6.Chú Amos Nghịch Với Những Tượng Chiến Binh.
TÊN CẬU TA LÀ LEONID, và chúng tôi đồng thuận không chém giết lẫn nhau.
Chúng tôi ngồi ngoài bậc thềm căn vọng lâu để trò chuyện trong khi những học sinh và thầy cô giáo xung quanh chúng tôi đang chật vật tỉnh dậy.
Tiếng Anh của Leonid không được suôn sẻ cho lắm. Tiếng Nga của tôi thì hoàn toàn không tồn tại, nhưng tôi cũng hiểu được câu chuyện của cậu ta kha khá đủ để thấy cảnh giác. Cậu ta đã đào thoát khỏi vùng Nga và bằng cách nào đó đã thuyết phục được thần Shu thổi bay mình đến đây tìm tôi. Leonid nhớ đến tôi từ chuyến thâm nhập của chúng tôi vào bảo tàng Hermitage. Rõ ràng tôi đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho anh chàng này. Có gì ngạc nhiên đâu. Tôi khá là đáng nhớ mà.
"Oài, Carter. Thôi cười đi cho."
Sử dụng từ ngữ, điệu bộ tay chân lẫn hiệu ứng âm thanh, Leonid ra sức giải thích về những gì đã xảy đến ở St Petersburg từ sau cái chết của Vlad Menshikhôngv. Tôi không thể nắm bắt hết câu chuyện, nhưng tôi có thể hiểu được từng này: Kwai, Jacobi, Apophis, Khu vực 1, nhiều cái chết, sớm thôi, sẽ rất sớm.
Thầy cô giáo bắt đầu dồn học sinh lại và gọi cho phụ huynh. Hình như họ lo vụ xỉu tập thể này có thể là do rượu trái cây ôi hay rò khí ga độc (chắc là mùi nước hoa của Drew đấy) thế là thầy cô quyết định di tản toàn khu vực. Tôi cho là cảnh sát cùng nhân viên cứu thương sẽ chóng có mặt tại hiện trường. Tôi muốn biến mất đi trước lúc ấy.
Tôi lôi Leonid san gặp anh trai. Carter đang đảo loạng choạng, tay chụi chụi mắt.
“Xảy ra chuyện gì thế?” Carter hỏi. Anh cau có nhìn Leonid. “Anh đ-?”
Tôi tóm tắt chuyện trong một phút: chuyến viếng thăm của Anubis, sự can thiệp của thần Shu, cuộc xuất hiện của cậu người Nga. “Leonid có thông tin về cuộc tấn công sắp đến vào khu vực 1,” tôi bảo. “Đám phản loạn sẽ truy đuổi cậu ấy.”
Carter gãi đầu. “Em muốn giấu thằng đấy vào Nhà Brooklyn à?”
“Không. Em phải mang cậu ta tới thẳng chỗ chú Amos.”
Leonid sặc lên. “Amos ư? Ông ta biến thành Set - cạp mặt à?”
“Amos sẽ không cạp mặt cậu đâu,” tôi trấn an cậu ta. “Jacobi cứ toàn dựng chuyện kể cho các người nghe thôi.”
Leonid vẫn trông có vẻ không được thoải mái. “Amos không trở thành Set à?”
Làm sao để giải thích mà không làm cho câu chuyện thêm xấu đi đây nhỉ? Tôi không biết từ ngữ tiếng Nga thích hợp để nói rằng: ông ấy bị Set ám nhưng không phải lỗi của ông, và giờ thì ông đã khá hơn nhiều rồi.
“Không phải Set,” tôi đáp. “Amos tốt.”
Carter chăm chú quan sát cậu người Nga. Anh nhìn tôi lo lắng. “Sadie, nhỡ đây là cái bẫy thì sao? Em tin tưởng tay này à?”
“Ồ, em có thể xử lý Leonid được mà. Cậu ta đâu muốn em hô biến cậu ta thành con sên vàng đâu, nhỉ, hả Leonid?”
“Nyet,” Leonid nghiêm chỉnh đáp. “Không thành sên vàng.”
“Đấy thấy chưa?”
“Thế còn chuyện ghé thăm thần Thoth thì sao?” Carter hỏi. “Việc ấy không thể hoãn được.”
Tôi nhìn ra vẻ lo lắng trong mắt Carter. Tôi hình dung là anh cũng đang nghĩ cùng 1 điều tôi đang nghĩ: mẹ của chúng tôi đang gặp rắc rối. Linh hồn của những người đã chết đang dần dà biến mất, và việc này có liên quan gì đấy đến cái bóng của Apophis. Chúng tôi phải tìm cho ra sự liên hệ ấy.
“Anh đi thăm thần Thoth đi, tôi bảo. “Hãy mang theo Walt. Với lại, ừm, anh nhớ chăm sóc cho Walt nhé? Anubis muốn nói với em chuyện gì đó về Walt, nhưng lại không còn thời gian. Còn khi ở Dallas khi em nhìn vào Walt trong Cõi Âm...”
Tôi không thể nói nốt câu. Chỉ nghĩ đến hình ảnh Walt bị cuộn trong lớp vải lanh ướp xác là đã khiến tôi nhạt nhòa.
May sao, dường như Carter đã hiểu được chung chung. “Ạnh sẽ bảo đảm cho cậu ta được an toàn,” Carter hứa. “Em sẽ đến Ai Cập bằng cách nào?”
