10.Đem Con Gái Đi Theo Đến Nơi Làm Việc Hỏng Bét Cả.
KHI CON THUYỀN BƠI VÀO CẬP BẾN, Carter và Walt vẫy tay gọi chúng tôi từ mũi con tàu Nữ hoàng Ai Cập. Đứng cạnh họ là thuyền trưởng Lưỡi Rìu Vấy Máu, trông khá đỏm dáng trong bộ đồ hoa tiêu lái tàu sông, chỉ có điều, cái đầu hắn là chiếc rìu hai lưỡi vấy máu.
"Đó là một con quỷ." Zia thốt lên đầy lo lắng.
"Đúng" tôi đồng ý.
"Liệu có an toàn không?"
Tôi nhướn mày nhìn Zia.
"Tất nhiên là không," cô thì thầm. "Mình sắp đi chung với anh em nhà Kane mà."
Thủy thủ đoàn là những quả cầu sáng rực đang lượn vèo vèo chung quanh con tàu, tất bật kéo dây và hạ ván cầu.
Carter trông có vẻ mệt mỏi. Anh mặc quần jean, áo sơ mi nhàu nát với vài vệt nước sốt thịt nướng rơi vãi. Tóc anh ướt sũng và nằm bẹp sang một bên, cứ như anh ngủ quên trong lúc tắm vậy.
Walt thì trông khá hơn – à, thật ra là không có thi thố ăn mặc gì ở đây đâu nhé. Anh mặc chiếc áo sơ mi không tay như thường ngày với quần thể thao, gắng gượng nở nụ cười chào tôi, dù trông dáng vẻ rõ ràng anh đang rất đau đớn. Mặt bùa sen trên cổ tôi dường như nóng lên, hay có lẽ chỉ là thân nhiệt tôi đang tăng mà thôi.
Zia và tôi bước lên ván cầu. Lưỡi Rìu Vấy Máu cúi chào, hơi làm tôi sợ vì đầu hắn có thể bổ quả dưa hấu ra làm đôi.
"Chào mừng lên tàu, cô chủ Kane." Giọng hắn sắc lạnh như kim loại, vang lên từ cạnh lưỡi rìu trước. "Xin sẵn sàng phục vụ."
"Cảm ơn," tôi đáp. "Carter, em nói chuyện với anh một chút được không?"
Tôi nắm lỗ tai kéo anh vào buồng lái.
"Ối!" anh ta càu nhàu khi tôi kéo tai anh suốt một quãng. Tôi biết làm vậy trước mặt Zia là không hay cho lắm, nhưng tôi nghĩ mình nên cho cô ta thấy cách hay nhất để trị một ông anh.
Walt và Zia theo chân chúng tôi vào phòng ăn. Như thường lệ, chiếc bàn gỗ hồng đào đã đầy ắp những đĩa thức ăn tươi mới. Đèn trần hắt ánh sáng lên mấy bức tranh vẽ các vị thần Ai Cập đầy màu sắc trên tường, sáng cả mấy cột mạ vàng và trần nhà với những đường gờ trang trí.
Tôi bỏ tay ra khỏi tai Carter rồi gầm lên, "Anh mất trí rồi sao?"
"Ôi!" anh lại kêu lên. "Em có vấn đề gì thế hử?"
"Vấn đề của em," tôi hạ giọng, "là một lần nữa anh lại triệu hồi con tàu này với tên thuyền trưởng quỷ đó, mà Bast từng cảnh báo hắn sẽ xé toác cổ họng chúng ta khi có cơ hội!"
"Hắn đang bị pháp thuật trói buộc khống chế," Carter cãi lại "Vả lại lần trước hắn cũng ổn đấy thôi."
"Bởi vì lần trước có Bast đi cùng chúng ta," tôi nhắc cho anh nhớ. "Và nếu anh nghĩ rằng em tin con quỷ mang tên Lưỡi Rìu Vấy Máu đó hơn em có thế -"
"Này các cậu," Walt ngắt lời.
