13.Trò Trốn Tìm Giao Hữu (Có Điểm Thưởng Là Cái Chết Đau Đớn).
EM HIỂU RỒI. KẾT THÚC CHUYỆN NGAY PHẦN CON QUỶ SÁT NHÂN ĐẦU RÌU. Đang cố khiến cho phần em kể có vẻ chán ngắt đấy hử? Carter, anh quả thật là con lợn thích được chú ý.
Này, trong lúc anh thảnh thơi lượn lờ trên dòng sông Nile bằng con thuyền được chỉ định đến phí phạm kia, thì em và Walt lại di chuyển với phương tiện kém phong cách hơn một tí.
Từ lãnh địa của người chết, tôi đánh bạo thêm một lần trao đổi với nữ thần Isis để dàn xếp cho một lối đi vào vùng châu thổ sông Nile. Isis hẳn là đã cáu tôi lắm (chẳng biết vì sao) vì bà ta bỏ chúng tôi xuống một đầm lầy ngập đến tận eo, chân cẳng chúng tôi kẹt cứng ngắc vào bùn.
“Cảm ơn nhé!” tôi hét với lên trời.
Tôi cố nhúc nhích nhưng không được. Hàng đám muỗi bu lại quanh chúng tôi. Dòng sông ùng ục những bong bóng cùng tiếng nước bắn tung tóe, khiến tôi phải nghĩ đến loài cá hổ răng nhọn cùng những phần tử thủy sinh khác mà Carter đã có lần kể cho tôi nghe.
“Có ý tưởng gì không?” tôi hỏi Walt.
Giờ đây khi đã quay trở lại thế giới con người, anh ấy chừng như mất hết sinh khí. Anh trông như... tôi cho là từ ngữ được dùng phải là trũng hoắm. Áo quần anh thùng thình hơn. Tròng mắt anh nhuốm một màu vàng khè bệnh hoạn. Hai vai anh so lại, như thể tấm bùa hộ mạng trên cổ anh đang trì níu anh xuống. Nhìn thấy anh thế này tôi chỉ muốn khóc - mà tôi không phải là đứa dễ khóc đấy nhé.
“Có,” anh đáp, lục lọi trong túi của mình. “Anh có đúng thứ mình cần.”
Anh lôi ra một shabti - một bức tượng cá sấu bằng sáp trắng.
“Ồ không phải chứ,” tôi thốt lên. “Anh thật tinh quái quá đi.”
Walt mỉm cười. Trong khoảnh khắc anh trông gần giống như lúc trước. “Mọi người đang rời bỏ Nhà Brooklyn. Anh nghĩ bỏ nó lại đấy là không phải cho lắm.”
Anh quẳng bức tượng xuống dòng sông rồi nói lên từ lệnh. Philip xứ Macedonia từ dưới nước vọt lên.
Bị một con cá sấu khổng lồ từ dòng sông Nile làm cho bất ngờ là điều mà bạn thường muốn tránh, nhưng Philip lại là một cảnh tượng đáng mừng. Nó nhe hàm răng cá sấu to tướng ra cười với tôi, đôi mắt hồng long lên lóng lánh, còn bản lưng đầy vẩy trắng nổi lên ngang mặt nước.
Walt và tôi túm chặt lấy. Trong nháy mắt, con Philip đã kéo chúng tôi ra khỏi đống bùn. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã ngồi trên lưng nó, thẳng tiến ngược dòng. Tôi cưỡi phía trước, dang hai chân quặp lấy vai con Philip. Walt ngồi phía sau ngay phần lườn Phillip. Philip quả là con cá sấu thênh thang đến nỗi giữa tôi và Walt có một khoảng cách khá lớn - có lẽ là lớn hơn tôi hằng mong muốn. Tuy nhiên chúng tôi đã có một chuyến đi dễ chịu, ngoại trừ việc bị ướt nhẹp, người đóng cứng những bùn và bị muỗi mòng vây đặc.
Quang cảnh xung quanh là một mê cung những kênh rạch, những hòn đảo mướt cỏ, lòng sông đầy lau sậy, và bãi sình. Thật vô phương nhận định đâu là nơi dòng sông kết thúc và đất liền bắt đầu. Thỉnh thoảng ở xa xa chúng tôi nhìn thấy mấy đồng ruộng được cày xới hay mái ngói của những cụm làng bé teo, nhưng chủ yếu là chỉ có chúng tôi một mình một dòng sông. Chúng tôi thấy nhiều cá sấu, nhưng tất cả chúng đều né xa khỏi chúng tôi. Chúng phải là khùng lắm mới đi làm phiền Philip.
Cũng như Carter và Zia, chúng tôi đã khởi hành khỏi Địa ngục muộn. Tôi giật mình khi thấy mặt trời đã mọc lên khá cao rồi. Cái nóng biến không khí thành một quầng sáng mờ ướt át. Áo quần tôi đã ướt sũng. Tôi ước gì mình có mang theo quần áo để thay, dù làm thế hẳn cũng không có tác khác gì lắm, vì ba-lô của tôi cũng ẩm rì. Với lại, với Walt ở đây, thì chẳng có chỗ nào mà thay quần áo được cả.
Đi được một lúc thì tôi chán ngắm nhìn vùng châu thổ. Tôi quay lại ngồi bắt chéo chân, đối diện Walt. “Nếu có chút thức ăn, chúng ta có thể nổi lửa trại trên lưng Philip được đấy.”
Walt bật cười. “Anh nghĩ nó sẽ không thích đâu. Với lại, anh không chắc là chúng ta lại muốn gửi lên khói hiệu.”
“Anh nghĩ chúng ta đang bị theo dõi à?”
Vẻ mặt Walt chuyển sang nghiêm trọng. “Nếu anh là Apophis, hay thậm chí là Sarah Jacobi...”
Anh ấy không cần phải nói nốt hết ý nghĩ đấy. Bất cứ kẻ thủ ác nào cũng muốn chúng tôi chết. Dĩ nhiên là bọn chúng đang tìm kiếm chúng tôi.
