hay bất cứ tên gì cũng được, tôi muốn nói là chúng tôi hơi vội một chút.”
“Chúng tôi sẽ, dĩ nhiên, làm hết khả năng,” Lưỡi Rìu Vấy Máu nói, mặc dầu giọng ông ta nghe hơi hơi, ừm, sắc lạnh. “Thủy thủ đoàn sẽ chuẩn bị phòng ngủ cho hai người. Hai người sẽ ăn trong lúc chờ đợi chứ?”
Tôi nhìn cái bàn đầy thức ăn và nhận ra mình đói đến mức nào. Tôi đã không ăn kể từ lúc chúng tôi ở Đài Tưởng Niệm Washington. “Đúng thế. Ừm, cảm ơn, LRVM.”
Thuyền trưởng lại cúi đầu chào, khiến ông ta trông hơi quá giống một cái máy chém. Rồi ông ấy để chúng tôi lại với cái bàn đầy thức ăn.
Lúc đầu, tôi quá bận rộn với việc ăn nên chẳng nói tiếng nào. Tôi ăn ngấu nghiến một hơi hết một cái sandwich bò nướng, hai miếng bánh anh đào nướng kèm kem, và ba ly bia gừng rồi mới ngước mặt lên thở.
Sadie không ăn nhiều lắm. Nhưng mà này, con bé đã ăn trưa trên máy bay rồi cơ mà. Nó chỉ dùng một cái sandwich pho-mát-và-dưa-leo và một trong số thức uống kỳ lạ của người Anh mà nó thích - nước ép Ribena. Khufu cẩn thận chọn tất cả các món tận cùng với chữ - o - Doritos, Oreo, và một vài khoanh thịt. Thịt trâu ư? Thịt con tatu chăng? Tôi sợ đến nỗi không dám đoán.
Các quả cầu lửa chăm chú bay tới bay lui khắp phòng, rót đầy cốc và dọn các đĩa mà chúng tôi ăn xong.
Sau quá nhiều ngày chạy trốn bán sống bán chết, cảm giác mới hạnh phúc làm sao khi được ngồi ở bàn ăn và thư giãn. Thuyền trưởng đang thông báo rằng ông ấy không thể đưa chúng tôi đi đến Vùng Đất của Người Chết ngay lúc này là tin tốt nhất mà tôi từng có được trong một thời gian dài.
“Agh!” Khufu chùi miệng và tóm lấy một trong mấy quả cầu lửa. Nó tạo ra một quả bóng rổ phát sáng bằng quả cầu lửa và khịt khịt mũi về phía tôi.
Duy lần này tôi khá chắc về những gì nó nói bằng ngôn ngữ của loài khỉ đầu chó. Đó không phải là một lời mời. Nó có nghĩa giống như: “Giờ tôi sẽ một mình đi chơi bóng. Tôi sẽ không mời cậu vì kỹ năng yếu kém của cậu khiến tôi buồn nôn.”
“Không vấn đề, anh bạn,” tôi nói, mặc dầu khuôn mặt tôi lúc đó nóng dừ vì xấu hổ. “Chúc vui vẻ.”
Khufu lại khịt mũi, rồi nhảy biến đi với quả banh dưới cánh tay. Tôi tự hỏi liệu nó có tìm thấy được sân banh ở đâu đó trên thuyền không.
Ở đầu kia bàn, nữ thần Bast đẩy đĩa thức ăn của mình sang một bên. Cô ấy đã không chạm vào món Friskies vị cá ngừ.
“Không đói sao?” tôi hỏi.
“Hử? Ồ… ta cho là không.” Cô ấy lơ đãng xoay xoay cốc của mình. Cô ta mang nét mặt thể hiện điều mà tôi không thể nào liên tưởng đến ở loài mèo: Mặc cảm tội lỗi.
Sadie và tôi nhìn nhau. Chúng tôi có một cuộc trao đổi nhanh gọn, câm lặng kiểu như:
Em hỏi cô ấy đi.
Không, anh hỏi.