Lưỡi Rìu Vấy Máu bước vào phòng ăn, cúi chiếc đầu rìu xuống dưới khung cửa. "Cậu chủ và cô chủ Kane, chuyến đi bắt đầu từ đây sẽ ngắn hơn. Chúng ta sẽ đến Sảnh phán xét trong khoảng hai mươi phút nữa."
"Cảm ơn, LRVM," Carter vừa nói vừa chà chà lỗ tai. "Chúng tôi sẽ lên boong với ông ngay."
"Tốt," con quỷ trả lời. "Vậy khi ta đến nơi, mệnh lệnh tiếp theo là gì?"
Tôi hồi hộp, hy vọng Carter đã nghĩ ra từ trước. Bast từng cảng báo chúng tôi rằng lũ quỷ cần một mệnh lệnh thật rõ ràng để có thể kiểm soát được chúng.
"Ông sẽ chờ bên ngoài khi chúng tôi vào Sảnh phát xét", Carter ra lệnh. "Khi chúng tôi trở lại, ông sẽ đưa chúng tôi đến nơi chúng tôi muốn."
"Xin tuân lệnh." Giọng điệu của Lưỡi Rìu Vấy Máu ẩn chứa chút thất vọng – hay chỉ là do tôi tưởng tượng ra?
Sau khi tên quỷ đi khỏi, Zia nhíu mày. "Carter, trong trường hợp này, tôi đồng ý với Sadie. Sao cậu có thể tin con quỷ đó chứ? Cậu lấy con tàu này ở đâu?"
"Nó thuộc về cha mẹ tôi," Carter trả lời.
Anh và tôi nhìn nhau, ngầm hiểu trả lời vậy là đủ. Cha mẹ chúng tôi đã lái con tàu này ngược sông Thames đến tháp Cleopatra's Neddle vào cái đêm mẹ tôi hy sinh khi giải thoát Bast khỏi địa ngục. Sau biến cố đó, cha tôi đã ngồi trong chính căn phòng này, đau khổ khóc thương, chỉ có Miêu thần và tên thuyền trưởng ác quỷ đó làm bạn.
Lưỡi Rìu Vấy Máu chấp nhận chúng tôi là chủ mới của hắn. Trước dây hắn cũng tuân theo mệnh lệnh của chúng tôi, nhưng không được thoải mái lắm. Tôi không hề tin hắn. Tôi không muốn ở trên con tàu này.
Nhưng mặt khác, chúng tôi cần đi đến Sảnh phán xét. Giờ đây tôi đang đói và khát, nên chắc là tôi sẽ chịu đựng được hai mươi phút trên tàu này nếu như có một chai nước ép Ribena ướp lạnh và một đĩa thịt gà nướng tandoori ăn kèm bánh naan.
Cả bốn chúng tôi ngồi vào bàn. Chúng tôi vừa ăn vừa trao đổi thông tin về các chuyến hành trình của mình. Nói thẳng ra thì, có lẽ đấy là lần hẹn hò kép gượng gạo nhất trong lịch sử. Chúng tôi không thiếu những tình huống nguy cấp khốc liệt để kể cho nhau, không khí trong phòng vô cùng căng thẳng như sương mù dày đặc xứ Cairo.
Đã nhiều tháng Carter không gặp Zia. Tôi dám chắc anh ta đang kìm không nhìn chăm chú vào cô ấy. còn Zia rõ ràng không thoải mái khi ngồi gần quá gần Carter. Cô cứ nghiêng người tránh đi, chắc chắn điều đó càng làm Carter đau lòng. Có lẽ cô lo lắng chuyện sẽ có thêm một tập phim ném cầu lửa nữa. Về phần mình, tôi thấy lâng lâng khi ngồi bên Walt, nhưng lại lo lắng cho anh ta ghê gớm. Tôi không thể quên cảnh anh bị quấn chặt trong vải ướp xác sáng rực, và tự hỏi không biết thần Anubis muốn nói gì với mình về tình trạng của Walt. Walt cố giấu, nhưng rõ ràng anh đang đau đớn dữ dội. Hai tay anh run rẩy khi lấy một mẩu bánh mì sandwich bơ đậu phộng.