Walt lục lọi đống sưu tầm vòng cổ của mình. Tôi không chú ý khóe miệng hơi cong lên của anh ấy chút nào đâu, hay đến cái vẻ chiếc áo sơ mi dính sát vào ngực anh. Không đâu - chỉ có công việc thôi, tôi thế đấy.
Anh chọn ra một tấm bùa hộ mạng có hình con cò quăm - con vật thiêng liêng của thần Thoth. Walt thì thầm vào tấm bùa rồi tung nó lên không trung. Tấm bùa dang thành một con chim trắng tuyệt đẹp có mỏ dài khoằm khoằm cùng đôi cánh chóp lông đen. Con chim bay vòng vòng bên trên chúng tôi, quạt phần phần gió vào mặt tôi, rồi chầm chậm duyên dáng bay đi vào trên vùng đầm lầy. Hình ảnh này gợi cho tôi nhớ đến một con cò trong mấy phim hoạt hình xưa - loài chim gắp mấy mang đến trẻ con trong mấy chiếc túi buộc túm ấy. Chẳng hiểu vì cái lý do nhảm nhí nào đó mà ý nghĩ ấy làm tôi đỏ mặt.
“Anh phái nó đi thăm dò trước đấy à?” tôi đoán.
Walt gật đầu. “Nó sẽ tìm kiếm tàn tích của Sais. Hy vọng chúng ở gần đây.”
Trừ phi nữ thần Isis đã đưa chúng ta đến đầu kia vùng châu thổ, tôi thầm nhủ.
Isis không đáp lại, bằng chứng quá rõ là bà ta đang phật ý.
Chúng tôi lướt ngược dòng trên con thuyền Hãng vận thủy Cá Sấu. Thường thì tôi sẽ không cảm thấy ngượng ngịu khi có nhiều thời gian đối mặt với Walt đâu, nhưng có quá nhiều điều phải nói, mà lại chẳng có cách nào để nói cho suôn sẻ. Sáng ngày mai, ngả nào đi nữa, cuộc chiến dai dẳng của chúng tôi chống lại Apophis sẽ đến hồi kết thúc.
Tất nhiên là tôi đang lo lắng cho cả bọn. Tôi đã để Carter lại với cái hồn ma thần kinh của chú Vinnie. Tôi thậm chí đã không có đủ can đảm để nói cho anh ấy biết là Zia đôi khi lại biến thành con điên thích quẳng cầu lửa. Tôi lo lắng về chú Amos cùng cuộc đấu tranh của chú với Set. Tôi lo lắng cho những bé học viên vỡ lòng, hầu như là một thân một mình trong Vùng Một và chắc chắn là đang khiếp đảm. Tôi đau lòng cho cha tôi, phải ngồi yên trên ngai vàng trong Địa ngục mà khóc thương cho mẹ chúng tôi - lại một lần nữa - và đương nhiên là tôi sợ cho linh hồn của mẹ, đang trên bờ vực hủy hoại ở đâu đó trong Cõi Âm.
Mà trên hết, tôi đang quan ngại đến Walt. Đám còn lại bọn tôi còn có được chút cơ hội sống sót, dù là mong manh đến mấy. Nhưng ngay cả nếu chúng tôi có thắng thế, thì Walt vẫn điêu tàn. Theo lời Setne, Walt thậm chí còn không thể sống sót qua cuộc hành trình của chúng tôi đến Saïs.
Tôi không cần ai nhắc cho mình điều ấy cả. Việc tôi chỉ cần làm là hạ thấp tầm nhìn của mình vào trong Cõi Âm. Một vầng hào quang xám xịt bệnh hoạn đang xoay vờn quanh Walt, đang mỗi lúc một trở nên yếu hơn. Tôi tự hỏi, còn bao lâu nữa nhỉ thì Walt sẽ biến thành cái cảnh mộng bị quấn trong xác ướp mà tôi đã trông thấy tại Dallas ấy?
Nhưng mà này, còn có cái cảnh mộng khác kia mà tôi từng thấy tại Sảnh phán xét. Sau khi trò chuyện với tay bảo vệ chó rừng, Walt đã quay sang tôi, và chỉ trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ anh ấy là...
“Anubis muốn được đến đấy,” Walt cắt ngang suy tưởng của tôi. “Ý là, trong Sảnh phán xét ấy - anh ta muốn có mặt tại đấy vì em, nếu như đấy là điều em đang băn khoăn.”
Tôi cau có. “Em đang băn khoăn về anh đấy, Walt Stone ạ. Anh sắp hết thời gian, còn chúng ta lại không trao đổi cho đàng hoàng về chuyện này.”
Thậm chí nói ra từng ấy cũng khó khăn rồi.
Walt thả rê chân trong dòng nước. Anh đã hong giày cho khô trên đuôi Philip. Bàn chân của đám con trai không phải là thứ tôi thấy hấp dẫn, nhất là khi chúng vừa mới tháo khỏi đôi giày thể thao hết bùn. Ấy vậy mà, đôi bàn chân của Walt thật đáng yêu. Những ngón chân của anh ấy gần như có cùng màu với dòng phù Sadie cuộn xoáy trong lòng sông Nile.
(Carter đang càm ràm về mấy lời nhận xét của tôi đến bàn chân của Walt. Này, xin lỗi nhé. Tập trung vào mấy ngón chân dễ hơn là vào vẻ mặt buồn bã của anh ấy đấy!)
“Chậm nhất là tối nay,” Walt đáp. “Nhưng mà Sadie này, sẽ ổn thôi mà.”
Nỗi giận dữ cuộn lên trong tôi, khiến tôi bất ngờ.
“Thôi đi!” tôi quát. “Không có ổn tí nào sất! Ồ phải, anh từng bảo em là anh thấy cảm kích đến thế nào khi được quen biết em, được học pháp thuật tại Nhà Brooklyn, được giúp sức trong trận chiến chống lại Apophis. Nghe hay ho cao cả lắm. Nhưng không có” Giọng tôi lạc đi. “Không có ổn đâu.”