Dĩ nhiên Sadie chơi tốt trò cái nhìn khinh miệt hơn, vì thế tôi đã thua con bé.
“Nữ thần Bast này?” tôi nói. “Thuyền trưởng muốn cô nói cho chúng tôi điều gì thế?”
Cô ấy ngần ngừ. “Ồ, chuyện đó á? Cậu không nên nghe những gì quỷ nói. Lưỡi Rìu Vấy Máu bị buộc phải phục vụ do pháp thuật, nhưng có khi nào hắn ta được sổng ra, hắn sẽ dùng hai cái rìu đó lên chúng ta, tin ta đi.”
“Cô đang thay đổi đề tài đấy,” tôi nói.
Nữ thần Bast di di ngón tay ngang mặt bàn, vẽ các chữ tượng hình trong vòng tròn hơi nước ngưng tụ lại từ cái ly của cô ấy.
“Sự thật ư? Ta đã không lên con thuyền này kể từ cái đêm mẹ cậu chết. Cha mẹ cậu đã đậu con thuyền này trên sông Thames. Sau… sau tai nạn đó, cha cậu đã đưa ta đến đây. Đây là nơi chúng tôi đưa ra thỏa thuận của mình.”
Tôi nhận ra ý cô ấy muốn nói là ngay tại đây - ở cái bàn này. Cha tôi đã ngồi đây trong tuyệt vọng sau cái chết của Mẹ - chẳng có ai an ủi ngoại trừ nữ thần mèo, một con quỷ rìu, và một đám đèn trôi bềnh bồng.
Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt nữ thần Bast trong ánh sáng lờ mờ. Tôi nghĩ về bức tranh mà chúng tôi đã tìm thấy ở Graceland. Ngay cả khi ở hình dáng con người, nữ thần Bast vẫn trông khá giống con mèo đó - con mèo được vẽ bởi một họa sĩ nào đó hàng ngàn năm về trước.
“Không phải chỉ là chuyện về con quái vật của sự hỗn mang, đúng không?” tôi cất tiếng hỏi.
Nữ thần Bast đưa mắt nhìn tôi. “Ý cậu là gì?”
“Cái con mà cô đang chiến đấu khi cha mẹ chúng tôi giải thoát cô từ cột tưởng niệm ấy. Nó không chỉ là con quái vật của sự hỗn mang. Cô đang chiến đấu với Apophis.”
Khắp cả căn phòng, những người phục vụ bằng lửa tối mờ đi. Một quả còn đánh rơi cả đĩa và run rẩy đầy sợ hãi.
“Không được nói tên của con rắn đó,” nữ thần Bast cảnh báo. “Đặc biệt khi chúng ta sắp tiến vào bóng tối. Bóng tối là vương quốc của nó.”
“Vậy thì đúng rồi chứ gì.” Sadie sầu thảm lác đầu. “Sao cô đã chẳng nói gì thế? Sao cô lại nói dối chúng tôi cơ chứ?”
Nữ thần Bast cụp mắt xuống. Ngồi trong bóng tối, cô ấy trông mệt mỏi và yếu đuối. Khuôn mặt cô in hằn dấu tích các vết sẹo cũ từ những trận đánh.
“Ta là Con Mắt của Ra.” Cô lặng lẽ nói. “Chiến sĩ của thần mặt trời, công cụ cho nguyện vọng của ông ấy. Cậu có hiểu được rằng chuyện đó vinh dự như thế nào không?”
Cô ấy duỗi những cái vuốt của mình ra mà săm soi. “Khi con người nhìn thấy các hình ảnh về con mèo chiến binh của thần Ra, họ thường cho rằng đó là Sekhmet, một con sư tử cái. Và cô ta từng là chiến binh đầu tiên của ông ấy, đó là sự thật. Nhưng cô ta đã quá hung dữ, quá khó kiểm soát. Cuối cùng Sekhmet bị buộc phải rút lui, và Ra đã chọn ta làm chiến binh của ông ấy: Bast bé nhỏ.”
