Chương 36 - Gia Đình Chúng Tôi Biến Thành Mây Bão.
CHƯA TỚI MỘT DẶM là đến núi Camelback, chúng tôi đi xuyên vào một khu vực hoàn toàn lặng gió.
“Mắt bão,” Carter đoán.
Rùng rợn lắm. Một khối mây đen hình trụ đang vần vũ bao quanh ngọn núi. Các vệt khói dạt tới dạt lui từ đỉnh Camelback đến các rìa đám mây xoáy như những cái nan hoa của bánh xe, nhưng ngay phía trên chúng tôi, bầu trời trong vắt đầy sao, đang bắt đầu chuyển sang màu xám. Bình minh sẽ không còn xa nữa.
Đường phố vắng tanh. Những căn biệt thự và khách sạn túm tụm quanh chân núi, hoàn toàn tối om; nhưng bản thân ngọn núi thì lại phát sáng. Bạn có bao giờ phủ tay lên phía trên mặt đèn soi (xin lỗi nhé, người Mỹ các bạn gọi là đèn pin) và xem cách da bạn phát ra ánh sáng màu đỏ như thế nào chưa? Ngọn núi trông nhu thế đấy: thứ gì đó rất sáng và rất nóng đang cố đốt cháy xuyên qua các tảng đá.
“Chẳng có thứ gì di chuyển trên đường phố cả,” Zia nói. “Nếu chúng ta cố lái xe lên núi…”
“Chúng ta sẽ bị trông thấy,” tôi nói.
“Còn câu thần chú đó thì sao?” Carter nhìn Zia. “Cô biết đấy… câu mà cô sử dụng ở Khu Vực 1 ấy.”
“Câu thần chú nào?” tôi hỏi.
Zia lắc đầu. “Carter đang nhắc đến câu thần chú vô hình. Nhưng tôi không còn phép thuật nữa. Và trừ khi hai người có đầy đủ các thành phần thích hợp, chứ không thể nghĩ đến là thực hiện được ngay đâu.”
“Chú Amos?” tôi hỏi.
Chú ấy suy nghĩ về yêu cầu của tôi. “Không thể vô hình được, chú lấy làm tiếc. Nhưng chú có một ý tưởng khác.”
ﻤﻤﻤ
Tôi nghĩ việc trở thành một con chim thật tệ, cho đến khi chú Amos biến chúng tôi thành các đám mây bão.
Chú ấy giải thích trước cho chúng tôi những gì chú ấy sẽ làm, nhưng có thể cũng không giúp tôi bớt sợ hãi.
“Không ai nhận ra một vài dải mây đen nhỏ giữa một cơn bão cả,” chú ấy lập luận.
“Nhưng điều đó là không thể,” Zia nói. “Đây là một cơn bão được tạo ra từ phép thuật, phéo thuật của hỗn mang. Chúng ta không nên…”
Chú Amos đưa cây đũa phép của mình lên, và Zia tan biến.
“Không!” Carter hét lên, nhưng rồi anh ấy cũng biến mất, được thay bằng một cuộn bụi xoáy màu đen.
Chú Amos quay về phía tôi.
“Ồ, không,” tôi nói. “Cảm ơn chú, nhưng…”
Phụp. Tôi đã là một đám mây bão. Này, điều đó nghe có vẻ thật tuyệt vời với các bạn, nhưng hãy tưởng tượng hai tay và chân bạn biến mất, biến thành các làn gió. Hãy tưởng tượng cơ thể bạn được thay thế bởi bụi và hơi nước, rồi bạn sẽ có cái cảm giác ngứa ran trong dạ dày trong khi thậm chí bạn chẳng có lấy cái dạ dày nào. Hãy hình dung xem bạn phải tập trung để giữa cho chính mình khỏi tan biến tan tác vào thinh không.
Tôi cảm thấy giận dữ, một tia chớp nổ lốp bốp bên trong cơ thể tôi.
“Đừng như thế,” chú Amos mắng tôi. “Chỉ một vài phút thôi. Đi theo chú nào.”