Tôi suy đi tính lại. Rõ ràng là Leonid đã bay đến đây bằng đường hàng không hãng Shu Airways, nhưng tôi lại không nghĩ rằng vị thần phi công ấy lại sẵn lòng giúp cho tôi, còn tôi thì chẳng muốn hỏi nhờ.
“Bọn em sẽ liều mở một cổng ra vậy,” tôi đáp. “Em biết lâu nay mấy cái cổng không được đáng tin cậy cho lắm, nhưng chỉ nhảy loáng một cái thôi mà. Có gì hại đâu?”
“Em có thể hiện ra giữa lòng bức tường,” Carter đáp. “Hay là bị thổi bạt đi thành triệu mảnh qua Cõi Âm.”
Ôi Carter, anh quan tâm sâu sắc quá! Nhưng mà, thật đấy, bọn em sẽ ổn thôi. Mà cũng đâu có được nhiều nhặn lựa chọn gì cho cam.”
Tôi thoáng ôm lấy anh trai - tôi biết, lâm ly thật, nhưng tôi muốn thể hiện tình đoàn kết. Thế rồi, trước khi lại đổi ý, tôi nắm lấy tay Leonid mà phòng quan khuôn viên trường học.
Đầu óc tôi vẫn còn quay cuồng vì cuộc nói chuyện với Anubis. Làm sao mà Isis và Horus lại dám khiến chúng tôi xa nhau khi chúng tôi thậm chí không hề đi chung với nhau cơ chứ! Và Anubis đã muốn nói cho tôi chuyện vì về Walt nhỉ? Có lẽ anh ấy đã muốn chấm dứt mối quan hệ hẩm hiu của chúng tôi và tặng lời chúc phúc cho tôi hẹn hò với Walt chăng. (Thấy ghê.) Hay có lẽ Anubis muốn tuyên bố tình yêu bất diệt của mình mà đối đầu với Walt để giành lấy tình cảm của tôi. (Rất không có khả năng, mà tôi cũng không muốn bị giành giật như trái banh bóng rổ.) Hay có lẽ - khả năng này là cao nhất - Anubis chỉ muốn thông báo vài tin xấu nào đó.
Anubis đã ghé thăm Walt trong nhiều dịp mà tôi được biết đến. Cả hai người đấy đều rất kín tiếng về những gì được thảo luận, nhưng vì Anubis là vị thần hướng dẫn cho những kẻ chết nên tôi cho là anh ấy đang chuẩn bị cho Walt về cái chết. Có lẽ Anubis muốn cảnh báo cho tôi biết là thời điểm đã cận kề rồi - cứ như là tôi lại cần thêm một lời nhắc nhở nữa vậy.
Anubis: ngoài tầm với. Walt: kề miệng lỗ. Nếu tôi mất đi cả hai anh chàng mà mình yêu mến, thì việc... cứu rỗi thế giới này chẳng còn được ý nghĩa lắm.
Thôi được rồi, nói vậy là hơi quá. Nhưng chỉ là hơi hơi thôi.
Hơn nữa, mẹ tôi thì đang gặp rắc rối còn đám phản loạn của Sarah Jacobi lại đang vạch kế hoạch cho một cuộc tấn công tàn khốc vào cơ quan đầu não của chú tôi.
Nhưng mà, tại sao tôi lại cảm thấy thật... đầy hy vọng đến vậy?
Một ý tưởng bắt đầu nảy ra trong tôi - một tia khả năng bé xíu. Không chỉ là viễn cảnh rằng chúng tôi có thể tìm ra cách đánh bại con rắn. Những lời của Anubis mãi vang lên trong trí tôi: hình bóng thì vương vấn lại. Phải có một cách để phục hồi một tâm hồn từ nơi quên lãng.
Nếu một chiếc bóng có thể được dùng đển mang lại một tâm hồn khả tử đã bị tiêu hủy, thì bóng hình cũng có tác dụng tương tự với một vị thần chứ?
Tôi mãi lạc trong suy tưởng đến nỗi gần như chẳng nhận ra rằng chúng tôi đã đi đến toàn nhà bộ môn mỹ thuật tạo hình. Leonid dừng tôi lại.
“Nơi này làm cổng à?” Cậu ta chỉ vào một khối đá vôi đẽo gọt trong vườn.
“Phải. Cám ơn nhé.”
Nói ngắn gọn là vầy: khi tôi bắt đầu vào học tại BAG, tôi thấy việc có được một di vật thời Ai Cập ở gần bên phòng cho những trường hợp khẩn cấp sẽ rất hữu ích. Thế là tôi làm việc hợp tình hợp lý: tôi mượn một chiếc trụ đá vôi từ viện bảo tàng Brooklyn gần đấy. Nói thật chứ, viện bảo tàng ấy đã có thừa đá tảng rồi. Tôi không nghĩ họ sẽ nhớ nhung gì trụ đá này đâu.
Tôi đã để lại chiếc máy fax thế vào chỗ trụ đá rồi nhờ Alyssa trình trụ đá Ai Cập thực cho thầy giáo mỹ thuật như là một dự án trong lớp - một nỗ lực tái tạo loại hình mỹ thuật thời xưa. Thầy giáo của Alyssa quả thật rất ấn tượng. Ông ta đã cho lắp đặt ‘tác phẩm nghệ thuật của Alyssa’ ngoài sân nhỏ bên ngoài lớp học của mình. Các đường nét điêu khắc thể hiện những người chịu tang trong tang lễ, là những hình ảnh mà tôi nghĩ là rất phù hợp với bố cục nhà trường.