Tôi nện nắm đấm xuống cái lưng đầy vảy của Philip, làm thế thật không công bằng với con cá sấu này. Quát vào mặt Walt cũng không công bằng gì. Nhưng tôi ngấy bi kịch lắm rồi. Tôi không được kiến tạo cho sự mất mát này, cũng như cho sự hy sinh hay nỗi buồn đứt ruột nào cả. Tôi những muốn quàng tay ôm lấy Walt, nhưng giữa chúng tôi lại có một bức tường - là ý thức được rằng anh ấy sẽ chết. Cảm xúc của tôi giành cho anh thật lẫn lộn, tôi không biết liệu có phải do chỉ đơn giản là sự cuốn hút, do mặc cảm tội lỗi, hay (cả gan mà nói) là do tình yêu - hay do lòng quyết tâm bướng bỉnh không muốn mất đi thêm một ai khác nữa mà tôi quan tâm yêu mến.
“Sadie à...” Walt đưa mắt nhìn qua vùng đầm lầy. Anh trông thật vô vọng và tôi biết mình không thể trách anh ấy được. Tôi thật đang quá đáng. “Nếu anh chết vì điều mà anh đặt lòng tin vào... như thế với anh cũng ổn thôi. Nhưng cái chết không cần phải là kết thúc đâu. Lâu nay anh có trò chuyện với Anubis, và -”
“Trời đất thánh thần Ai Cập ơi, không phải lại thế chứ!” tôi nói. “Làm ơn đừng nói đến anh ta. Em biết chính xác anh ta đã nói gì với anh.”
Walt giật mình. “Em biết hả? Và... em không thích ý tưởng đó sao?”
“Tất nhiên là không!” tôi la lên.
Walt trông tiu nghỉu hết cỡ.
“Ôi, thôi đi cho!” tôi bảo. “Em biết Anubis là người hướng dẫn cho kẻ chết. Bấy lâu nay anh ta đang chuẩn bị cho anh đến kiếp sau. Anh ta sẽ bảo với anh là mọi chuyện sẽ ổn thôi. Anh sẽ chết một cái chết huy hoàng, được phán xét chớp nhoáng, rồi tiến thẳng đến Thiên đường Ai Cập Cổ Đại. Tuyệt vời bỏ xừ! Anh sẽ là một hồn ma như người mẹ đáng thương của em. Có lẽ đấy sẽ không phải là tận thế đối với anh. Nếu như vậy sẽ khiến anh thấy vui vẻ hơn về số phận của mình thì cũng tốt thôi. Nhưng em không muốn nghe đến chuyện ấy. Em không cần thêm... thêm một người nữa mà em không thể ở bên cùng.”
Mặt tôi nóng bừng. Mỗi mẹ tôi là một linh hồn đã là buồn lắm rồi. Tôi không bao giờ có thể ôm lấy bà, đi mua sắm với bà, không bao giờ nghe được lời khuyên về mấy chuyện đàn bà con gái. Buồn lắm rồi khi tôi bị chia cắt khỏi Anubis - cái vị thần đẹp rạng ngời đến điên cả người đã làm tim tôi đau thắt ấy. Tận sâu trong lòng, tôi đã luôn hiểu rằng một mối quan hệ tình cảm với anh ta là điều không thể vì khác biệt tuổi tác giữa chúng tôi - chừng năm ngàn năm chứ mấy - nhưng bị những vị thần khác ra sắc lệnh ngăn cấm anh ta chỉ làm cho vết thương thêm bị xát muối.
Giờ phải nghĩ đến Walt như một linh hồn, cũng nằm ngoài tầm với - việc ấy đơn giản là quá khả năng chịu đựng.
Tôi ngước nhìn lên anh, sợ rằng thái độ làm mình làm mẩy của tôi khiến anh cảm thấy đau buồn hơn.
Ngạc nhiên chưa, Walt lại đang nhoẻn cười. Rồi bật cười thành tiếng.
“Gì chứ?” tôi gặng hỏi.
Anh gập đôi người lại, vẫn cười ngặt nghẽo, khiến tôi thấy vô tâm quá.
“Anh thấy buồn cười lắm à?” tôi gào lên. “Walt Stone!”
“Không phải.” Anh ôm lấy hông. “Không, chỉ là... Em không hiểu rồi. Không phải như thế đâu.”
“À há, thế thì như nào nào?”
Walt đã trấn tĩnh lại. Dường như anh đang suy nghĩ cho đàng hoàng thì con cò quăm trắng của anh từ trên trời chao xuống. Nó đậu lên đầu Philip, vỗ cánh phành phạch, rồi kêu lên quang quác.
Nụ cười cua Walt tan biến. “Đến nơi rồi. Tàn tích sứ Saïs.”
Philip mang chúng tôi lên bờ. Chúng tôi xỏ giày vào rồi lội qua phần đất sình lầy. Trải dài trước mắt chúng tôi là một rừng cọ, mờ mịt trong ánh nắng ban trưa. Chim diệc bay lượn trên trời. Đám ong hai màu cam-đen vo ve chờn vờn trên đám cây cói.
Một con ong đậu xuống cánh tay của Walt. Thêm nhiều con khác lòng vòng quanh đầu anh.
Walt trông có vẻ bối rối nhiều hơn là lo ngại. “Vị nữ thần đáng ra đang sinh sống quanh đây, nữ thần Neith ấy... không phải bà ấy có liên quan gì đấy đến ong sao?”
“Chẳng rõ,” tôi thú nhận. Chẳng biết vì sa, nhưng tôi có cảm giác thôi thúc là phải nói khe khẽ.
"Đúng vậy đấy Carter. Đấy là lần đầu tiên em thấy thế. Cảm ơn anh đã hỏi."