“Sao giọng cô nghe như thể xấu hổ vậy?” Sadie hỏi. “Cô nói nó là một vinh dự cơ mà.”
“Lúc đầu ta tự hào lắm chứ, Sadie. Ta đã chiến đấu với con rắn đó hàng bao nhiêu năm. Mèo và rắn là kẻ thù truyền kiếp. Ta đã làm tốt công việc của mình. Nhưng rồi Ra rút lui về bầu trời. Ông ấy đã gắn kết ta với con rắn đó với câu thần chú cuối cùng của mình. Ông ấy đã đày cả hai vào vực sâu, nơi ta có nhiệm vụ chiến đấu với con rắn và giữ nó ở đó mãi mãi.”
Nhận thức len lỏi trong đầu tôi. “Vậy cô không phải là một tù nhân non trẻ. Cô bị giam cầm lâu hơn bất cứ một vị thần nào.”
Nữ thần Bast nhắm mắt lại. “Ta vẫn nhớ những lời của Ra: ‘Hỡi mèo trung thành của ta. Đây là nhiệm vụ vĩ đại nhất của ngươi.’ Và ta tự hào khi làm điều đó… trong nhiều thế kỷ. Rồi nhiều thiên niên kỷ. Ngươi có thể hình dung ra chuyện đó sẽ như thế nào không? Dao đấu với nanh, xả rồi chém, một cuộc chiến không bao giờ kết thúc trong bóng tối. Sinh lực của cả bọn ta ngày càng yếu đi, của ta và cả của kẻ thù ta, và ta bắt đầu nhận ra rằng đó là kế hoạch của Ra. Con rắn và ta sẽ lôi nhau vào cõi hư không, và thế giới sẽ an toàn. Chỉ bằng cách đó thì Ra mới rút lui một cách thanh thản, khi biết được rằng sự hỗn mang sẽ không bao giờ chiến thắng được Ma’at. Lẽ ra ta cũng sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình thôi. Ta không có sự lựa chọn nào khác. Cho đến khi cha mẹ cậu…”
“Mang lại cho cô lối trốn thoát,” tôi nói. “Và cô đã nhận nó.”
Nữ thần Bast khổ sở ngước nhìn. “Ta là nữ hoàng của loài mèo. Ta có rất nhiều sức mạnh. Nhưng thành thật mà nói, Carter à… mèo không phải là loài dũng cảm lắm.”
“Vậy Ap - kẻ thù của cô thì sao?”
“Nó vẫn bị mắc kẹt trong vực thẳm đó. Cha cậu và ta biết chắc là vậy. Con Rắn đã yếu sức đi rất nhiều rồi qua nhiều niên kỷ chiến đấu với ta, và khi mẹ cậu sử dụng sinh lực của mình để đóng lại vực thẳm đó, thì… bà ấy đã tạo ra kỳ tích phép thuật hùng mạnh. Lẽ ra con Rắn chẳng có cách nào vượt qua được loại niêm phong đó. Nhưng sau nhiều năm trôi qua… bọn ta ngày càng thêm không còn chắc lắm về việc nhà giam đó có thể cầm giữ được nó. Nếu bằng cách nào đó nó có thể trốn thoát và có lại được sức mạnh, ta không thể hình dung được chuyện gì sẽ xảy ra. Và điều đó sẽ là lỗi của ta.”
Tôi cố hình dung về con rắn, Apophis đó - một sinh vật của sự hỗn mang thậm chí còn đáng sợ hơn cả Set. Tôi tưởng tượng ra cảnh nữ thần Bast với những con dao của mình, bị kẹt trong một trận đánh tay đôi với con quái vật đó trong nhiều niên kỷ qua. Có lẽ tôi không nên giận nữ thần Bast vì đã không sớm nói cho chúng tôi biết sự thật. Thay vào đó, tôi cảm thấy tội nghiệp cho cô ấy. Cô ấy đã bị đặt vào cùng một vị trí như chúng tôi hiện nay - bị buộc phải làm một việc quá tầm với cô ấy.