Trụ đá không phải là một tác phẩm nghệ thuật quan trọng hay đầy quyền lực gì, nhưng tất cả các di vật Ai Cập thời cổ đại đều ít nhiều có quyền lực gì đấy, như là nguồn pin năng lượng pháp thuật. Kết hợp với sự huấn luyện thích hợp, một pháp sư có thể sử dụng các di vật ấy để khởi động nóng những lời bùa chú mà nếu không có các di vật ấy thì sẽ không thể thực hiện được, như là lời chú mở cổng.
Tôi khá thành thục loại hình pháp thuật này. Leonid canh chừng cho tôi khi tôi bắt đầu lầm rầm đọc.
Đa phần các pháp sư thường chờ đến những ‘thời khắc chín muồi’ rồi mới mở cổng. Họ bỏ ra hàng năm trời để nhớ nằm lòng thời gian biểu của những lễ kỷ niệm đáng nhớ như là ngày mỗi vị thần được sinh ra, sự liên kết giữa các vì sao và đủ thứ linh tinh khác. Tôi biết là lẽ ra mình phải để tâm đến những điều như thế, nhưng tôi lại không. Căn cứ vào bao nhiêu nghìn năm lịch sử Ai Cập, có quá nhiều những thời khắc chín muồi nên tôi đơn thuần là cứ lầm rầm đọc chú cho đến khi tôi tìm ra được một ngày. Tất nhiên, tôi phải hy vọng rằng cánh cổng của tôi không mở ra vào thời khắc không chín muồi. Như thế có thể gây ra đủ thứ phản ứng phụ ác nghiệt - nhưng nếu không chấp nhận vài rủi ro thì cuộc đời có là gì được chứ?
"Carter đang vừa lắc đầu vừa lẩm bẩm. Tôi chẳng rõ vì sao."
Không khí trước mắt chúng tôi gợn lăn tăn. Một lối vào cửa chuyển động vòng quanh xuất hiện - là một cuộn cát vàng lốc xoáy - thế là tôi cùng Leonid nhảy qua.
Tôi những muốn nói rằng lời chú của mình đã có tác dụng hoàn hảo và chúng tôi đã đi được đến Vùng 1. Buồn thay, tôi có hơi chút trật chìa.
Chiếc cổng thô bạo khạc chúng tôi ra bên trên thành phố Cairo chừng vài trăm mét. Tôi thấy mình đang rơi tự do qua khí trời đêm mát lạnh rớt xuống ánh đèn thành phố bên dưới.
Tôi không hoảng loạn. Tôi đã có thể đưa ra bất cứ một đống lời chú nào để thoát khỏi tình huống này đấy chứ. Tôi đã có thể biến thành hình dạng một con diều hâu (loại chim săn mồi ấy, chứ không phải cái loại có dây buộc đâu), mặc cho đấy không phải là cách thức di chuyển yêu thích của tôi. Trước khi tôi kịp xem kế hoạch hành động là gì thì Leonid đã chộp lấy tay tôi.
Hướng gió thay đổi. Bỗng nhiên chúng tôi lại đanh trượt qua thành phố hạ xuống một cách có điều tiết. Chúng tôi hạ cánh nhẹ nhàng xuống vùng sa mạc ngay ngoài phạm vi thành phố gần một cụm những tàn tích mà dựa trên kinh nghiệm thì tôi biết ngay nơi này che giấu lối vào Vùng Một.
Tôi kinh ngạc nhìn Leonid. “Cậu vừa gọi đến quyền năng của thần Shu!”
“Shu,” Leonid quả quyết nói. “Phải. Khi cần thiết. Tôi có làm... bị cấm.”
Tôi mìm cười rạng rỡ. “Cậu thông minh quá! Cậu tự học lấy con đường của các thần à? Tôi biết phải có lý do vì sao tôi đã không biến cậu thành con sên vàng mà.”
Hai mắt Leonid mở lớn. “Đừng thành sên vàng! Làm ơn!”
“Là lời khen đấy, ngốc ạ,” tôi bảo. “Bị cấm là tốt! Sadie thích mấy trò cấm đoán lắm! Nào, ta đi thôi. Cậu cần phải gặp chú tôi.”
Chắc chắn Carter sẽ mô tả thành phố ngầm tới tận cùng chi tiết, với kích thước chính xác của từng phòng, lịch sử chán ngắt của từng pho tượng hay mỗi chữ tượng hình, cùng những ghi chú bối cảnh về sự xây dựng các trung tâm đầu não pháp thuật của Ngôi Nhà Sự Sống.
Tôi sẽ tha cho các bạn cái sự khổ sở ấy.
Nơi đây to lớn. Đầy pháp thuật. Nằm dưới đất.
Tận cùng đáy của đường hầm lối vào, chúng tôi băng qua một cây cầu đá chạy qua một khe nứt, nơi đây tôi bị Ba đưa ra lời thử thách. Linh hồn con chim sặc sỡ (mang đầu của một nhân vật Ai Cập nổi tiếng mà lẽ ra tôi phải biết) hỏi tôi một câu hỏi: màu mắt của Anubis là màu gì?
Màu nâu. Duh. Tôi tưởng anh này đang gài bẫy tôi bằng một câu hỏi dễ ợt.