Chú ấy tan biến thành một mẩu bão nặng hơn và tối hơn rồi phóng nhanh về phía ngọn núi. Việc đuổi theo chú ấy chẳng dễ dàng gì. Lúc đầu tôi chỉ có thể trôi bồng bềnh. Mỗi một cơn gió đều đe dọa mang đi một vài phần nào đó của tôi. Tôi cố cuồn cuộn xoáy và nhận ra điều đó giúp các mảnh nhỏ của cơ thể tôi gắn lại với nhau. Rồi tôi cố hình dung mình đang được bơm tràn khí hê-li, thế là đột nhiên tôi bay bổng lên.
Tôi không chắc liệu Carter và Zia có theo kịp không. Khi bạn là một cơn bão, tầm nhìn của bạn không giống như con người nữa. Tôi có thể cảm nhận ang áng những gì xung quanh tôi, nhưng những gì tôi “nhìn thấy” đều tán loạn và mờ nhạt, như thể đang nhìn qua trong tình trạng nhiễu khí quyển nặng vậy.
Tôi bay thẳng về phía ngọn núi, lúc này gần như là đốm lửa hiểu không thể cưỡng lại đối với cơ thể bão của tôi. Ngọn núi phát ra nhiệt, áp suất, và cả sự hỗn loạn – bất cứ thứ gì mà một con quỷ bão bé nhỏ giống như tôi có thể muốn.
Tôi đi theo chú Amos đến một dải đất nằm ở phía bên kia sườn núi, nhưng tôi biến lại về hình người hơi sớm. Tôi ngã nhào từ trên trời xuống và húc Carter ngã xuống đất.
“Ối,” anh ấy rên rỉ.
“Xin lỗi,” tôi nói, mặc dầu tôi tập trung phần lớn vào việc cố không nôn ra. Dạ dày tôi vẫn có cảm giác như lúc tôi là cơn bão vậy.
Zia và chú Amos đứng kế bên tôi, ló đầu nhìn vào khe nứt giữa hai tảng sa thạch lớn. Ánh sáng đỏ từ bên trong tràn ra và khiến mặt họ trông gian ác.
Zia quay về phía cúng tôi. Xem xét từ nét mặt, những gì cô ta đã nhìn thấy đều không được tốt cho lắm. “Chỉ còn lại cái chóp tháp.”
“Cái gì?” Tôi nhìn xuyên qua khe nứt, và tầm mắt bị mất phương hướng như lúc bị biến thành một đám mây bão. Toàn bộ ngọn núi bị khoét rỗng, y như những gì Carter đã miêu tả. Đáy hang ở cách chúng tôi khoảng sáu trăm mét phía bên dưới. Lửa cháy dữ dội khắp nơi, nhuộm các bức tường đá trong ánh sáng đỏ như máu. Một kim tự tháp đỏ thẫm khổng lồ chiếm lấy toàn bộ diện tích cái hang, và ở dưới chân kim tự tháp, vô số quỷ đi tha thẩn như đám đông trong một buổi biểu diễn nhạc rock đang chờ mở màn. Ở cao hơn phía trên bọn chúng, ngang với tầm mắt của chúng tôi, hai sà-lan phép thuật được vận hành bởi các thủy thủ đoàn ma quỷ trôi chầm chậm, kiểu cách về phía kim tự tháp. Được treo lơ lửng bởi một đống dây thừng giữa hai con thuyền là mảnh kim tự tháp duy nhất vẫn chưa được lắp vào – viên đá bằng vàng được đặt trên đỉnh của công trình.
“Chúng biết chúng đã chiến thắng,” Carter đoán. “Chúng đang thể hiện rõ điều đó.”
“Đúng thế,” chú Amos nói.
“Ồ, thế thì chúng ta hãy làm nổ tung các con thuyền hay thứ gì đó đi!” tôi nói.
Chú Amos nhìn tôi. “Thành thật mà nói, đó là chiến lược của cháu ư?”