“Vậy sao cha mẹ tôi lại giải thoát cô?” tôi hỏi. “Họ đã nói gì?”
Nữ thần Bast chầm chậm gật đầu. “Ta đang dần thua trong trận chiến của mình. Cha cậu đã nói với ta rằng mẹ cậu đã nhìn thấy trước… những điều vô cùng kinh hoàng nếu Con Rắn chiến thắng ta. Họ phải giải thoát cho ta, cho ta thời gian để hồi phục. Họ nói rằng đây là bước đầu tiên trong việc triệu hồi các vị thần. Ta không làm ra vẻ như mình hiểu được toàn bộ kế hoạch của họ. Ta nhẹ nhõm chấp nhận lời đề nghị của cha cậu. Ta thuyết phục bản thân rằng mình đang làm điều đúng đắn cho các vị thần. Nhưng việc đó không thay đổi được sự thật rằng ta là một kẻ hèn nhát. Ta đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình.”
“Đó không phải là lỗi của cô,” tôi nói. “Thần Ra thật không công bằng khi yêu cầu cô làm điều đó.”
“Carter nói đúng,” Sadie nói. “Như thế là hy sinh quá lớn với một người - một nữ thần mèo, gì cũng được.”
“Đó là nguyện vọng từ vua của ta,” nữ thần Bast nói. “Pharaoh có thể ra lệnh cho các thần dân của mình vì lợi ích tốt đẹp cho vương quốc - thậm chí phải hy sinh cả mạng sống của họ - và họ phải nghe theo. Horus biết điều đó. Ông ta đã làm pharaoh rất nhiều lần rồi.”
Cô ấy nói sự thật đấy, Horus nói.
“Thế thì cô có một tên vua ngu ngốc,” tôi nói.
Con thuyền tròng trành như thể chúng tôi bị mắc cạn ở một bãi cát giữa sông.
“Cẩn thận đấy, Carter,” nữ thần Bast cảnh báo. “Ma’at, là trật tự của sự sáng tạo, phụ thuộc hoàn toàn vào sự trung thành đối với vị vua hợp pháp. Nếu cậu nghi ngờ nó, cậu sẽ bị rơi vào sự chi phối của hỗn mang.”
Tôi cảm thấy nản lòng, tôi muốn đập phá thứ gì đó. Tôi muốn được hét lên rằng sự trật tự đó dường như chẳng tốt đẹp gì hơn sự hỗn mang nếu bạn phải mất mạng vì nó.
Cậu thật là trẻ con, Horus rầy la tôi. Cậu là bầy tôi của Ma’at. Những ý nghĩ đó thật đáng khinh.
Mắt tôi cay xè. “Thế có lẽ tôi là người đáng khinh vậy.”
“Anh Carter?” Sadie hỏi.
“Không có gì,” tôi nói. “Anh đi ngủ đây.”
Tôi rảo bước khỏi phòng ăn.
Một trong số những ngọn lửa cháy bập bùng đó đi theo tôi, hướng dẫn tôi đi lên cầu thang về phía phòng ngủ của mình. Căn phòng rất dễ chịu. Tôi đã không chú ý lắm đến điều đó. Tôi chỉ việc thả người xuống giường và thiếp đi.
Tôi thật sự cần một cái gối có phép thuật cực mạnh, vì ba của tôi không chịu ở yên. [Và không phải thế, Sadie, anh nghĩ việc quấn băng dính quanh đầu anh cũng sẽ chẳng có hiệu quả gì đâu.]
Linh hồn tôi trôi lơ lửng phía trên buồng lái của chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước, nhưng người cầm lái không phải là Lưỡi Rìu Vấy Máu. Thay vào đó là một chàng trai trẻ trong bộ áo giáp da đang lái tàu. Đôi mắt anh ta được kẻ viền bằng phấn côn, và đầu trọc lóc trừ một cái đuôi tóc được tết ở phía sau. Anh chàng đó chắc chắn có tập thể hình vì hai cánh tay đầy cơ bắp. Một thanh kiếm giống hệt thanh của tôi đeo ở dây thắt lưng anh ta.