Tôi chõ mắt nhìn qua rừng cọ. Từ xa, tôi nghĩ mình trông thấy một vùng đất trống lỗ chỗ vài cụm gạch bùn nhô lên khỏi cỏ như mấy cái răng sâu.
Tôi chỉ chúng cho Walt. “Những gì còn sót lại của một ngôi đền à?”
Hẳn Walt cũng đang cảm nhận thấy bản năng phải đi nhẹ nói khẽ như tôi. Anh ngồi xổm xuống bãi cỏ, cố làm cho bóng mình thấp xuống. Đoạn anh lo ngại liếc về phía con Philip xứ Macedonia. “Có lẽ ta không nên mang theo một con cá sấu nghìn rưỡi ký lông rông trong rừng cùng chúng ta.”
“Đồng ý,” tôi đáp.
Anh thì thầm một từ lệnh. Philip teo lại thành bức tượng sáp bé xíu. Walt bỏ con cá sấu vào túi quần, rồi chúng tôi bắt đầu len lỏi về phía khu tàn tích.
Chúng tôi càng đến gần, càng thêm nhiều ong vo ve trong không trung. Khi đến được bãi đất trống, chúng tôi tìm thấy nguyên một bầy lúc nhúc như một tấm thảm sống động trên một cụm bức tường gạch bùn đã đổ đống.
Cạnh đấy, đang ngồi trên phiến đá dãi dầu, một người phụ nữ tì mình trên chiếc cung, đang dùng mũi tên vẽ nguệch ngoạc lên đống đất bụi.
Người phụ nữ xinh đẹp đến nao lòng - mảnh mai xanh tái với gò má cao, mắt trũng sâu, chân mày cánh cung, như một cô siêu mẫu đang mấp mé trên lằn ranh giữa đẹp mê hồn và suy dinh dưỡng. Mái tóc bà ta đen nhánh, hai bên đầu bện đầu mũi tên bằng đá lửa. Vẻ mặt cao ngạo của bà ta dường như muốn nói: Ta cao quý quá nên thậm chí không thể nhìn vào các ngươi.
Nhưng mà, quần áo bà này thì không có gì là đẹp đẽ cả. Bà ta ăn vận để đi săn với loại quần áo dã chiến mang sắc màu sa mạc - màu kem, nâu, vàng đất. Đủ thứ dao mắc quanh thắt lưng, cánh cung của bà ta trông giống loại vũ khí thứ thiệt - gỗ mài bóng khắc đầy chữ tượng hình đầy quyền lực.
Mà đáng ngại hơn cả là, hình như bà ta đang chờ chúng tôi.
“Hai người ồn ào quá,” bà ta phàn nàn. “Ta đã có thể lấy mạng các ngươi cả tá lần rồi.”
Tôi liếc sang Walt, rồi nhìn lại nữ thợ săn. “Ừm... cảm ơn vậy nhé? Vì đã không giết chúng tôi ấy.”
Người phụ nữ khịt khịt mũi. “Đừng cảm ơn ta. Hai người phải hành động khéo léo hơn thế nếu còn muốn sống sót.”
Tôi chẳng thích nghe thế tí nào, nhưng nói chung thì, tôi không yêu cầu những người phụ nữ mang vũ khí đầy mình phải giải thích thêm cho những lời như vậy.
Walt chỉ vào biểu tượng mà nữ thợ săn đang vẽ ra trên đất - một hình ô van có bốn mảnh nhọn thò ra như mấy cẳng chân.
“Bà là nữ thần Neith,” Walt ướm lời. “Đó là biểu tượng của bà - tấm khiên cùng mũi tên bắn chéo.”
Nữ thần nhướn mày. “Suy nghĩ nhiều quá nhỉ? Dĩ nhiên ta là nữ thần Neith. Và phải, đây là biểu tượng của ta.”
“Trông như con bọ ấy,” tôi nói.
“Không phải bọ!” Nữ thần Neith quắc mắt. Sau lưng bà ta, đám ong trở nên kích động, bò lổn nhổn ra khỏi đống gạch bùn.
“Bà nói phải,” tôi quyết ý. “Không phải bọ.”
Walt ngoe nguẩy ngón tay như thể vừa nghĩ ra gì đấy. “Đàn ong... giờ tôi nhớ rồi. Đấy là một cái tên cho ngôi đền thờ bà - Ngôi nhà của ong.”
“Ong là những thợ săn không mệt mỏi,” nữ thần Neith nói. “Là những chiến binh không biết khiếp sợ. Ta thích ong.”
“Ư, có ai lại không thích đâu?” tôi nói. “Mấy con... vo ve be bé duyên dáng. Nhưng bà thấy đấy, chúng tôi đến đây với nhiệm vụ.”
Tôi định giải thích về Bes và bóng của ông ta.
Nữ thần Neith vẫy mũi tên chặn ngang lời tôi. “Ta biết vì sao các ngươi đến đây. Những kẻ kia đã nói cho ta biết.”
Tôi liếm môi. “Những kẻ kia à?”
“Đám pháp sư người Nga,” bà ta đáp. “Chúng là con mồi kinh khủng. Sau đấy có vài con quỷ ghé qua. Chúng cũng chả ngon lành gì hơn cho cam. Tất cả đều muốn giết các ngươi.”
Tôi nhích một bước gần hơn đến Walt. “Tôi hiểu rồi. Và thế là bà-”
“Tiêu diệt hết chúng, lẽ đương nhiên,” nữ thần Neith nói.
Walt bật ra âm thanh nửa như càu nhàu nửa như rên rỉ. “Tiêu diệt hết bọn chúng vì... chúng là bọn ác à?” anh nói đầy hy vọng. “Bà biết đám quỷ và mấy pháp sư ấy đang làm việc cho Apophis phải không nào? Là âm mưu đấy.”