Ba để cho chúng tôi đi qua vào trong chính thành phố. Sáu tháng rồi tôi chưa hề ghé thăm, nên tôi thấy lo làm sao khi thấy có quá ít pháp sư lai vãng. Vùng 1 chưa khi nào đông đúc cả. Pháp thuật Ai Cập đã héo mòn qua hàng bao thế kỷ khi ngày càng ít những học viên vỡ lòng trẻ tuổi chịu học lấy môn nghệ thuật này. Nhưng giờ đây đa số các cửa hàng trong hang chính đều đóng cửa. Nơi các gian hàng trong chợ, không có ai đang mặc cả về giá cả của các ankhs hay nọc bò cạp. Một người bán bùa hộ mạng với khuôn mặt chán chường chõ mắt nhìn lên khi chúng tôi tiến đến gần, rồi ngồi sụm xuống khi chúng tôi đi qua.
Tiếng bước chân của chúng tôi vang vọng qua các đường hầm im ắng. Chúng tôi băng qua một trong những dòng sông ngầm, rồi len lỏi băng qua góc phố thư viện và Căn phòng chim.
"Carter bảo tôi phải nói cho các bạn biết vì sao căn phòng lại được gọi như vậy. Đấy là một cái hang đủ các loại chim. Lại nữa - dud. Này Carter, sao anh lại đang đập đầu vào bàn vậy?)"
Tôi dẫn người bạn Nga của mình đi xuống một lối hành lang dài, đi qua một đường hầm được phong kín từng một thời dẫn đến bức tượng Nhân sư lớn ở Giza, rồi cuối cùng là đến hai cánh cửa đồng của Sảnh đường thời đại. Còn giờ thì đấy là sảnh đường của chú tôi rồi, nên tôi đi thẳng vào.
Một nơi ấn tượng? Chắc chắn rồi. Nếu bạn đổ đầy nước vào nơi này, sảnh đường sẽ to lớn đủ để chứa một đàn cá voi. Chạy dọc xuống giữa sảnh là một tấm thảm dài màu xanh lấp lánh như dòng sông Nile. Dọc 2 bên bờ là hàng dọc những cột, giữa những cột ấy là những tấm màn ánh sáng lóng lánh phô diễn những cảnh tượng từ quá khứ của Ai Cập - đủ loại sự kiện kinh hoàng, kỳ diệu lẫn đau thương.
Tôi cố không nhìn vào những cảnh tượng ấy. Tôi biết được theo kinh nghiệm mình rằng các hình ảnh này có thể thu hút tâm trí tới mức nguy hiểm. Có lần tôi đã phạm sai lầm khi đưa tay chạm vào ánh sáng, và kinh nghiệm lần ấy đã xém chút biến óc tôi nhão ra như cháo yến mạch.
Phần ánh sáng đầu tiên là vàng - Thời đại của các thần. Dọc theo sau đấy, thời Cổ Đại lấp lánh ánh bạc, rồi thời Trung Cổ màu nâu đồng, vân vân và vân vân.
Lắm lần trong lúc chúng tôi bước đi, tôi phải kéo Leonid ra khỏi những cảnh tượng bắt mắt cậu ta. Nói thật lòng thì, tôi cũng chẳng khá hơn mấy.
Mắt tôi rớm lệ khi tôi nhìn thấy cảnh Bes giải khuây cho các thần khác bằng việc quấn khố lộn mèo. (Tôi khóc vì tôi nhớ nhìn thấy ông ấy tràn trề sức sống đến vậy, ý tôi là, mặc cho nội hình ảnh Bes quấn khố không thôi cũng đủ để khiến cho mắt bất kỳ ai cũng phải cay xè rồi.)
Chúng tôi băng qua bức màn ánh sáng màu đồng của kỳ Tân Cổ. Tôi bỗng dừng phắt lại. Trong làn ảo ảnh biến chuyển kia, một người đàn ông ốm o khoác áo chùng thầy tu giơ cây đũa phép cùng con dao lên trên con bò mộng màu đen. Người đàn ông đang lầm rầm như thể đang ban phước cho con bò. Tôi không thể nhận biết được gì nhiều từ cảnh tượng này, nhưng tôi nhận ra gương mặt người đàn ông ấy - chiếc mũi khoằm, vầng trán cao, môi mỏng dính nhếch lên thành nụ cười quỷ quyệt khi ông ta rọc dao qua cổ con thú đáng thương.
“Chính là ông ta,” tôi lẩm bẩm.
Tôi bước về phía bức màn ánh sáng.
“Nyet.” Leonid chộp lấy tay tôi. “Cô bảo tôi ánh sáng là không tốt, tránh xa ra.”
“Cậu - cậu nói phải,” tôi đáp. “Nhưng đây là chú Vinnie.”
Tôi chắc chắn đấy chính là gương mặt đã xuất hiện trên bức tượng viện bảo tàng Dallas, nhưng sao lại có thể thế được? Cảnh tượng tôi vừa trông thấy kia hắn đã phải xảy ra từ hàng nghìn năm trước.
“Không phải Vinnie,” Leonid bảo. “Khaemwaset.”
“Gì chứ?” tôi không chắc là mình có nghe đúng lời Leonid nói không, hay thậm chí là cậu ta nói bằng thứ ngôn ngữ gì. “Đấy là một cái tên à?”
“Hắn ta là...” Leonid chuyển sang tiếng Nga, đoạn thở dài bực dọc. “Giải thích khó quá. Chúng ta đi gặp Amos đi, ông ta sẽ không ăn nát mặt tôi.”
Tôi ép mình rời mắt khỏi hình ảnh kia. “Ý kiến hay đấy. Ta đi tiếp thôi nào.”
Đến cuối sảnh đường, những bức màn ánh sáng màu đỏ đại diện cho thời đại Tân Kỳ chuyển thành màu tím thẫm. Điều này được cho là để đánh dấu sự khởi đầu của một thời đại, dù không ai trong chúng tôi biết đấy sẽ là thời kỳ gì. Nếu Apophis hủy diệt thế giới này, thì tôi đoán đấy sẽ là thời kỳ của Những mảnh đời cực kỳ ngắn ngủi.