Carter kể về cuộc sơ tán sắp diễn ra tại Nhà Brooklyn, hiện đang được thần Bast trông nom. Tim tôi gần như tan nát khi nghĩ đến Shelby bé nhỏ, Felix ngớ ngẩn đáng yêu, Cleo rụt rè, và tất cả những người còn lại phải ra đi bảo vệ cho Vùng Một chống lại một cuộc tấn công không cân sức. Nhưng tôi biết Carter đã đúng. Không còn lựa chọn nào khác cả.
Carter cứ mãi ngập ngừng, như thể chờ Walt đóng góp câu chuyện. Walt vẫn im lặng. Rõ ràng anh đang giấu giếm gì đấy. Bằng cách nào đó, tôi sẽ kéo Walt ra một mình mà tra hỏi chi tiết thôi.
Đáp lại, tôi kể cho Carter về chuyến đi đến Nhà an nghỉ. Tôi kể việc mình nghi ngờ chú Amos đang triệu hồi Set nhằm tăng thêm quyền năng. Zia không phủ nhận, và tin này khiến Carter không thể ngồi yên. Sau nhiều phút chửi đổng và đi tới đi lui trong phòng, cuối cùng Carter cũng bình tĩnh lại và nói, "Chúng ta không thể để việc này xảy ra. Chú ấy sẽ bị giết mất."
"Em biết," tôi đáp lại. "Nhưng cách tốt nhất để giúp chú là phải tiến lên trước."
Tôi không đề cập đến chuyện Zia bị thoáng mất trí nhớ ở nhà dưỡng lão. Với tình trạng tinh thần của Carter như hiện giờ, chuyện này có lẽ vượt quá sức chịu đựng của anh. Bù lại, tôi kể anh nghe chuyện Tawaret nói về khả năng bóng của Bes đang ở đâu.
"Tàn tích thành Sais…" Carter nhíu mày. "Anh nhớ cha có lần nói về nơi đó. Cha nói ở đó chẳng còn lại gì nhiều. Nhưng ngay cả khi có thể tìm thấy bóng ông ấy, chúng ta cũng không đủ thời gian. Chúng ta phải ngăn chặn Apophis lại."
"Em đã hứa rồi," tôi vẫn khăng khăng. "Vả lại, dù sao chúng ta cũng cần Bes. Cứ nghĩ việc này như một cuộc thử nghiệm đi. Cứu lấy bóng Bes sẽ là cơ hội cho chúng ta thực tập loại pháp thuật này trước khi đem ra thực hiện với Apophis - ừm, áp dụng ngược đấy… tất nhiên rồi. Không chừng việc này còn có thể giúp chúng ta hồi sinh thần Ra."
"Nhưng mà – "
"Cô ấy nói có lý đấy," Walt đột nhiên xen vào.
Tôi không biết ai ngạc nhiên hơn – Carter hay tôi.
"Ngay cả khi có Setne trợ giúp," Walt nói tiếp, "nhốt bóng vào tượng sẽ rất khó. Tôi nghĩ tốt hơn ta nên thử phép này trên một mục tiêu thân thiện đã. Tôi có thể chỉ cách thực hiện khi – khi tôi vẫn còn thời gian."
"Walt này," tôi nói, "xin anh đừng nói vậy chứ."
"Khi các cậu đối mặt với Apophis," Walt tiếp tục, "các cậu chỉ có duy nhất một cơ hội để thực hiện câu chú một cách đúng đắn. Vậy nên luyện tập trước vẫn tốt hơn."
Khi các cậu đối mặt với Apophis. Walt nói nghe thật bình thường, nhưng ý anh rất rõ ràng" anh sẽ không còn ở đó khi chuyện này xảy ra.
Carter đẩy miếng pizza đang ăn dở. "Chỉ là… tôi không biết làm sao chúng ta có thể kịp làm hết những việc này. Anh biết đây là nhiệm vụ cá nhân của riêng em, Sadie, nhưng mà – "
"Cô ấy phải làm," Zia nhẹ nhàng nói. "Carter, cậu cũng đã có lần đi thực hiện một nhiệm vụ riêng trong lúc tình hình đang khủng hoảng đấy thôi, đúng không? Và cậu đã thành công." Zia đặt tay mình lên tay Carter. "Đôi lúc cậu phải nghe theo con tim mình."