Giọng chú ấy khiến tôi cảm thấy mình thật ngu ngốc. Khi nhìn xuống đội quân quỷ, cái kim tự tháp khổng lồ… tôi đã nghĩ cái gì vậy nhỉ? Tôi không thể chiến đấu trong cuộc chiến này. Tôi chỉ là một đứa trẻ mới mười hai tuổi đầu mà thôi.
“Chúng ta phải thử thôi,” Carter nói. “Cha đang ở trong đó.”
Điều đó đã kéo tôi ra khỏi màn tự thán của mình. Nếu chúng tôi sẽ phải chết, ít ra chúng tôi sẽ chết khi đang cố cứu cha mình (ồ, và cả Bắc Mỹ nữa, tôi cho là thế).
“Đúng thế,” tôi nói. “Chúng ta bay đến mấy con thuyền đó. Chúng ta ngăn chúng không đặt cái đỉnh lên…”
“Chóp tháp,” Zia sửa lại.
“Gì cũng được. Rồi chúng ta bay vào kim tự tháp và tìm Cha.”
“Và khi Set cố ngăn cháu lại thì sao?” chú Amos hỏi.
Tôi liếc nhìn Zia, lúc này đang âm thầm cảnh báo tôi không được nói thêm gì nữa.
“Việc ưu tiên cần giải quyết trước,” tôi nói. “Chúng ta bay đến những cái thuyền bằng cách nào?”
“Dưới hình dáng một cơn bão,” chú Amos gợi ý.
“Không!” cả ba chúng tôi đồng thanh.
“Tôi sẽ không tham gia vào bất cứ phép thuật hỗn mang này thêm lần nữa,” Zia khẳng định. “Việc đó không theo quy luật tự nhiên.”
Chú Amos vẫy tay ra hiệu về phía cảnh tượng đang diễn ra bên dưới chúng tôi. “Nói cho tôi xem đó là điều diễn ra theo quy luật tự nhiên đi. Các cô cậu có kế hoạch nào khác không?”
“Những con chim,” tôi nói, thấy ghét bản thân mình vì đã nghĩ đến điều đó. “Cháu sẽ trở thành một con diều hâu. Carter có thể làm một con chim ưng.”
“Sadie,” anh Carter cảnh báo, “nếu như…”
“Em buộc phải thử.” Tôi nhìn ra chỗ khác trước khi tôi mất đi sự quyết tâm. “Zia, đã gần mười tiếng kể từ khi cô tạo ra cây cột lửa, đúng không? Vẫn không có phép thuật sao?”
Zia chìa một bàn tay ra và tập trung. Lúc đầu chẳng có gì xảy ra. Rồi một tia ánh sáng đỏ xuất hiện dọc theo các đầu ngón tay của cô ta, và cây gậy xuất hiện trong nắm tay của cô ta, vẫn còn đang bốc khói.
“Thật đúng lúc,” Carter nói.
“Có và không,” chú Amos nhận xét. “Điều đó có nghĩa Desjardins không còn bị cột lửa đuổi theo nữa. Ông ta sẽ sớm có mặt ở đây thôi, và chú tin rằng ông ta sẽ mang theo quân tiếp viện. Có thêm nhiều kẻ thù nữa dành cho chúng ta.”
“Phép thuật của tôi vẫn còn yếu,” Zia cảnh báo. “Tôi sẽ không giúp được gì nhiều trong trận đấu, nhưng có lẽ tôi triệu hồi được phương tiện di chuyển.” Cô ta lấy ra một mặt dây chuyền con chim kền kền mà cô ta đã dùng ở Luxor.
“Chừa phần chú ra,” chú Amos nói. “Đừng lo lắng. Chúng ta sẽ gặp nhau ở con thuyền bên trái. Chúng ta sẽ đánh bại nó, sau đó giải quyết chiếc bên phải. Và hy vọng chúng ta sẽ có được sự bất ngờ.”