Tôi những tưởng sẽ được nhìn thấy chú Amos ngồi dưới chân ngai vàng của pharaoh. Đấy là vị trí truyền thống cho Đại Pháp Sư, biểu trưng cho vai trò của chú là quân sư chính yếu cho pharaoh. Dĩ nhiên, thời nay các pharaoh hiếm khi cần đến quân sư làm gì, vì họ đã chết cả mấy ngàn năm nay rồi.
Việc này làm tôi bối rối. Tôi chưa khi nào suy nghĩ đến nơi mà Đại Pháp Sư sẽ đến giải khuây khi không phải ra mặt. Chú ấy có phòng thay đồ riêng không nhỉ, có thể có cả tên chú cùng ngôi sao be bé trên cửa ấy?
“Kia kìa.” Leonid chỉ tay.
Một lần nữa, người bạn Nga thông minh của tôi lại đúng. Nơi bức tường hậu, phía sau ngai vàng, là một đường ánh sáng mờ mờ chiếu dọc sàn nhà - mép dưới của một cánh cửa.
“Một lối vào bí mật kỳ quái,” tôi bảo. “Giỏi lắm Leonid.”
Bên kia cánh cửa, chúng tôi tìm thấy một căn phòng kiểu như phòng hoạch định quân sự. Amos và một cô gái trẻ mặc quần áo rằn ri đang đứng ở 2 đầu đối diện của chiếc bạn lớn có khắc tấm bản đồ thế giới đầy màu sắc. Mặt bàn đặt chi chít những bức tượng bé xíu - những con thuyền được sơn màu, các loại quái vật, pháp sư, xe hơi và những chỗ đánh dấu bằng chữ tượng hình.
Chú Amos cùng cô gái mặc đồ rằn ri đang quá chăm chú vào công việc của họ, di chuyển các bức tượng quanh bản đồ, đến nỗi thoạt đầu cả hai người đều không để ý đến chúng tôi.
Chú Amos đang vận chiếc áo thụng vải lanh truyền thống. Với thân hình thùng phuy của chú, chiếc áo thụng trông hơi giống như nhân vật thầy tu Tuck, trừ việc chú có màu da ngăm hơn cùng mái tóc kiểu cách hơn. Những lọn tóc bện của chú được trang trí với những hạt cườm bằng vàng. Chiếc mục kính tròn xoe của chú lóe lên khi nghiên cứu tấm bản đồ. Đắp qua vai chú là tấm áo choàng cộc tay bằng da báo của vị Pháp sư trưởng.
Còn về cô gái trẻ kia... ôi trời đất thành thần Ai Cập ôi. Là Zia.
Trước đây tôi chưa từng trông thấy cô ta ăn mặc quần áo tân thời. Zia mặc quần thụng rằn ri, mang bốt leo núi và áo phông màu ô liu tôn lên màu da đồng hun của mình. Mái tóc đen của cô ta dài hơn tôi từng nhớ. Zia trông trưởng thành và xinh đẹp hơn nhiều so với 6 tháng trước làm tôi mừng là Carter đã không đi theo cùng tôi. Chắc hẳn anh ấy sẽ vất vả lắm mới ngậm lại được cái hàm rớt thõng xuống sàn mất.
"Phải đấy, chắc hẳn là thế thôi, Carter à. Zia trông rạng ngời, theo cái kiểu đẹp như lính chiến ấy."
Chú Amos dịch chuyển một trong mấy bức tượng ngang qua bản đồ. “Đây này,” chú nói với Zia.
“Cũng được,” Zia đáp. “Nhưng như thế lại để cho Paris không được phòng thủ.”
Tôi hắng giọng. “Bọn cháu có phá ngang không đây?”
Chú Amos quay lại nở nụ cười toe. “Sadie!”
Chú ôm nghiến lấy tôi, rồi âu yếm xoa xoa đầu tôi.
“Oái,” tôi la lên.
Chú chậc lưỡi. “Chú xin lỗi. Chỉ là gặp lại cháu thì vui quá.” Chú liếc sang Leonid. “Còn đây là -”
Zia buột miệng rủa. Cô nàng xen vào chắn ngang giữa chú Amos và Leonid. “Hắn là một trong mấy tên người Nga! Sao hắn lại ở đây chứ?”
“Bình tĩnh lại nào,” tôi nói với Zia. “Cậu ấy là bạn mà.”
Tôi giải thích về sự xuất hiện của Leonid trong buổi khiêu vũ. Leonid cũng cố phụ giúp, nhưng cậu ta cứ mãi phải quay lại nói bằng tiếng Nga.
“Chờ đã,” chú Amos bảo. “Hãy cùng làm cho chuyện này được dễ dàng hơn nào.”
Chú chạm vào trán Leonid. “Med - wah”
Trên khoảng không trên đầu chúng tôi, chữ tượng hình cho từ Nói cháy lên đỏ rực:
“Rồi đấy,” chú Amos nói. “Như thế hẳn có ích rồi.”
Hai chân mày của Leonid nhướn cao. “Ông nói tiếng Nga ư?”
Chú Amos mỉm cười. “Thật ra thì trong vài phút tới đây tất cả chúng ta đều sẽ nói tiếng Ai Cập cổ, nhưng tiếng ấy sẽ nghe như tiếng mẹ đẻ cho mỗi chúng ta.”