“Tất nhiên đấy là âm mưu,” Neith đáp. “Tất cả bọn chúng đều dự phần trong đấy - đám người phàm, pháp sư, quỷ, bọn thu thuế. Nhưng ta phát giác ra chúng. Bất cứ kẻ nào xâm phạm lãnh địa của ta đều phải trả giá.” Bà ta nhìn tôi cười gằn. “Ta thu chiến lợi phẩm.”
Từ dưới cổ chiếc áo khoác quân đội, bà ta lôi ra chiếc vòng cổ. Tôi nhăn mặt, tưởng mình phải nhìn thấy vài món rùng rợn của những... thôi, tôi thậm chí còn không muốn nói ra. Nhưng thay vào đấy, một sợi dây căng đầy những vuông vải rách nát - vải jean, vải lanh, lụa.
“Túi quần,” Neith thổ lộ, mắt ánh lên ma mãnh.
Hai tay Walt bất giác sờ lên hai bên chiếc quần tập gym của mình. “Bà, ừm... bà lấy đi túi quần của chúng ư?”
“Cậu nghĩ tôi dã man chứ gì?” Neith hỏi. “Ồ phải, ta sưu tập túi quần của kẻ thù.”
“Kinh dị,” tôi nói. “Tôi không biết là quỷ lại có túi quần cơ đấy.”
“Ồ có chứ.” Nữ thần Neith liếc ra hai phía, rõ là muốn đảm bảo không có ai đang nghe trộm. “Cô chỉ cần phải biết nên tìm ở đâu thôi.”
“Phải nhỉ...” tôi nói. “Nhưng mà thôi này, chúng tôi đến để tìm bóng của Bes.”
“Ừ,” nữ thần đáp.
“Và tôi biết rằng bà là bạn của Bes và Tawaret.”
“Đúng thật. Ta thích họ. Họ xấu xí. Ta không nghĩ họ có phần trong âm mưu này.”
“Ô, nhất định là không rồi! Vậy bà có thể, có lẽ là, chỉ cho chúng tôi biết bóng của Bes ở đâu không?”
“Có chứ. Bóng ấy đang trú ngụ trong lãnh địa của ta - trong bóng của thời xưa cổ.”
“Trong... giờ là gì nữa đây?”
Tôi vô cùng hối hận vì đã hỏi.
Nữ thần Neith lắp tên bắn vọt lên trời. Khi mũi tên lao lên, không trung lăn tăn rúng động. Một luồng sóng xung kích lan ra khắp cảnh vật, tôi hoa mắt trong chốc lát.
Khi chớp chớp mắt, tôi thấy bầu trời ban chiều đã biến thành cao xanh ngăn ngắt hơn, sọc vằn vện trên ấy là những đám mây màu cam. Không khí sạch bong trong vắt. Từng đàn từng đàn ngỗng bay trên trời. Rừng cọ như cao hơn; cỏ xanh hơn-
"Đúng đấy Carter, em biết là nghe ngớ ngẩn lắm. Nhưng cỏ ở bên kia quả là có xanh hơn đấy."
Ở nơi từng là tàn tích bằng gạch bùn, một ngôi đền kiêu hãnh đang sừng sững đấy. Walt, nữ thần Neith và tôi đứng ngay bên ngoài mấy bức tường, tường cao mười mét và lấp lánh ánh sáng trắng chói lòa dưới mặt trời. Cả quần thể kiến trúc này hẳn phải rộng ít nhất một cây số vuông. Nửa đường đi về phía bức tường bên trái, một cánh cổng lóng lánh những hoa văn vàng chạm trổ. Một con đường hai bên là các tượng nhân sư bằng đá dẫn ra sông, nơi đấy có mấy chiếc ghe đang neo bến.
Mất phương hướng ư? Có đấy. Nhưng một lần trước tôi từng có một trải nghiệm tương tự, khi tôi chạm vào những bức màn ánh sáng trong Sảnh thời đại.
“Chúng ta đang ở trong quá khứ sao?” tôi đoán.
“Là cái bóng của quá khứ,” nữ thần Neith đáp. “Một ký ức. Đây là nơi trú ẩn của ta. Có thể là chốn chôn thân của ngươi, trừ phi ngươi sống sót qua cuộc săn.”
Tôi cứng người. “Ý bà là... bà săn chúng tôi à? Nhưng chúng tôi có phải là kẻ thù của bà đâu! Bes là bạn của bà. Bà phải nên giúp chúng tôi mới phải!”
“Sadie nói đúng đấy,” Walt lên tiếng. “Apophis mới là kẻ thù của bà. Hắn sẽ hủy diệt toàn thế giới vào sáng mai.”
Nữ thần Neith khịt mũi khinh bỉ. “Ngày tàn của thế giới ư? Ta đã lường trước chuyện này từ thời nảo rồi. Đám người trần yếu đuối các ngươi đã phớt lờ các dấu hiệu cảnh bảo, nhưng ta thì đã chuẩn bị sẵn sàng. Ta có hầm trú ẩn dưới lòng đất trữ đầy thực phẩm, nước sạch, cùng đầy đủ vũ khí quân dụng có thể cản phá nguyên đoàn quân xác chết ấy chứ.”
Walt nhíu tít mày lại. “Một quân đoàn xác chết à?”
“Biết đâu được!” nữ thần Neith gắt. “Vấn đề là, ta sẽ sống sót qua ngày tận thế. Ta có thể sinh sống ngoài đất liền!” Bà ta xỉa ngón tay vào tôi. “Ngươi có biết cây cọ có sáu phần có thể ăn được không?”
“Ưm-”
“Và ta sẽ không bao giờ bị chán,” bà ta nói tiếp, “Vì ta cũng là nữ thần đan lát. Ta có đủ chỉ xoắn cho cả một thiên niên kỷ kết macramé đấy!”
Tôi chẳng biết đáp lại thế nào, vì tôi không rõ macramé là gì cả.
Walt giơ tay. “Nữ thần này, như thế tuyệt đấy, nhưng ngày mai Apophis sẽ trỗi dậy. Hắn sẽ nuốt chửng mặt trời, nhấn chìm thế giới vào bóng tối, để cho cả trái đất tan hoang lùi vào Biển hỗn mang.”