Tôi không có tâm trạng để chú Amos lên kế hoạch cho chúng tôi, nhưng tôi không thể tìm ra bất cứ sai lầm nào trong các lập luận của chú ấy. “Đúng thế. Chúng ta phải nhanh chóng tiêu diệt các con thuyền, rồi tiến vào kim tự tháp. Có lẽ chúng ta có thể đóng kín lối vào hay gì đó.”
Carter gật đầu. “Đã sẵn sàng.”
Thoạt đầu, kế hoạch dường như diễn ra khá trôi chảy. Tôi không gặp vấn đề gì khi biến thành diều hâu, và tôi thật ngạc nhiên vì khi đến được mũi thuyền tôi đã biến ngạy lại thành người ngay lần thử đầu tiên, với cây gậy và đũa phép sẵn sàng trong tay. Kẻ duy nhất còn ngạc nhiên hơn là con quỷ đứng ngay trước mặt tôi, đầu dao bấm tự động của hắn vọt thẳng lên vì hốt hoảng.
Trước khi hắn ta có thể chém tôi hay thậm chí thét lên, tôi đã dùng gậy triệu hồi gió và thổi bay hắn ta ra khỏi mạn thuyền. Hai trong số huynh đệ của hắn ta tấn công tôi, nhưng Carter đã xuất hiện sau lưng chúng, kiếm được rút ra, và chém chúng thành các đống cát.
Không may, Zia lại hơi khó ẩn mình. Một con chim kền kền khổng lồ với một cô gái đang treo lủng lẳng ở chân nó thường hay thu hút sự chú ý của mọi người. Khi cô ta bay về phía con thuyền, các tên quỷ bên dưới chỉ trỏ và hét lên. Một vài con ném lao về phía cô ấy, nhưng chúng chệch khỏi mục tiêu một quãng ngắn.
Tuy nhiên, sự xuất hiện hoành tráng của Zia đã làm sao lãng hai con quỷ còn lại trên thuyền của chúng tôi, giúp chú Amos xuất hiện phía đằng sau chúng. Chú ấy mang hình dáng của một con dơi ăn quả, điều đó gợi lên những ký ức xấu; nhưng chú ấy nhanh chóng biến về hình dáng con người và đâm người vào các con quỷ, hất chúng rơi vào không trung.
“Bám chắc vào!” chú ấy nói với chúng tôi. Zia đáp xuống vừa kịp lúc tóm lấy cái bánh lái. Carter và tôi tóm lấy hai bên mạn thuyền. Tôi không biết chú Amos đang tính làm gì, nhưng sau chuyến đi bằng con thuyền bay vừa qua của tôi, tôi không muốn liều nữa. Chú Amos bắt đầu ngâm, chĩa cây gậy của chú về phía con thuyền kia, nơi những con quỷ mới chỉ bắt đầu la hét và chỉ chỏ về phía chúng tôi.
Một con trong số chúng cao và rất gầy, với đôi mắt đen và một khuôn mặt ghê tởm, như một bắp thịt mà lớp da bên ngoài đã bị bóc ra hết.
“Đó là cánh tay phải của Set,” Carter cảnh báo. “Khuôn Mặt của Nỗi Khiếp Sợ”
“Các ngươi!” tên quỷ đó gào lên. “Bắt chúng!”
Chú Amos hoàn tất câu thần chú của mình. “Khói,” chú ấy ngâm.
Ngay lập tức, con thuyền thứ hai biến thành lớp sương mù màu xám. Các con quỷ hét vang lên khi rơi xuống. Viên đá chóp tháp bằng vàng rơi thẳng xuống cho đến khi các sợi dây cột chặt nó từ bên thuyền chúng tôi bị kéo căng, và rồi con thuyền của chúng tôi suýt lật úp. Bị kéo nghiêng sang một bên, chúng tôi bắt đầu rơi xuống về phía nền hang.
“Carter, cắt các sợi dây đi!” tôi gào lên.
Anh ấy chém chúng bằng thanh kiếm của mình, và con thuyền lấy lại được cân bằng, ngay lập tức bay lên cao hơn khoảng vài mét và làm dạ dày tôi lọt thỏm.