Trông Carter như đang cố nuốt một quả bóng golf. Trước khi anh kịp nói gì thì chuông tàu vang lên.
Chiếc loa ở góc phòng vọng ra tiếng thuyền trưởng Lưỡi Rìu Vấy Máu: "Thưa các cô các cậu, chúng ta đã đến Sảnh phán xét."
Ngôi đền màu đen như tôi vẫn nhớ. Chúng tôi từ bến tàu đi lên bậc thang, qua nhiều dãy cột đá vỏ chai dẫn vào khu vực tối tăm ảm đạm. Những cảnh tượng ghê rợn của đời sống dưới Địa ngục được khắc họa trên nền nhà và những trụ gạch bao quanh cột đá – những thiết kế đen thui trên nền đá đen tuyền. Mặc dù cách vài mét lại có một ngọn đuốc, nhưng toàn bộ không gian lại mù mịt tro bụi núi lửa khiến chúng tôi không thể nhìn xa được.
Khi chúng tôi vào sâu hơn trong đền, những giọng nói thì thầm chung quanh. Qua khóe mắt, tôi trông thấy từng nhóm linh hồn trôi qua trôi lại gian sảnh – những hình hài ma quái ngụy trang trong không khí mù khói. Vài linh hồn trôi vô định – đang khóc tỉ tê hoặc tuyệt vọng xé quần xé áo. Một số khoác tay ôm đầy cuộn giấy cói, trông có vẻ cứng rắn và quả quyết hơn, như thể đang chờ đợi điều gì.
"Những kẻ kiến nghị," Walt nói. "Họ ôm hồ sơ về trường hợp của mình, hy vọng được triệu kiến với thần Osiris. Ông ta đã đi quá lâu… chắc giờ đây tồn ứ cả đống kiến nghị rồi."
Bước chân của Walt hình như nhẹ nhàng hơn. Hai mắt anh trông có thần hơn, cơ thể ít oằn xuống vì đau hơn. Walt đang rất gần với cái chết, tôi e là chuyến đi xuống Địa ngục sẽ thật vất vả cho anh, nhưng anh chỉ có vẻ thoải mái hơn mấy đứa chúng tôi thôi.
"Sao anh biết?" tôi hỏi.
Walt do dự. "Anh không chắc. Chỉ là… thấy có vẻ đúng vậy thôi."
"Còn những linh hồn không ôm giấy thì sao?"
"Những kẻ tị nạn. Họ hy vọng nơi này sẽ bảo vệ họ."
Tôi không hỏi là bảo vệ khỏi cái gì. Tôi nhớ đến hồn ma trong buổi khiêu vũ tại Học viện Brooklyn, bị nhận chìm trong một mớ dây leo đen và kéo vào trong lòng đất. Tôi nghĩ đến một cảnh mộng mà có lần Carter đã kể - mẹ tôi co rúm người dưới một vách đá đâu đó ở Cõi Âm, chống chọi với lực hút của bóng tối đang lôi kéo từ xa.
"Chúng ta phải nhanh lên." Tôi bắt đầu dấn tới trước, nhưng Zia kéo tay tôi lại.
"Đằng kia," Zia nói "Nhìn kìa."
Làn khói tan đi. Phía trước chừng hai mươi mét là một hàng cổng lớn bằng đá vỏ chai. Trước hàng cổng đấy, một con vật to cỡ chó săn đang ngồi xổm – một con chó rằng to dị thường với lớp lông đen dày, hai tai vểnh bông lên, còn mặt thì nửa giống cáo nửa giống sói. Đôi mắt màu ánh trăng sáng quắc trong bóng tối.
Nó gần gừ với chúng tôi, nhưng tôi vẫn không chùn bước. Có thể tôi hơi thiên vị, nhưng tôi nghĩ chó rừng cũng dễ thương và có thể ôm lấy chúng, ngay cả khi ai cũng biết chó rừng hay đào bới huyệt mộ trong lịch sử Ai Cập cổ đại.