“Con sông này thật nguy hiểm,” anh ta nói với tôi bằng cái giọng khá quen. “Người hoa tiêu không thể bị phân tâm. Anh ta phải luôn chú ý đến các bãi cát giữa sông và các cọc cừ ẩn nấp bên dưới. Đó là lý do tại sao thuyền bè được vẽ con mắt của ta, ngươi biết đấy - để nhìn thấy rõ các nguy hiểm.”
“Con Mắt Horus,” tôi nói. “Là ông.”
Vị thần chim ưng liếc nhìn tôi, và tôi nhận ra rằng mắt anh này có hai màu khác nhau - một con có màu vàng tươi giống hệt mặt trời, con còn lại phản chiếu ánh bạc giống mặt trăng. Hiệu ứng của đôi mắt quá lạc hướng, tôi phải dời mắt ra hướng khác. Và khi làm thế, tôi nhận ra bóng của Horus không khớp với cơ thể anh ta. Trải dọc khắp buồng lái là bóng của một con chim ưng khổng lồ.
“Cậu đang thắc mắc không biết trật tự có tốt hơn hỗn mang phải không,” anh ta nói. “Cậu trở nên phân tâm quên mất kẻ thù thật sự của chúng ta: Set. Cậu nên được dạy cho một bài học.”
Tôi sắp nói, Không, thật sự đấy, như thế là ổn rồi.
Nhưng ngay lúc đó ba của tôi bị thổi bay đi. Đột nhiên, tôi lại có mặt trên một chuyến bay - một chiếc máy bay quốc tế lớn giống những máy bay mà cha và tôi đã đi cả triệu lần. Zia Rashid, Desjardins, và hai pháp sư khác đang ngồi ở hàng ghế giữa, bao quanh bởi các gia đình với những đứa trẻ đang la hét. Zia dường như chẳng bận tâm đến điều đó. cô ấy bình thản tịnh tâm với hai mắt nhắm hờ, trong khi Desjardins và hai người còn lại trông khá bực bội, tôi suýt nữa thì bật cười.
Chiếc máy bay lắc tới lắc lui. Desjardins làm đổ rượu ra khắp vạt áo. Đèn dây an toàn chớp nháy, và một giọng nói vang lên khọt khẹt ở đường dây nội bộ: “Đây là cơ trưởng. Có vẻ như chúng ta đang bay qua khu vực hỗn loạn cấp thấp khi chúng ta đáp xuống Dallas, vì thế tôi sẽ yêu cầu các tiếp viên hàng không…”
Bùm! Một tiếng nổ làm các cửa sổ kêu lách cách - tia chớp lóe lên theo ngay sau đó là tiếng sấm.
Zia bật mở mắt. “Chúa Đỏ.”
Các hành khách la hét khi máy bay lao thẳng xuống một vài trăm mét.
“II commence!” Desjardins hét lên át mọi tiếng ồn. “Nhanh lên!”
Khi máy bay rung lắc dữ dội, các hành khách kêu hét inh tai và bám chặt vào ghế ngồi của họ. Desjardins đứng dậy và mở ngăn hành lý phía trên đầu.
“Thưa ông!” một tiếp viên hàng không quát. “Thưa ông, xin ông ngồi xuống!”
Desjardins lờ đi tiếp viên hàng không, ông ta tóm lấy bốn cái túi quen thuộc - bộ dụng cụ phép thuật - và ném chúng cho đồng nghiệp.
Rồi mọi việc trở nên xấu đi. Một sự rung lắc mạnh lan khắp khoang và máy bay tròng trành chao nghiêng. Ngay phía bên ngoài các cánh cửa sổ bên phải, tôi nhìn thấy cánh máy bay bị biến dạng bởi gió có tốc độ lên đến năm trăm dặm một giờ.
Cả khoang máy bay trở nên hỗn loạn - đồ uống, sách, và giày bay khắp nơi, mặt nạ oxy rơi xuống và quấn vào nhau, mọi người la hét cứu mạng.