“Ta sẽ được an toàn trong hầm trú ẩn của ta,” nữ thần Neith khăng khăng. “Nếu ngươi có thể chứng minh cho ta thấy ngươi là bạn không phải là thù, thì có lẽ ta sẽ giúp cho ngươi về chuyện Bes. Rồi ngươi có thể vào hầm trú ẩn cùng ta. Chúng ta sẽ ăn quân lương và đan quần áo mới từ những chiếc túi quần của kẻ thù!”
Walt và tôi nhìn nhau. Bà nữ thần này khùng qúa. Buồn thay là chúng tôi lại cần đến sự giúp đỡ của bà ta.
“Thế là bà muốn săn chúng tôi,” tôi nói. “Và chúng tôi phải sống sót-”
“Cho đến lúc mặt trời lặn,” bà ta đáp. “Lẩn tránh ta được chừng ấy thời gian, thì hai người có thể sống dưới hầm trú ẩn của ta.”
“Tôi có lời đề nghị đáp trả này,” tôi liến thoắng. “Không hầm trú ẩn gì cả. Nếu chúng tôi thắng, bà phải giúp chúng tôi tìm thấy bóng của Bes, nhưng bà cũng phải về phe chúng tôi chiến đấu chống lại Apophis. Nếu quả thật bà là nữ thần chiến tranh và là nữ thợ săn này nọ ấy, thì bà nên tận hưởng một trận chiến ra trò chứ.”
Nữ thần Neith cười toe toét. “Đồng ý! Thậm chí ta sẽ cho hai ngươi năm phút bắt đầu trước. Nhưng ta cảnh cáo này: ta không bao giờ thua cả. Khi ta giết hai ngươi, ta sẽ lấy đi túi quần của hai ngươi đấy!”
“Bà mặc cả kinh thật,” tôi nói. “Nhưng được thôi.”
Walt thúc cùi chỏ vào tôi. “Ơ, Sadie này-”
Tôi ném cho anh chàng cái nhìn cảnh cáo. Theo tôi thấy thì, chúng tôi chả cách nào thoát được cuộc săn này cả, nhưng tôi quả là có một ý tưởng có thể giữ chúng tôi toàn mạng.
“Chúng ta đã bắt đầu!” Nữ thần Neith la lớn. “Hai ngươi có thể đi đến bất kỳ đâu trong lãnh thổ của ta, cơ bản nghĩa là toàn vùng châu thổ này. Không sao đâu. Ta sẽ tìm ra hai ngươi.”
Walt kêu lên, “Nhưng mà-”
“Còn bốn phút,” nữ thần Neith nói.
Chúng tôi làm chuyện duy nhất có lý. Chúng tôi quay đầu bỏ chạy.
“Macramé là gì thế?” tôi hỏi lớn khi chúng tôi phăm phăm phóng đi.
“Một dạng đan kết,” Walt đáp. “Sao chúng ta lại đang nói về chuyện này thế?”
“Chẳng biết,” tôi thú thực. “Chỉ là tò mò-”
Thế giới đảo lộn ngược - hay đúng hơn là tôi đảo. Tôi thấy mình treo lơ lửng trong tấm lưới dây đay ngứa ngáy, hai chân chổng lên trời.
“Đấy là macramé,” Walt bảo.
“Dễ thương chưa. Đưa em xuống!”
Anh lôi trong túi ra con dao - anh chàng thực tế - rồi xoay sở tháo tôi xuống, nhưng tôi nhận ra chúng tôi đã đánh mất gần hết thời gian khởi đầu trước của mình. Mặt trời xuống thấp hơn nơi đường chân trời, nhưng chúng tôi phải sống sót trong bao lâu đây - 30 phút ư? Hay một tiếng?
Walt quơ quào trong ba lô và trong chốc lát xem xét đến con cá sấu trắng bằng sáp. “Philip, có thể không?”
“Không,” tôi đáp. “Chúng ta không thể giáp lá cà với Neith. Chúng ta phải tránh bà ta. Chúng ta có thể chia ra-”
“Cọp. Thuyền. Nhân sư. Lạc đà. Không có vô hình,” Walt vừa làu bàu vừa kiểm tra mấy tấm bùa hộ mạng. “Tại sao anh lại không có bùa vô hình chứ?”
Tôi rùng mình. Lần cuối cùng tôi thử phép vô hình, mọi chuyện đã diễn ra rất suôn sẻ. “Walt à, bà ta là nữ thần săn bắt đấy. Chắc chắn là chúng ta không thể lừa bà ấy bằng bất cứ loại bùa chú che giấu nào đâu, ngay cả khi là anh có thứ ấy.”
“Vậy sao bây giờ?” anh hỏi.
Tôi đặt ngón tay trên ngực Walt mà vỗ lên chiếc bùa hộ mạng anh không nghĩ đến - chiếc vòng cổ giống hệt vòng cổ của tôi.
“Bùa shen ư?” Anh chớp chớp mắt. “Nhưng chúng có thể giúp thế nào đây?”
“Chúng ta chia ra rồi câu giờ,” tôi nói. “Chúng ta có thể chia sẻ ý nghĩ qua mấy bùa này, đúng không?”
“À... đúng.”
“Và chúng có thể dịch chuyển chúng ta đến bên nhau, đúng không?”
Walt cau mày. “Anh - anh thiết kế cho chúng điều này, nhưng-”
“Nếu chúng ta chia ra,” tôi bảo, “Neith sẽ phải chọn theo dấu một trong hai chúng ta. Chúng ta chia ra xa nhau hết mức có thể. Nếu bà ta tìm thấy em trước, anh dịch chuyển em ra khỏi vùng nguy hiểm bằng chiếc bùa hộ mạng. Hoặc là ngược lại. Rồi chúng ta lại chia ra, cứ mãi như thế.”