"Là Anubis thôi mà," tôi nói với chút hy vọng. "Đây là nơi chúng tôi đã gặp anh ấy lần trước."
"Đấy không phải là Anubis," Walt cảnh báo.
"Tất nhiên là phải mà," tôi nói với Walt. "Xem này."
"Đừng, Sadie," Carter kêu lên, nhưng tôi vẫn bước tới con chó canh cửa.
"Chào Anubis," tôi gọi. "Em này, Sadie đây."
Con chó rừng lông lá dễ thương nhe nanh ra. Nó bắt đầu sùi bọt mép. Đôi mắt vàng đáng yêu rõ ràng muốn nói với tôi: Một bước nữa thôi là ta nhai đầu ngươi.
Tôi đứng phắt lại. "Phải rồi… đây không phải là thần Anubis, trừ khi anh ta đang trải qua một ngày thật tồi tệ."
"Lần trước chúng ta đã gặp anh ta ở đây," Carter nói. "Sao giờ anh ta không có đây nhỉ?"
"Đây là một trong những tay sai của anh ta," Walt đánh bạo lên tiếng. "Anubis chắc giờ… đi đâu rồi."
Một lần nữa, giọng Walt có vẻ chắc chắn vô cùng, và tim tôi đau nhói vì cảm giác ganh tỵ. Walt và thần Anubis dường như có nhiều thời gian nói chuyện với nhau hơn với tôi. Bỗng nhiên Walt trở thành chuyên gia về mọi thứ đã chết. Trong khi đó, tôi thậm chí còn không thể ở gần Anubis mà không khiến cho người coi chừng anh ấy nổi cơn thịnh nộ - thần Shu, vị thần không khí. Điều này chẳng công bằng chút nào!
Zia tiến đến cạnh tôi, nắm chặt cây quyền trượng. “Vậy giờ sao? Chúng ta có phải đánh bại nó để qua cổng không?”
Tôi tưởng tượng cảnh Zia đang ném những quả cầu lửa tiêu diệt hoa cúc của cô. Chúng tôi chỉ cần vậy thôi - một con chó rừng đang bốc cháy vừa kêu ăng ẳng vừa chạy vào sảnh xử tội của cha tôi.
“Không,” Walt vừa nói vừa tiến tới. “Nó chỉ là lính gác cửa. Nó cần biết chúng ta đến đây làm gì.”
“Walt, Carter kêu lên,” nếu cậu sai thì…”
Walt đưa tay lên và chầm chậm tiến lại gần con chó. “Ta là Walt Stone,” anh nói. “Đây là Carter và Sadie Kane. Và đây là Zia…”
“…Rashid,” Zia bổ sung.
“Chúng ta có việc cần vào Sảnh phán xét,” Walt nói tiếp.
Con chó gầm gừ, nhưng lần này có vẻ như đang dò hỏi, chứ không phải cái kiểu hằn học như muốn nhai đầu nhà ngươi nữa.
“Chúng tôi có chứng cứ muốn trình lên.” Walt tiếp tục. “Thông tin liên quan đến phiên xử Setne.”
“Walt,” Carter thì thầm, “cậu trở thành luật sư tập sự hồi nào vậy?”
Tôi suỵt anh ta im lặng. Kế hoạch của Walt có vẻ thành công. Con chó đang nghiêng đầu như đang lắng nghe, rồi nó đứng lên rồi đủng đỉnh đi vào trong bóng tối. Hai cánh cửa đá vỏ chai im lặng mở ra.
“Hay lắm Walt,” tôi nói. “Sao mà anh…”
Anh quay lại đối mặt với tôi, và tim tôi bỗng như lộn nhào. Trong thoáng chốc tôi nghĩ trông anh giống như… Không. Chỉ là cảm xúc lẫn lộn của mình đang đùa giỡn với lí trí. “Ừm, sao anh lại biết nên nói gì thế?”