“Bảo vệ những người vô tội!” Desjardins ra lệnh.
Máy bay bắt đầu rung lắc và các vết nứt xuất hiện trên cửa sổ và thành máy bay. Hành khách im bặt, sụm xuống bất tỉnh khi áp xuất không khí sụt giảm. Bốn pháp sư đưa cây gậy phép của mình lên khi máy bay vỡ ra thành từng mảnh.
Trong một thoáng, các pháp sư trôi lơ lửng trong lốc xoáy các đám mây bão, những đám khoanh máy bay, hành lý, và hành khách bay khắp nơi với cơ thể vẫn còn gắn chặt vào ghế ngồi của họ. Rồi một ánh sáng trắng rực rỡ tỏa ra quanh người họ, một bong bóng sức mạnh làm cho quá trình phá vỡ của máy bay chậm lại và giữ cho các mảnh vỡ bị cuốn đi theo một quỹ đạo kín. Desjardins chìa tay ra và rìa của một đám mây vươn dài về phía ông ta - một tua sương mù trắng như bông, giống một vạch an toàn. Các pháp sư khác cũng làm tương tự, và cơn bão rẽ sang hướng khác theo ý của họ. Hơi nước trắng quấn quanh họ và bắt đầu đưa ra thêm các tua, giống các đám mây hình phễu, tóm lấy các mảnh của máy bay rồi kéo chúng lại với nhau.
Một đứa bé rơi ngang qua Zia, nhưng cô ta chỉ cây gậy phép của mình và lẩm bẩm một câu thần chú. Một đám mây bao lấy cô bé con và mang cô bé quay lại. Chẳng mấy chốc bốn pháp sư đã đang lắp ráp lại chiếc máy bay, gắn lại các vết thủng bằng các sợi tơ mây cho đến khi toàn bộ khoang máy bay được bao bọc bởi một cái kén hơi nước phát sáng. Phía bên ngoài, cơn bão trở nên dữ dội và sấm chớp đì đùng, nhưng hành khách lại ngủ ngon lành trong tại chỗ.
“Zia!” Desjardins hét lớn. “Chúng ta không thể giữ cái này lâu hơn được nữa.”
Zia chạy băng qua ông ta về phía buồng lái. Bằng cách nào đó phần trước của chiếc máy bay vẫn còn hoàn toàn nguyên vẹn. Cánh cửa được bọc sắt và được khóa, nhưng cây gậy của Zia lóe lên và cánh cửa tan ra như sáp. Cô bước vào phát hiện ra ba phi công đang bất tỉnh. Quang cảnh bên ngoài qua cửa sổ đủ khiến cho tôi buồn nôn. Xuyên qua các đám mây hình xoắn ốc, mặt đất đang nhanh chóng hiện ra - rất nhanh.
Zia đập mạnh cây đũa phép của mình vào bàn điều khiển. Nguồn năng lượng màu đỏ lan khắp mặt điều khiển. Kim đồng hồ nhảy lên, đồng hồ mét chớp nháy, và đồng hồ đo độ cao khựng lại. Mũi máy nghếch lên, tốc độ của nó giảm dần. Trong khi tôi quan sát, Zia hướng máy bay về phía đồng cỏ và đáp xuống mà chẳng có lấy một sự dằn xóc nào cả. Rồi mắt cô ấy trợn ngược, rồi cô đổ ập người xuống.
Desjardins tìm thấy cô và ôm cô trong tay. “Nhanh lên,” ông ta nói với các đồng sự, “những người thường sẽ sớm tỉnh lại đấy.”
Họ đưa Zia ra khỏi buồng lái, và ba của tôi bị cuốn trôi đi qua các hình ảnh lờ mờ.
Tôi lại nhìn thấy Phoenix - hay ít ra là một phần nào đó của thành phố. Một đám bão cát đỏ khổng lồ đang di chuyển băng qua thung lũng, nuốt chửng các tòa nhà và ngọn núi. Trong làn gió nóng bỏng, khắc nghiệt, tôi nghe thấy Set cười lớn, say sưa thỏa mãn với sức mạnh của mình.