Chóp tháp đập mạnh xuống nền hang kêu răng rắc và lóc bóc. Tôi có cảm giác chúng tôi vừa mới làm ra một đống bánh nướng vỉ quỷ.
“Cho đến lúc này mọi việc đều ổn,” Carter nhận xét, nhưng như mọi khi, anh ấy đã nói quá sớm.
Zia chỉ xuống bên dưới. “Nhìn kìa.”
Tất cả những con quỷ có cánh – chỉ một phần trăm nhỏ, nhưng vẫn có đến bốn mươi hoặc năm mươi tên – đã lao mình về phía chúng tôi, lấp đầy khoảng không như một bầy ong vò vẽ giận dữ.
“Bay về phía kim tự tháp,” chú Amos nói. “Chú sẽ đánh lạc hướng bọn quỷ.”
Ở lối vào kim tự tháp, một cánh cửa đơn giản nằm giữa hai cái cột ở chân của công trình xây dựng, không cách xa chúng tôi lắm. Có vài con quỷ canh gác, nhưng phần lớn quân đội của Set đang chạy về phía con thuyền của chúng tôi, gào thét và ném đá (mà các hòn đá đó rơi trở lại vào người bọn chúng, nhưng có ai nói là lũ quỷ thông minh đâu nào.)
“Chúng quá nhiều,” tôi cãi lại. “Chú Amos, chúng sẽ giết chú mất.”
“Đừng lo cho chú,” chú ấy nói một cách dứt khoát. “Hãy đóng kín lối vào phía sau cháu.”
Chú ấy đẩy tôi xuống khỏi mạn thuyền, khiến tôi không có lựa chọn nào ngoài việc biến thành con chim diều hâu. Carter trong hình dáng chim ưng cũng đã sẵn sàng bay liệng về phía lối vào kim tự tháp, và tôi có thể nghe tiếng vỗ cánh của con kền kền khổng lồ mang theo Zia bay phía sau chúng tôi.
Tôi nghe chú Amos hét, “Vì Brooklyn!”
Đó là một tiếng hô xung trận kỳ quái. Tôi liếc nhìn ra phía sau, và con thuyền đột nhiên bốc cháy. Nó bắt đầu trôi ra xa khỏi kim tự tháp và hạ xuống về phía đội quân quái vật. Các quả cầu lửa từ thuyền bắn ra khắp mọi hướng khi các mảnh thân tàu vỡ vụn. Tôi không có thời gian để chiêm ngưỡng phép thuật của chú Amos, hay lo lắng điều gì đã xảy ra với chú ấy. Chú ấy đã làm vô số các con quỷ sao lãng với màn trình diễn pháo hoa, trừ một vài con đã chú ý đến bọn tôi.
Carter và tôi đáp xuống ngay phía bên trong lối vào kim tự tháp rồi biến lại thành hình người. Zia té xuống bên cạnh chúng tôi và biến con chim kền kền của cô ấy thành vòng đeo cổ. Các con quỷ chỉ đang ở phía sau chúng tôi một vài bước – một tá những tên to lớn mang đầu côn trùng, rồng, và đủ các loại phụ tùng của con dao đa năng Thụy Sĩ.
Carter thọc tay ra. Một nắm đấm phát sáng khổng lồ xuất hiện và bắt chước theo chuyển động của anh ấy – len vào giữa Zia và tôi rồi đấm mạnh cho cánh cửa đóng lại. Carter nhắm mắt lại tập trung, và một dấu hiệu vàng đang cháy tự khắc ngang hai cánh cửa như một con dấu: Con Mắt Horus. Các nét vẽ phát sáng nhàn nhạt khi các con quỷ nện búa vào vật cản, cố đi vào bên trong.
“Sẽ không giữ chân chúng được lâu,” Carter bảo.
Tôi hết sức ấn tượng, dĩ nhiên là tôi không nói ra điều đó. Nhìn hai cánh cửa bị niêm kín, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là về chú Amos, ở bên ngoài kia trên một con thuyền đang cháy, bị bao vây bởi một quân đội quỷ dữ.