“Quá đỉnh,” tôi nói. “Leonid này, tốt nhất cậu nên tận dụng triệt để thời gian của mình đi nhé.”
Leonid lột chiếc mũ lính của mình ra mà mân mê vành mũ. “Sarad Jacobi và tay trung úy của ả, Kwai ấy... bọn chúng có ý định tấn công ông.”
“Chúng tôi biết rồi,” chú Amos lãnh đạm bảo.
“Không, các người không hiểu đâu!” giọng Leonid run rẩy vì sợ. “Bọn chúng rất tàn ác! Chúng đang hợp tác với Apophis đấy!”
Có lẽ đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng khi Leonid nói lên cái tên ấy, nhiều bức tượng trên tấm bản đồi thế giới tóe lửa ra rồi tan chảy. Tim tôi cũng cảm giác tương tự thế.
“Hượm nào,” tôi nói. “Leonid, làm sao cậu lại biết chuyện này?”
Hai tai cậu ta ửng hồng. “Sau cái chết của Menshikhôngv, Jacobi và Kwai đến quận chúng tôi. Chúng tôi đã cho chúng tá túc. Chẳng mấy chốc Jacobi chiếm cứ hết, nhưng những đồng chí của tôi không phản đối gì. Họ, à, họ rất ghét gia đình Kane.” Leonid nhìn tôi vẻ tội lỗi. “Sau mùa xuân rồi khi các người đột nhập vào đầu não của chúng tôi ấy... ừ thì, những người Nga đổ lỗi cho các người về cái chết của Menshikhôngv cũng như sự trỗi dậy của Apophis. Họ đổ tất cả tội lỗi cho các người.”
“Quá quen với chuyện này rồi,” tôi nói. “Cậu không cùng cảm thấy thế sao?”
Leonid vày vò chiếc mũ quá khổ của mình. “Tôi đã nhìn thấy năng lực của cô. Cô đã đánh bại con quái vật tjesu-heru. Lẽ ra cô cũng đã có thể tiêu diệt tôi, nhưng cô đã không làm vậy. Cô có vẻ không phải ác độc gì.”
“Cám ơn đã nói vậy nhé.”
“Sau khi chúng ta chạm trán, tôi trở nên hiếu kỳ. Tôi bắt đầu đọc những văn kiện xưa, học cách triệu vận quyền năng của thần Shu. Trước nay tôi vẫn luôn là kẻ thông thạo về không khí cơ mà.”
Chú Amos càu nhàu. “Việc đấy cần đến lòng can đảm đấy, Leonid. Tự mình thám hiểm lấy con đường của các thần ngay giữa lòng quận Nga sao? Cậu gan thật.”
“Cháu liều mạng thì có.” Trán Leonid đẫm mồ hôi. “Jacobi từng hạ sát các pháp sư vì những tội còn nhẹ hơn nhiều kia. Một trong những người bạn của cháu, một ông lão có tên là Mikhail, có lần từng phạm lỗi khi bảo rằng có thể không phải ai ai trong gia đình Kane cũng là xấu cả. Jacobi đã cho bắt ông ấy vì tội phản quốc. Ả ta giao ông ấy cho Kwai, hắn sử dụng pháp thuật với tia chớp... chuyện kinh khủng lắm. Cháu nghe thấy Mikhail gào thét trong ngục thất những ba đêm trước khi ông ấy chết hẳn.”
Chú Amos và Zia nghiêm trọng nhìn nhau. Tôi có cảm giác đây không phải là lần đầu tiên hai người này từng nghe đến các phương thức tra tấn của gã Kwai.
“Ta rất lấy làm tiếc,” chú Amos bảo. “Nhưng làm sao cậu lại đoán chắc là Jacobi và Kwai đang làm việc cho Apophis vậy?”
Cậu thanh niên người Nga liếc sang tôi để được vững dạ.
“Cậu có thể tin tưởng chú Amos,” tôi hứa. “Chú ấy sẽ bảo vệ cho cậu.”
Leonid bặm môi. “Ngày hôm qua cháu đang ở trong một trong mấy căn phòng sâu dưới lòng Hermitage, nơi mà cháu tưởng là bí mật lắm. Cháu đang nghiên cứu văn kiện để triệu gọi thần Shu - một loại pháp thuật bị cấm đoán gắt gao. Cháu nghe thấy Jacobi cùng Kwai đi đến, nên cháu trốn đi. Cháu nghe lỏm 2 tên ấy trò chuyện, nhưng giọng của chúng rất... rời rạc. Cháu không biết phải giải thích thế nào đây.”
“Chúng đang bị ám à?” Zia hỏi.
“Còn tệ hơn cơ,” Leonid đáp. “Mỗi tên bọn chúng vận triệu cả tá giọng. Nghe như một hội đồng nghị sự chiến tranh ấy. Tôi nghe thấy rất nhiều quái vật lẫn quỷ sứ. Và chủ tọa cho cuộc nghị sự ấy là một giọng nói, trầm khàn và hùng mạnh hơn những giọng còn lại nhiều. Tôi chưa khi nào nghe thấy thứ gì như thế, như thể là bóng tối có thể trò chuyện được vậy.”
“Apophis,” chú Amos bảo.
Leonid đã tái xanh tái xám. “Mong ông hiểu cho, đa số các pháp sư ở St Petersburg, họ không phải là kẻ xấu. Họ chỉ quá sợ hãi và tuyệt vọng muốn được sống sót. Jacobi đã thuyết phục họ rằng ả ta sẽ cứu lấy họ. Ả đã làm họ hiểu sai bằng những lời dối trá. Ả bảo rằng dòng họ Kane là quỷ dữ. Nhưng còn ả với Kwai thì... chúng mới là quái vật. Không còn là con người nữa rồi. Chúng đã dựng trại tại Abu Simbel. Từ đấy, chúng sẽ cầm đầu quân phiến loạn tấn công Vùng 1.”