Rồi tôi nhìn thấy Brooklyn: ngôi nhà đã bị phá hủy của chú Amos bên bờ sông Đông và cơn bão mùa đông đang cuồng nộ thổi qua phía trên bầu trời, những cơn gió rít gào ném mưa đá và tuyết xuống thành phố.
Và rồi tôi nhìn thấy một nơi mà tôi không nhận ra: một con sông uốn khúc chảy qua một hẻm núi trong sa mạc. Bầu trời phủ đầy các đám mây đen ngòm, mặt sông dường như đang sôi sục. Có thứ gì đó đang di chuyển bên dưới dòng nước, thứ gì đó to lớn, xấu xa và đầy sức mạnh - và tôi biết nó đang đợi tôi.
Đây chỉ mới là khởi đầu, Horus cảnh báo tôi. Set sẽ tiêu diệt bất cứ người nào mà cậu quan tâm. Hãy tin ta đi, ta biết rõ điều đó.
Con sông biến thành một đầm lầy đầy những cây sậy cao lớn. Trên cao, mặt trời tỏa ánh sáng rực rỡ. Rắn và cá sấu lượn lờ qua dòng nước, ở rìa sông có một cái lều tranh. Phía bên ngoài lều, một người phụ nữ và một đứa trẻ khoảng mười tuổi đang đứng chăm chú nhìn vào một cái quan tài cũ tả tơi. Tôi có thể thấy cái quan tài đó trước đây từng là một kiệt tác nghệ thuật - được làm từ vàng và được khảm đá quý - nhưng giờ đây nó sứt mẻ và đen xì với đầy bụi bẩn.
Người phụ nữ đưa tay vuốt lên nắp quan tài.
“Cuối cùng cũng tìm thấy.” Bà ấy có khuôn mặt của mẹ tôi - đôi mắt xanh và mái tóc màu nâu nhạt - nhưng bà ấy phát sáng với ánh hào quang phép thuật. Tôi biết mình đang nhìn thấy nữ thần Isis.
Bà ấy quay về phía cậu bé. “Chúng ta đã tìm kiếm quá lâu, con trai. Cuối cùng chúng ta cũng tìm được ông ấy. Ta sẽ sử dụng phép thuật của mình và mang ông ấy quay trở lại!”
“Cha ư?” Cậu bé trố mắt nhìn vào cái hộp. “Ông ấy thật sự ở bên trong sao?”
“Đúng thế, Horus. Và giờ…”
Đột nhiên cái lều của họ bùng lên thành lửa. Vị thần Set bước ra từ địa ngục - một chiến binh kiên cường có làn da đỏ với đôi mắt đen đầy giận dữ. Hắn đội hai chiếc vương miệng của Ai Cập và vận áo choàng của pharaoh. Trong tay hắn là cây gậy sắt đang bốc khói.
“Đã tìm được quan tài sao?” hắn nói. “Giỏi đấy!”
Isis đưa tay lên trời. Bà ấy triệu hồi một tia chớp đánh về phía thần hỗn mang, nhưng cây gậy của Set đã hấp thu hết toàn bộ cú tấn công để rồi tấn công ngược lại bà ấy. Các tia lửa điện hình cung đánh vào nữ thần hất bà ngã sóng soài.
“Mẹ!” Cậu bé rút một con dao ra và tấn công Set. “Ta sẽ giết ngươi!”
Set cười rống lên. Hắn nhẹ nhàng né cú tấn công của cậu bé và đá cậu ta ngã lăn xuống đất.
“Mi có tinh thần đấy, cháu trai à,” Set thừa nhận. “Nhưng mi sẽ không sống được lâu để chống lại ta đâu. Còn về phần cha ngươi, ta chỉ việc để cho ông ta biến mất vĩnh viễn hơn nữa mà thôi.”
Set nện mạnh cây gậy sắt của mình lên nắp hòm.
Nữ thần Isis hét lên khi cái quan tài vỡ tan như đá.