“Chú Amos biết mình đang làm gì,” Carter nói, mặc dầu giọng anh ấy nghe có vẻ không chắc chắn cho lắm. “Chú ấy chắc sẽ ổn thôi.”
“Đi thôi,” Zia giục chúng tôi. “Không có thời gian để hồi tâm chuyển ý đâu.”
ﻤﻤﻤ
Đường hầm hẹp, đỏ và ẩm ướt, vì thế tôi có cảm giác như mình đang bò xuyên qua động mạch của một con quái thú khổng lồ nào đó. Chúng tôi đi thành hàng một, vì đường hầm trở nên nghiêng khoảng bốn mươi độ - hẳn sẽ tạo thành một đường trượt nước thú vị lắm đây nhưng lại không phù hợp cho lắm việc đi đứng cẩn thận. Các bức tường được trang trí với các bức chạm trổ khó hiểu, như phần lớn các bức tường Ai Cập mà chúng tôi đã từng gặp, nhưng Carter rõ ràng là không thích chúng lắm. Anh ấy cứ mãi đứng lại, cau có nhìn vào mấy bức tranh.
“Gì?” tôi hỏi, sau lần dừng lại thứ năm hay thứ sáu gì đó của anh ấy.
“Những cái này không phải là các bức vẽ lăng một thông thường,” anh ấy nói. “Không có các bức ảnh kiếp sau, không có các bức ảnh về các vị thần.”
Zia gật đầu. “Kim tự tháp này không phải là một lăng mộ. Nó là cái nền, một cái xác để chứa đựng sức mạnh của Set. Tất cả những bức tranh này dùng để gia tăng sự hỗn mang, và giúp nó thống trị mãi mãi.”
Khi chúng tôi tiếp tục bước đi, tôi chú ý nhiều hơn đến các hình chạm khắc, và tôi hiểu được điều Zia nói. Các bức ảnh nói về các con quái vật kinh khủng, các cảnh chiến tranh, các thành phố như Paris, Luân Đôn đang chìm trong biển lửa, các bức chân dung đầy màu sắc của Set và con quái vật của Set đang xé tan xác các đội quân hiện đại – những cảnh tượng đó thật khủng khiếp, không có bất cứ người Ai Cập nào lại nguyện ý khắc chúng lên đá đâu. Chúng tôi đi càng sâu hơn, các bức ảnh lại càng trở nên kỳ lạ và sống động hơn, còn tôi lại cảm thấy buồn nôn hơn.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được tâm của kim tự tháp.
Nơi đáng lý ra là hầm mộ như trong các kim tự tháp thông thường, Set đã thiết kế một chánh điện dành cho chính hắn ta. Nó có kích thước bằng một sân tennis, nhưng bao lấy bốn cạnh của căn phòng, nền nhà lún xuống thành các đường rãnh sâu giống một cài hào. Xa xa bên dưới, chất lỏng màu đỏ sôi sùng sục. Máu? Dung nham? Nước xốt cà chua ma quỷ? Không một thứ nào trong các khả năng đó là thứ tốt cả.
Đường rãnh đó nhìn có vẻ dễ dàng nhảy qua, nhưng tôi không nóng lòng thử làm điều đó vì bên trong căn phòng, toàn bộ nền nhà đều được khắc các chữ tượng hình đỏ - tất cả các câu thần chú cầu khẩn sức mạnh của Isfet, hỗn mang. Xa bên trên trần nhà, ngay chính giữa là một lỗ hình vuông duy nhất dùng để đưa ánh sáng đỏ tươi vào. Ngoài ra, dường như ở đó chẳng có một lối thoát nào. Dọc theo mỗi bức tường là bốn bức tượng bằng đá vỏ chai về con vật của Set đang cúi thấp người lấy đà, mặt chúng quay về phía chúng tôi với những cái răng bằng ngọc trai nhe ra và đôi mắt bằng ngọc lục bảo sáng lấp lánh.