“Thông minh quá,” Walt thừa nhận. “Nếu như mấy chiếc bùa phát huy tác dụng nhanh chóng và đúng cách. Và nếu như chúng ta có thể duy trì mối liên hệ tâm tưởng. Và nếu Neith không giết một trong hai ta trước khi ta kịp gọi trợ giúp. Và-”
Tôi đặt ngón tay lên môi Walt. “Thôi ta cứ nghĩ đấy là ‘Thông minh quá’ là được rồi.”
Anh gật đầu, rồi trao tôi một nụ hôn vội. “May mắn nhé.”
Anh chàng ngờ nghệch này không nên làm chuyện như thế trong lúc tôi cần phải tập trung cao độ. Anh phóng đi ngược lên phía bắc, và sau một thoáng ngớ người, tôi chạy về hướng nam.
Đôi bốt quân đội kêu cót két không phải là thứ phù hợp nhất khi phải lẩn trốn quanh.
Tôi nghĩ đến việc lội xuống sông, cho là có thể nước sẽ xóa nhòa dấu vết của mình, nhưng tôi không muốn ngụp lặn khi không biết dưới bề mặt kia có gì - cá sấu, rắn rít, những linh hồn tà đạo. Có lần Carter từng bảo rằng hầu hết người Ai Cập Cổ Đại không thể bơi, khi nghe thế tôi thấy có vẻ ngớ ngẩn quá. Làm sao người ta sống cạnh một con sông mà lại không biết bơi được chứ? Giờ thì tôi hiểu rồi. Chẳng có ai tâm thần ổn định mà lại muốn nhúng mình xuống dòng nước ấy cả.
(Carter bảo bơi dưới sông Thames hay sông Đông đều không tốt cho sức khỏe như nhau. Được rồi, có lý đấy. "Giờ thì câm mồm đi, ông anh yêu dấu, để cho em trở lại với cái phần hay tuyệt Sadie - cứu - rỗi - cả - ngày đi nào.")
Tôi chạy dọc bờ sông, xông mình qua lau sậy, nhảy phóc qua một con cá sấu đang phơi nắng. Tôi chẳng buồn quay lại xem nó có đuổi theo mình hay không. Tôi còn phải lo ngại về mấy kẻ săn mồi to lớn hơn kia.
Không rõ tôi đã chạy được bao xa. Hình như là cả mấy dặm. Đến lúc bờ sông nới rộng ra, tôi quành về phía đất liền, cố nép mình dưới tán che của lá cọ. Tôi không nghe thấy dấu hiệu săn đuổi nào cả, nhưng tôi liên tục cảm nhận được cơn ngứa ngáy giữa hai bả vai mình nơi tôi đang trông chờ một mũi tên.
Tôi ngã lên ngã xuống chạy qua một quãng đất trống có mấy người Ai Cập Cổ Đại đóng khố đang nấu nướng trên đống lửa cạnh túp lều tranh be bé. Có lẽ những người Ai Cập này chỉ là cái bóng từ quá khứ, nhưng họ trông rất thật. Dường như họ giật bắn hết cả mình khi trông thấy một con bé tóc vàng hoe vận đồ đánh trận rơi ngay vào vùng trại của họ. Rồi họ nhìn thấy cây gậy và đũa phép của tôi thế là họ phục ngay xuống, dập đầu xuống đất và lẩm bẩm gì đấy về Per Ankh - Ngôi Nhà Sự Sống.
“Ừm phải rồi,” tôi nói. “Công việc quan trọng của Per Ankh đây. Tiếp tục đi. Chào nhé.”
Tôi co giò phóng tiếp. Tôi thắc mắc không biết một ngày nào đó mình có xuất hiện trong một bức tranh treo tường của đền thờ nào không - một con bé Ai Cập tóc vàng ruộm sọc tím chạy nghiêng qua những cây cọ, miệng la lên “Gớm!” bằng những chữ tượng hình trong khi nữ thần Neith chạy đuổi theo sau. Ý nghĩ rằng vài nhà khảo cổ tội nghiệp nào đó vò đầu bứt tóc cố nghĩ cho ra gần như khiến tôi phấn chấn hẳn lên.
Tôi chạy đến ven bìa rừng cọ rồi loạng choạng dừng lại. Trước mặt tôi, những đồng ruộng được cày luống trải dài xa xa. Chẳng chạy hay trốn vào đâu được nữa.
Tôi quay lại
PHỤT!
Một mũi tên cắm vào cây cọ gần nhất bằng một lực kinh hồn khiến trái chà là rơi như mưa xuống đầu tôi.
Walt ơi, tôi tuyệt vọng thầm nghĩ, ngay lúc này, làm ơn đi.
Cách đấy hai mươi mét, nữ thần Neith từ nền cỏ nhô lên. Bà ta đã bôi lấm lem bùn sông lên mặt. Tán lá cọ từ tóc bà ta chĩa ra như tai thỏ.
“Ta đã từng săn mấy con heo rừng còn nhiều kỹ năng hơn cả ngươi,” bà ta than. “Ta đã từng săn cây cói còn nhiều kỹ năng hơn!”
Làm ngay đi, Walt, tôi nghĩ.
Walt, walt yêu dấu. Làm ngay đi.
Nữ thần Neith lắc lắc đầu kinh tởm. Bà ta lắp một mũi tên. Tôi cảm nhận một cảm giác kéo giật trong dạ dày, như thể tôi đang ngồi trong xe và tài xế thình lình dậm thắng.
Tôi thấy mình ngồi trên cây cạnh Walt, trên cành thấp nhất của một cây ngô đồng to lớn.
“Có tác dụng,” anh ấy bảo.
Walt tuyệt vời!