Walt nhún vai. “Đoán mò thôi.”
Hai cánh cổng bắt đầu khép lại, nhanh như lú mở.
“Nhanh lên!” Carter ra lệnh. Và chúng tôi chạy vội vào phòng phán xét người chết.
Nhớ hồi khai giảng học kỳ mùa thu – cũng là lần đầu tiên tôi đi học ở một trường Mỹ - giáo viên yêu cầu chúng tôi viết ra thông tin liên lạc của phụ huynh, và họ làm nghề gì, phòng khi có thể giúp ích cho ngày hội hướng nghiệp. Tôi chưa từng nghe về ngày hội hướng nghiệp. Khi đã hiểu đó là gì, tôi không nhịn được cười.
Tôi tưởng tượng cô hiệu trưởng hỏi “Cha em có thể đến dự và chia sẻ về nghề nghiệp của ông ấy không?”
Chắc là được ạ, thưa cô Laird… Ngoại trừ việc ông ấy đã mất. À, không thật sự mất. Ông ấy giống như một vị thần được tái sinh hơn. Ông phán xét linh hồn người chết rồi đem tim của những kẻ xấu cho con quái thú cưng của mình ăn. Ồ, ông có màu da xanh. Em chắc chắn ông ấy sẽ gây ấn tượng mạnh trong ngày hội hướng nghiệp, cho những học sinh có nguyện vọng lớn lên trở thành các vị thần Ai Cập Cổ Đại ấy ạ.
Sảnh phán xét đã thay đổi nhiều so với lần trước tôi đến đây. Căn phòng như phản chiếu suy nghĩ của thần Osiris, cho nên nó thường trông như bản sao ma quái căn hộ cũ của gia đình tôi ở Los Angeles, hồi chúng tôi còn sống bên nhau hạnh phúc hơn.
Giờ này, chắc vì cha tôi đang làm việc nên trong sảnh đầy người Ai Cập. Căn phòng hình tròn với những cây cột đá chạm khắc hình hoa sen. Các lò lửa phép thuật hắt ánh sáng xanh lá và xanh dương lên tường. Ngay trung tâm căn phòng là chiếc cân công lý, với hai đĩa cân lớn bằng vàng đang cân bằng trên một thanh sắt hình chữ T.
Quỳ trước cán cân là linh hồn của một người đàn ông mặc áo vét sọc, đang đọc một cuộn giấy với vẻ hết sức sợ hãi. Tôi hiểu lý do tại sao ông ta lại căng thẳng đến vậy. Đứng một bên ông ta là con quái vật cá sấu da màu xanh lá, đầu rắn hổ mang, và thêm một cây kích đang treo lơ lửng trên đầu.
Cha tôi đang ngồi ở đầu kia căn phòng trên một cái bục vàng, với một phụ tá da xanh người Ai Cập đứng kế bên. Nhìn vào cha tôi ở dưới Cõi Âm mất phương hướng, vì ông thường xuất hiện dưới bộ dạng hai người cùng một lúc. Ở một cấp độ, trông ông bình thường như lúc còn sống – một người đàn ông đẹp trai, vạm vỡ với làn da nâu sô-cô-la, đầu nhẵn thín, chòm râu dê được tỉa tót cẩn thận. Ông mặc áo vét lụa rất thanh lịch và áo khoác đi đường sẫm màu, trông như một doanh nhân đang chuẩn bị bước lên máy bay riêng vậy.
Tuy nhiên ở một cấp độ hiện thực sâu hơn, ông là hiện thân của Osiris, vị thần cai quản Địa ngục. Ông ăn mặc như một pharaoh khi mang giày sandal, với chiếc váy bằng vải lanh thêu, đeo một xâu chuỗi bằng vàng và san hô trước ngực. Da ông xanh ngắt như bầu trời mùa hạ. Nằm ngang trong lòng ông là cây móc câu và cây néo – biểu tượng của đức vua Ai Cập.
Dù lạ lẫm là thế khi nhìn thấy ông trong màu da xanh và mặc váy, nhưng tôi vui mừng khi lại được ở bên ông, đến nỗi tôi gần như quên béng phiên tòa đang diễn ra.