Chú Amos quay nhìn vào bản đồ. Chú lăn ngón tay về phía nam dọc theo sông Nile đến một hồ nước nhỏ. “Ta chẳng cảm nhận được gì tại Abu Simpel cả. Nếu bọn chúng đang ở đấy, thì chúng đã tìm được cách ẩn mình an toàn khỏi pháp thuật của ta rồi.”
“Chúng đang ở đấy ạ,” Leonid hứa.
Zia cau mày. “Ngay dưới mũi chúng ta, trong phạm vi tấn công dễ dàng vậy sao. Lẽ ra chúng ta đã phải giết sạch đám phiến quân tại nhà Brooklyn khi chúng ta còn có dịp ấy.”
Chú Amos lắc đầu. “Chúng ta là những kẻ phục vụ cho thế giới Ma’at - cho trật tự và công lý. Chúng ta không tàn sát kẻ thù vì những gì chúng có thể ra tay trong tương lai.”
“Để rồi giờ đây kẻ thù của chúng ta sẽ tàn sát chúng ta,” Zia bảo.
Trên bản đồ trên bàn, hai bức tượng nữa lại tóe ra lửa rồi tan chảy tại Tây Ban Nha. Một mô hình thuyền thu nhỏ vỡ tan tành ngoài khơi Nhật Bản.
Chú chọn lấy một bức tượng rắn hổ mang từ Hàn Quốc rồi đẩy nó về phía xác tàu. Chú quét sạch hết những tay pháp sư bị tan chảy khỏi Tây Ban Nha.
“Bản đồ kia là gì thế ạ?” tôi hỏi.
Zia dịch chuyển một đồng keng mang chữ tượng hình từ Đức sang Pháp. “Bản đồ chiến tranh của Iskandar. Như có lần chị từng bảo với em, ông ấy là chuyên gia về pháp thuật làm tượng.”
Tôi nhớ chứ. Vị Đại Pháp Sư lúc trước đã giỏi đến mức làm ra cả một phiên bản của chính Zia kia mà... nhưng tôi quyết định không đề cập đến chuyện này.
“Những đồng keng kia biểu trưng cho các lực lượng thực thụ à,” tôi đoán.
“Phải,” chú Amos đáp. “Bản đồ này cho chúng ta thấy các hoạt động của quân thù, ít ra là của đa số bọn chúng. Nó cũng cho phép chúng ta điều quân của mình bằng pháp thuật đi đến những nơi cần đến.”
“À, ừm, chúng ta chiến đấu thế nào rồi ạ?”
Vẻ mặt của chú đã cho tôi biết tỏng những gì cần biết.
“Chúng ta dàn quân quá mỏng,” chú Amos đáp. “Đám theo phe Jacobi tấn công vào bất cứ chỗ nào mà chúng ta suy yếu nhất. Apophis phái đám quỷ sứ của hắn đến khủng bố những đồng minh của ta. Các vụ tấn công dường như được phối hợp với nhau.”
Vì quả đúng là thế,” Leonid bảo. ”Jacobi và Kwai đang bị con rắn khống chế.”
Tôi lắc đầu không tin nổi. “Sao Jacobi và Kwai lại ngu ngốc được đến thế? Chúng không hiểu là Apophis sẽ tiêu diệt cả thế giới này ư?”
“Sự hỗn loạn có sức hấp dẫn ghê lắm,” chú Amos bảo. “Chắc chắn là Apophis đã đưa ra hứa hẹn về quyền lực cho bọn chúng. Hắn thì thầm vào tai chúng, thuyết phục rằng chúng rất quan trọng không thể nào bị tiêu diệt được. Chúng tin tưởng có thể tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn thế giới cũ, và sự thay đổi ấy xứng đáng bằng bất cứ giá nào - thậm chí là bằng cả sự hủy diệt hàng loạt.”
Tôi chẳng hiểu được có bao nhiêu kẻ lại có thể hoang đường đến thế, nhưng chú Amos nói ra như thể chú đã thấu hiểu rồi. Lẽ đương nhiên, chú Amos từng kinh qua chuyện này. Chú từng bị Set, vị thần của cái Ác và Hỗn Mang nhập vào. So ra với Apophis, Set chỉ là một sự khó chịu nho nhỏ, nhưng ông ta vẫn có thể biến chú tôi - một trong những pháp sư cao tay nhất trên thế giới - thành một con rối vô dụng. Nếu tôi và Carter đã không đánh bại Set mà buộc ông ta quay trở lại Cõi Âm thì... thôi, hậu quả chắc chắn sẽ không được đẹp đẽ gì cho lắm.
Zia nhặt một tượng chim ưng lên. Cô ta di chuyển tượng về phái Abu Simpel, nhưng rồi pho tượng nhỏ bé bắt đầu bốc hơi. Zia buộc phải thả tượng xuống.
“Chúng đã dựng lên những phân khu kiên cố,” Zia bảo. “Chúng ta sẽ không thể nghe lỏm được.”
“Bọn chúng sẽ tấn công trong 3 ngày nữa,” Leonid nói. “Cùng lúc ấy, Apophis sẽ trỗi dậy - vào rạng sáng ngày thu phân.”