Nhưng phần đáng sợ nhất lại chính là cái ngai. Nó là một thứ méo mó đáng sợ, giống một cột xi măng đá đỏ tình cờ mọc lên từ hàng thế kỷ của chất trầm tích nhỏ xuống. Và nó vây quanh một cái quan tài vàng – quan tài của Cha – được chôn dưới chân của cái ngai, với một đầu thò ra vừa đủ để làm chỗ đặt chân.
“Sao chúng ta mang cha ra khỏi đó?” tôi nói, giọng tôi run rẩy.
Kế bên tôi, Carter nín thở. “Chú Amos?”
Tôi nhìn theo hướng anh ấy đang nhìn, về phía cái lỗ đỏ đang phát sáng ở giữa trần nhà. Một cặp chân đong đưa từ lỗ hỗng đó. Rồi chú Amos thả mình xuống, mở tung cái áo khoác không tay của mình như một cái dù để chú ấy có thể trôi lơ lửng phía trên sàn nhà. Áo quần chú ấy vẫn đang bốc khói, mái tóc dính đầy tro. Chú ấy chĩa cây gậy của mình về phía trần nhà và ra lệnh. Đường ống chú ấy đã đi qua rung chuyển, phun ra bụi và gạch vụn, và ánh sáng bất ngờ tắt ngúm.
Chú Amos phủi bụi khỏi áo quần và mỉm cười với chúng tôi. “Như thế sẽ giữ chân bọn chúng trong một lúc.”
“Sao chú làm được điều đó?” tôi hỏi.
Chú ấy ra hiệu cho chúng tôi đi vào căn phòng.
Carter nhảy qua cái rãnh sâu đó không chút chần chừ. Tôi không thích thế, nhưng tôi sẽ không để anh ấy đi mà không có tôi, vì thế tôi cũng nhảy qua cái rãnh. Ngay lập tức tôi cảm thấy càng buồn nôn hơn so với trước đó, như thể căn phòng đang bị nghiêng, khiến cho cảm giác của tôi mất cân bằng.
Zia là người đi vào cuối cùng, cô ta nhìn chú Amos đầy cẩn trọng.
“Ông đáng lẽ ra không còn sống,” cô ta nói.
Chú Amos cười khúc khích. “Ồ, ta đã nghe điều đó trước đây. Nào. hãy bắt tay vào việc nào.”
“Đúng thế.” Tôi nhìn trừng trừng về phía cái ngai. “Chúng ta làm cách nào để đưa cái quan tài ra ngoài?”
“Cắt nó ra chăng?” Cartre rút kiếm ra, nhưng chú Amos giữ tay anh ấy lại.
“Không phải thế, mấy đứa. Đó không phải là việc mà chú muốn nói. Chú phải chắc rằng không ai có thể xen ngang chúng ta. Giờ đến lúc chúng ta cần nói chuyện.”
Một cảm giác ớn lạnh hình thành khắp sống lưng tôi. “Nói chuyện ư?”
Đột nhiên chú Amos quỳ xuống đất và bắt đầu co giật. Tôi chạy về phía chú ấy, nhưng chú ấy đã ngước nhìn tôi, khuôn mặt co giật vì cơn đau. Đôi mắt chú đỏ rực.
“Chạy đi!” chú ấy rên rỉ.
Chú ấy độ ập người xuống, và hơi nước đỏ tỏa ra từ cơ thể chú.
“Chúng ta phải đi thôi!” Zia tóm lấy tay tôi. “Ngay bây giờ!”
Nhưng tôi cứ đứng nhìn, cứng cả người lại vì khiếp sợ, khi hơi nước cứ bốc lên từ cơ thể đang bất tỉnh của chú Amos và trôi về phía cái ngai – một chiến binh đỏ trong bộ giáp lửa, với cây gậy sắt trong tay và đầu của một con quái vật họ chó.
“Ối trời,” Set cười ngặt nghẽo. “Ta cứ nghĩ là Zia sẽ nói, ‘Tôi đã bảo hai người rồi.’”