"Cha!" Tôi chạy lại phía ông.
"Carter nói tôi thật ngu ngốc nhưng cha là ông vua của tòa án mà, đúng không? Sao tôi lại không được phép chạy lên chào ông chứ?"
Tôi chạy được nửa đường thì vài con rắn quỷ băng xuống cây kích và chặn đường tôi.
"Không sao đâu," Cha nói, có vẻ hơi giật mình. "Để nó qua."
Tôi sà vào lòng ông, đẩy cây gậy móc và cây néo ra.
Ông ôm tôi thật chặt, cười chậc lưỡi trìu mến. Trong thoáng chốc tôi thấy mình trở lại là cô bé con, an toàn trong tay cha. Và khi ông giữ tôi trong tay, tôi mới nhận ra trông ông rất mệt. Cha có bọng mắt. Gương mặt hốc hác. Ngay cả quầng hào quang xanh mãnh liệt của Osiris vẫn thường bao quanh ông như quầng sáng quanh một vì sao, cũng tỏa chiếu yếu ớt.
"Sadie, con yêu," ông nói với giọng mệt mỏi. "Sao con lại đến đây? Cha đang làm việc mà."
Tôi cố kìm để không chạnh lòng. "Nhưng cha ơi, việc này rất quan trọng!"
Carter, Walt và Zia cũng tiến đến gần bục. Gương mặt cha bỗng chuyển sang dữ tợn.
"Cha hiểu rồi," ông nói. "Trước hết để cha xử xong phiên tòa này đã. Mấy đứa hãy đứng sang bên phải của ta. Và làm ơn, đừng quấy rầy ta."
Người trợ lý đứng cạnh bỗng giậm chân. "Thưa ngài, điều này là không thể được!"
Ông ta trông có vẻ kỳ quái – một ông già người Ai Cập da xanh tay ôm một cuộn giấy tướng. Cơ thể quá đặc không thể nào là một hồn ma, quá xanh so với người phàm, ông này lụ khụ như thần Ra, hầu như chẳng mặc gì ngoài chiếc khố, chân mang giày sandal, đầu đội bộ tóc giải xập xệ. Tôi cho rằng mái tóc giả đen bóng loáng kia là một cách thể hiện nam tính vào thời Ai Cập cổ đại, nhưng nếu kết hợp với viền kẻ mắt đen và phấn má hồng thì ông già này trông như một kẻ đóng giả lố bịch hình ảnh nữ hoàng Cleopatra.
Cuộn giấy cói trong tay ông cực kỳ lớn. Nhiều năm trước tôi có lần tôi cùng người bạn Liz đến thăm một giáo đường Do Thái, và cuốn kinh Torah so ra vẫn còn nhỏ hơn nhiều so với cuộn giấy ông già đang ôm.
"Được rồi, Nóng Nảy," cha tôi bảo ông ta. "Chúng ta có thể tiếp tục."
"Nhưng thưa ngài –" Ông già (tên ông ta là Nóng Nảy thật sao?) trở nên kích động đến độ mất kiểm soát cuộn giấy rớt xuống và xổ tung, nảy xuống bậc thang như đang trải thảm giấy cói.
"Ôi, phiền phức, phiền phức, phiền phức quá!" Nóng Nảy chật vật cuộn mớ giấy lại.
Cha tôi cố nhịn cười. Ông quay qua hồn ma người đàn ông mặc áo kẻ sọc vẫn đang quỳ trước chiếc cân. "Xin lỗi, Robert Windham. Ngươi có thê tiếp tục lời khai."
Hồn ma cúi đầu và nói run lẩy bẩy "V…vâng, thưa Ngài Osiris."
Ông ta chúi vào tờ giấy rồi bắt đầu đọc một mạch những tội danh ông cho rằng mình không phạm phải – giết người, trộm cắp, và bán gia súc gian dối.
Tôi quay qua nói thầm với Walt, "Tay này là người thời nay, đúng không? Hắn làm gì ở tòa của Osiris thế?"