“Lại là thu phân nữa à?” tôi càu nhàu. “Chẳng phải cái vụ đáng ghét vừa rồi kia cũng xảy ra một trong mấy ngày đó đấy sao? Mấy người Ai Cập các người thật là mang một nỗi ám ảnh không lành mạnh với mấy ngày nhật phân ấy quá.”
Chú Amos nghiêm khắc nhìn tôi. “Này Sadie, theo như chú biết rõ là cháu cũng ý thức được, rằng lúc nhật phân là thời điểm có ý nghĩa quan trọng với pháp thuật cao siêu, khi ngày và đêm dài như nhau ấy. Vả lại, thu phân là ngày đánh dấu ngày cuối cùng trước khi bóng tối tranh phần ánh sáng. Là ngày kỉ niệm thần Ra lui về thiên đường. Chú e là Apophis có thể ra tay vào lúc ấy. Đấy là ngày xui xẻo nhất mà.”
“Xui xẻo ư?” tôi cau mày. “Nhưng xui xẻo là không tốt. Tại sao bọn chúng lại... ồ.”
Tôi nhận ra đối với các thế lực của Hỗn Mang, những ngày xấu cho chúng tôi hẳn phải là những ngày tốt cho bọn chúng. Như thế có nghĩa là bọn chúng chắc chắn có rất nhiều ngày tốt rồi đây.
Chú Amos tì người lên trượng. Mái tóc của chú dường như chuyển bạc ngay trước mắt tôi. Tôi nhớ đến Michael Desjardins, vị Đại Pháp Sư sau cùng, và ông ấy đã già đi nhanh đến mức nào. Tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ rằng chuyện này lại đang xảy đến với chú Amos.
“Chúng ta không đủ tiềm lực để đánh bại các kẻ thù của chúng ta,” chú nói. “Ta sẽ phải dùng đến những phương thức khác thôi.”
“Amos, đừng,” Zia thốt lên. “Xin đừng.”
Tôi không rõ 2 người này đang nói đến chuyện gì. Zia nghe có vẻ kinh hoàng, mà bất cứ thứ gì làm cô này sợ thì tôi chẳng muốn biết đến làm gì đâu.
“Thật ra thì,” tôi lên tiếng, “Carter và cháu có kế hoạch này ạ.”
Tôi kể cho mọi người về ý định sử dụng chính bóng của Apophis để chống lại hắn. Có lẽ nói ra việc này trước mặt Leonid là bất cẩn đấy, nhưng cậu ta liều cả mạng sống để đến cảnh báo cho chúng tôi về các kế hoạch của Sarah Jacobi cơ mà. Cậu ấy đã tin tưởng chúng tôi. Việc ít ỏi nhất tôi có thể làm là trả ơn cậu ấy.
Sau khi tôi giải thích xong, chú Amos nhìn chăm chăm vào bản đồ. “Chú chưa từng nghe đến thứ pháp thuật ấy. Mà ngay cả là có khả dĩ đi nữa -”
“Khả dĩ chứ,” tôi nằn nì. “Chứ không tại sao Apophis lại hoãn ngày tấn công Tận thế của hắn lại để có thể lần theo tiêu hủy mọi cuộn văn kiện của cái ông Setne làm gì? Apophis sợ chúng cháu sẽ tìm ra lời chú ấy và ngăn chặn hắn.”
Zia khoanh 2 tay trước ngực. “Nhưng các người không thể làm được. Em vừa nói mọi bản sao đã bị hủy hết rồi cơ mà.”
“Bọn em sẽ xin thần Thoth giúp cho,” tôi nói. “Lúc này Carter đang trên đường đến đấy. Còn giờ thì... em có chuyện này phải đi làm đây. Có thể em sẽ thử nghiệm lý thuyết của em về mấy cái bóng ấy.”
“Bằng cách nào?” chú Amos hỏi.
Tôi nói cho chú nghe điều mình đang nghĩ.
Chú trông có vẻ như muốn phản đối, nhưng hẳn là chú phải nhìn thấy vẻ bất khuất trong mắt tôi. Dầu gì thì chúng tôi cũng là họ hàng mà. Chú biết rõ dòng họ nhà Kane có thể lỳ lợm đến mức nào một khi đã quyết ý cho một điều gì đó.
“Tốt thôi,” chú nói. “Trước hết cháu phải ăn uống nghỉ ngơi đã. Cháu có thể ra đi vào bình minh. Zia này, ta muốn cô đi cùng Sadie.”
Zia trông bất ngờ. “Cháu ư? Nhưng cháu có thể... ý cháu là, làm thế có nên không ạ?”
Một lần nữa, tôi lại có cảm giác là mình đã bỏ lỡ một cuộc nói chuyện quan trọng. Chú Amos và Zia đang bạn luận về chuyện gì ấy nhỉ?
“Cô sẽ không sao đâu,” chú Amos trấn an Zia. “Sadie sẽ cần đến sự trợ giúp của cô. Và ta sẽ sắp xếp ai đó khác đến trông chừng cho Ra trong mấy ngày ấy.”
Zia trông lo lắng vô cùng, điều này không giống như cô ấy chút nào. Trong quá khứ Zia và tôi có khác biệt đấy, nhưng cô ấy chưa khi nào thiếu tự tin cả. Giờ tôi thì chút nữa đã thấy lo lắng giùm cho cô ấy.
“Vui lên đi,” tôi bảo với Zia. “Sẽ dễ ợt thôi mà. Một chuyếnđi chóng vánh đến Netherworld, hồ nước rực lửa của địa ngục. Chuyện gì có thể không hay được chứ?”