“Hãy ước đi.” Set thổi một hơi thật mạnh, và tất cả các mảnh quan tài bay lên trời, tán loạn đi khắp hướng. “Osiris tội nghiệp - hắn ta sẽ biến thành các mảnh nhỏ, rải rác khắp Ai Cập. Và còn về phần chị, chị Isis à - hãy chạy đi! Đó là điều chị làm giỏi nhất mà!”
Set lao về phía trước. Nữ thần Isis tóm lấy tay con trai mình và cả hai đều biến thành chim, cố sống cố chết bay đi.
Cảnh đó dần mờ, và tôi lại quay lại buồng thuyền trưởng của tàu chạy bằng hơi nước. Mặt trời mọc lên loang loáng khi thành phố và các sà lan di chuyển qua với tốc độ chóng mặt và hai bờ sông Mississippi mờ đi thành trò pha quyện ánh sáng và bóng tối.
“Hắn đã tiêu diệt cha ta,” Horus nói với tôi. “Hắn sẽ làm thế với cha cậu.”
“Không,” tôi nói.
Horus nhìn chằm tôi bằng đôi mắt kỳ lạ đó - một bên vàng lấp lánh, một bên có màu bạc của ánh trăng rằm. “Mẹ ta và dì Nephthys đã bỏ ra nhiều năm tìm kiếm các mảnh quan tài và cơ thể của Cha. Khi họ tập hợp được mười bốn miếng, anh họ Anubis đã giúp gắn cơ thể cha ta lại với vải phủ xác ướp, thế nhưng phép thuật của mẹ ta vẫn không thể hoàn toàn làm cho ông sống lại. Osiris trở thành một vị thần không chết, một hình bóng bán sống bán chết của cha ta, chỉ phù hợp để trị vì ở Cõi Âm. Nhưng cái chết của ông đã khiến ta giận dữ. Sự giận dữ đã mang đến cho ta sức mạnh đánh bại Set và mang lại cho mình ngai vàng. Cậu cũng phải làm như những gì ta đã làm.”
“Tôi không muốn ngai vàng,” tôi nói. “Tôi chỉ muốn cha tôi thôi.”
“Đừng lừa dối chính mình. Set chỉ đang đùa bỡn cậu mà thôi. Hắn sẽ làm cho cậu tuyệt vọng, và nỗi đau sẽ khiến cậu trở nên yếu đi.”
“Tôi phải cứu cha tôi!”
“Đó không phải là nhiệm vụ của cậu,” Horus quở trách. “Thế giới đang lâm nguy. Giờ, hãy thức dậy nào!”
Sadie đang lắc cánh tay tôi. Con bé và nữ thần Bast đứng phía trên tôi, nhìn tôi đầy lo lắng.
“Gì vậy?” tôi hỏi.
“Chúng ta đã đến nơi,” Sadie lo lắng nói. Con bé đã thay bộ áo quần bằng vải lanh mới, lần này là màu đen, khá hợp với đôi giày chiến binh của nó. Con bé thậm chí còn nhuộm lại tóc mình nên giờ tóc nó có những vệt màu xanh.
Tôi ngồi dậy và nhận ra mình cảm thấy thật sự thanh thản lần đầu tiên trong suốt cả tuần qua. Linh hồn tôi có lẽ đã đi du hành khắp nơi đấy, nhưng ít nhất cơ thể tôi đã ngủ được một ít. Tôi liếc nhìn ra phía ngoài cánh cửa phòng ngủ. Bên ngoài tối đen như mực.
“Anh đã ngủ trong bao lâu?” tôi hỏi.
“Chúng ta đã đi gần hết con sông Mississippi và đi vào Cõi Âm,” nữ thần Bast nói. “Giờ chúng ta sẽ đến Thác Nước Lớn Đầu Tiên.”
“Thác Nước Lớn Đầu Tiên ư?” tôi hỏi.
“Lối vào,” nữ thần Bast ảm đạm nói, “dẫn đến Vùng Đất của Người Chết.”