Tôi đường hoàng hôn lấy anh - hay là đường hoàng hết mức có thể trong tình huống của chúng tôi thế này. Từ anh có một mùi hương dịu nhẹ mà trước đây tôi không để ý thấy, như thể anh vừa ăn hoa sen. Tôi mường tượng ra lời đồng ca cũ rích: “Walt và Sadie/ngồi trên cây/H-Ô-N N-G-Ấ-T N-G-Â-Y.” May thay, bất cứ ai có thể trêu được chúng tôi đều vẫn cách xa đây năm nghìn dặm trong tương lai mất rồi.
Walt hít một hơi sâu, “Đấy là để cảm ơn ấy hử?”
“Anh trông khỏe hơn,” tôi lưu ý. Mắt anh không còn vàng ệch như trước nữa. Anh hình như di chuyển bớt đau đớn hơn. Lẽ ra điều này phải làm tôi hân hoan chứ, nhưng thay vì thế lại khiến tôi lo lắng. “Cái mùi hoa sen ấy... anh đã uống gì à?”
“Anh ổn.” Walt đưa mắt nhìn lảng đi. “Chúng ta nên chia ra thử lại đi nào.”
Như thế không làm cho tôi bớt lo lắng đi, nhưng anh ấy nói phải. Chúng tôi không có thời gian tán dóc. Cả hai cùng nhảy xuống đất và phóng đi theo hai hướng khác nhau.
Mặt trời đã mém chạm đến đường chân trời. Tôi bắt đầu cảm thấy có hy vọng. Chắc là chúng tôi không phải cố sức lâu nữa đâu.
Tôi xém chút lọt vào một cái macramé khác, nhưng may là tôi đang để mắt tìm những món nghệ thuật thủ công của Neith. Tôi bước men qua cái bẫy, lách qua một vũng cây cói, thế là thấy mình đã quay trở lại đền thờ nữ thần Neith.
Cánh cổng vàng đang mở toang. Lối đi rộng thênh hai bên là tượng nhân sư dẫn thẳng vào trong đền. Không người canh gác... không thầy tế. Có lẽ Neith đã giết hết bọn họ để thu thập túi quần, hay có lẽ họ đang ở dưới hầm trú ẩn, chuẩn bị cho cuộc xâm lăng của thây ma xác chết.
Hừm. Tôi nghĩ nơi cuối cùng mà nữ thần Neith có thể đi tìm tôi là chính ngay trụ sở của bà ta. Với lại, Tawaret đã từng thấy bóng của Bes trên mấy thành lũy ấy. Nếu như tôi có thể tìm thấy cái bóng mà không cần đến sự giúp đỡ của Neith thì lại càng tốt hơn nhiều.
Tôi chạy đến cổng, mắt vẫn ngờ ngực dõi theo mấy con nhân sư. Chẳng có con nào rùng mình sống lại. Bên trong sân đền rộng mênh mông là hai cột tháp không giá đỡ có chóp tháp bằng vàng. Giữa hai cột tháp này là bức tượng nữ thần Neith trong trang phục Ai Cập Cổ Đại đang tỏa sáng. Khiên lẫn tên đã được chất đống quanh chân bà ta như chiến lợi phẩm.
Tôi quét mắt qua mấy bức tường bao quanh. Nhiều cầu thang dẫn lên thành lũy. Mặt trời đang lặn tỏa nhiều bóng dài, nhưng tôi không thấy được một bóng nào là của người lùn rõ ràng cả. Tawaret đã gợi ý là tôi kêu lên gọi cái bóng. Vừa định thử thì tôi nghe thấy giọng của Walt trong tâm trí mình: Sadie!
Thật khó mà tập trung kinh khủng khi mạng sống ai đó đang phụ thuộc vào bạn.
Tôi chụp lấy bùa shen và lẩm bẩm, “Coi nào. Coi nào.”
Tôi hình dung ra Walt đang đứng cạnh mình, tốt hơn là không có mũi tên nào găm vào. Tôi đứng đấy. Anh xem chút xô ngã tôi khi ôm chầm lấy tôi.
“Bà ta - lẽ ra bà ta đã giết anh rồi,” Walt hổn hển. “Nhưng bà ta muốn nói chuyện trước đã. Bảo là bà ấy thích chiêu của chúng ta. Bà ta tự hào được kết liễu chúng ta và lấy đi mấy túi quần.”
“Kỳ diệu quá,” tôi nói. “Ta chia ra nữa nhé?”
Walt liếc qua vai tôi. “Sadie, nhìn kìa.”
Anh chỉ về góc tường phía tây bắc, nơi có một ngọn tháp lú lên khỏi dãy thành lũy. Trong khi bầu trời chuyển sang sắc đỏ, những cái bóng chầm chậm tan đi từ hông tháp, nhưng chỉ có một bóng là sót lại - là hình ảnh của một người đàn ông nhỏ thó đậm người với mái tóc xoăn tít.
Tôi e là bọn tôi đã quên mất kế hoạch. Cùng nhau, chúng tôi chạy lên mấy bậc cấp rồi leo lên tường. Ngay tích tắc, chúng tôi đang đứng bên bờ công sự, nhìn chăm chăm vào cái bóng của Bes.
Tôi nhận ra hẳn chúng tôi đã đến ngay chính nơi Tawaret và Bes đã nắm tay vào cái đêm mà Tawaret mô tả. Bes đã nói sự thật - ông ấy để bóng mình lại đây để nó được vui vẻ, ngay cả khi bản thân ông không được vui vẻ gì.
“Ôi Bes...” Tim tôi có cảm giác như đang teo lại thành một shabti bằng sáp. “Walt này, làm sao chúng ta bắt được nó đây?”
Một giọng nói sau lưng chúng tôi vang lên, “Không được đâu.”
Chúng tôi quay lại. Cách đấy vài mét, nữ thần Neith đang đứng trên chiến hào. Hai mũi tên đã được lắp vào cung. Ở cự ly này, tôi nghĩ bà ta chẳng có vấn đề gì để bắn một lần trúng vào cả hai chúng tôi cả.
“Làm tốt đấy,” bà ta thừa nhận. “Nhưng ta luôn chiến thắng trong cuộc săn.”