Tôi cảm thấy hơi hoang mang khi biết Walt biết câu trả lời.
"Mỗi linh hồn có quan niệm rất khác nhau về cuộc sống sau khi chết," Walt trả lời, "tùy vào việc họ tin vào cái gì. Đối với người đàn ông này thì chắc hẳn Ai Cập đã gây ấn tượng mạnh mẽ. Chắc ông ta đã đọc nhiều truyện hồi còn trẻ ấy mà."
"Còn đối với những người không tin rằng có cuộc sống sau khi chết thì sao?" tôi hỏi.
Walt nhìn tôi buồn buồn. "Thì đó là những gì họ sẽ trải nghiệm."
Phía bên kia bục, ông thần xanh Nóng Nảy suỵt chúng tôi yên lặng. Tại sao khi người lớn muốn bảo đám nhóc giữ yên lặng, thì họ luôn tạo ra âm thanh còn lớn hơn tiếng ồn mà họ đang cố ngăn lại thế nhỉ?
Hồn ma của Robert Windham có vẻ như sắp xong phần tường trình của mình. "Tôi đã không đưa lời chứng giả chống lại hàng xóm của mình. Ơ, xin lỗi, tôi không đọc được dòng cuối –"
"Cá!" Nóng nảy bực bội the thé lên. "Có bao giờ ngươi ăn trộm cá từ mấy cái hồ thiêng không?
"Tôi sống ở Kansas," hồn ma trả lời. "Nên… chưa từng."
Cha tôi đứng dậy khỏi ngai. "Tốt lắm. Hãy cân trái tim hắn."
Một con rắn quỷ nhả ra một cái gói quấn vải lanh to cỡ nắm tay đứa trẻ.
Đứng cạnh tôi, Carter hít mạnh "Trái tim ông ta nằm trong đó à?"
"Suỵt!" Nóng Nảy suỵt lớn đến nỗi bộ tóc giả gần rớt xuống đất. "Cho dẫn Kẻ Phá Hủy Linh Hồn vào đây!"
Từ bức tường cuối phòng, một cánh cửa lỗ chó bật mở. Ammit hớn ha hớn hở chạy vào. Con thú đáng thương không được cân đối cho lắm. Phần ngực sư tử thu nhỏ và đôi chi trước oai vệ và nhanh nhẩu, nhưng nửa thân sau là mông hà mã chắc mập và ít nhanh nhẹn hơn. Nó cứ trượt qua một bên, đi chệch vào hàng cột, đạp đổ mấy cái bếp than. Mỗi lần đâm sầm, nó lại lắc lưu cái bờm sư tử và chiếc mõm cá sấu, kêu lên đầy phấn khích.
"Carter mắng tôi như thường lệ. Anh nói Ammit là giống cái. Thú thật rằng tôi chẳng có cách gì chứng minh ngược lại, nhưng tôi luôn nghĩ Ammit là quái vật giống đực. Nó cứ cuống cuồng hiếu động không thể là con cái được, với lại nó đánh dấu lãnh thổ của mình theo cách… nhưng thôi, không bàn đến nữa."
"Ôi, bé cưng đây rồi!" tôi kêu lên, trong lòng mừng rỡ. "Ôi bé cưng Poochiekins của chị!"
Ammit chạy lại sà vào lòng tôi, rúc cái mõm xù xì vào tay tôi.
"Thưa ngài Osiris!" Nóng Nảy lại đánh rơi phần đuôi cuộn giấy, làm xổ ra quanh chân ông ta. "Căm phẫn quá!"
"Sadie!" Cha tôi nghiêm giọng, "không được gọi Kẻ Phá Hủy Linh Hồn là Poochiekins."
"Xin lỗi ạ," tôi nói lí nhí, và thả Ammit xuống.
Một con quỷ rắn đặt trái tim của Robert Windham lên bàn cân công lý. Tôi xem nhiều bức tranh vẽ thần Anubis làm nhiệm vụ này, và ước gì anh ấy có mặt ở đây. Chắc chắn Anubis sẽ thú vị hơn là phải nhìn mấy con rắn quỷ kia.