← Quay lại trang sách

16.Sadie Ngồi Ghế Trước (Ý Tưởng.Tệ.Hại.- Hơn.Bao.Giờ.Hết).

LỜI KHUYÊN MIỄN PHÍ ĐÂY: Đừng bước tới Hỗn Mang.

Qua từng bước, tôi có cảm giác như đang bị lôi vào một hố đen. Cây cối, đá tảng, và quỷ bay qua chúng tôi, bị hút vào lòng đại dương, trong lúc sấm sét chớp lòa qua lớp sương mù xám đỏ. Dưới chân chúng tôi, từng mảng từng mảng đất liên tục nẻ ra rồi trôi tuột xuống dòng nước triều.

Tôi một tay giữ chặt móc câu và néo, tay kia cầm tay Zia. Setne huýt sao thênh thang bước cạnh chúng tôi. Hắn đang cố tỏ ra bình thản, nhưng theo như các sắc màu trên mặt hắn nhợt đi và mái tóc bóng nhờn của hắn đang chĩa về phía đại dương như đuôi sao chổi, thì tôi cũng biết là hắn đang chật vật lắm mới bám được xuống đất.

Một lần tôi mất thăng bằng. Tôi suýt chút nữa rơi xuống đầu sóng, nhưng Zia kéo tôi lại. Đi thêm vài bước, một con quỷ đầu cá từ đâu bay vèo đến đâm sầm vào tôi. Nó tóm lấy chân tôi, tuyệt vọng ra sức tránh không bị hút xuống. Trước khi tôi kịp quyết định xem có nên giúp nó hay không, thì nó đã tuột tay mất hút vào lòng biển.

Điều kinh khủng nhất trong chuyến hành trình ấy ư? Một phần trong tôi mong muốn đầu hàng mặc cho Hỗn Mang kéo mình đi. Cứ mãi chống chọi làm gì? Sao lại không chấm dứt đi cơn đau và nỗi lo sợ? Đã sao nào, nếu Carter Kane tan biến vào ty tỷ các phân tử?

Tôi biết những ý nghĩ đấy không thật sự là của tôi. Giọng nói của Apophis đang thì thào trong đầu tôi, chiêu dụ tôi như trước đấy nó từng làm. Tôi tập trung vào cột tháp trắng đang tỏa sang - ngọn hải đăng của chúng tôi trong cơn bão Hỗn Mang. Tôi chẳng biết có phải chóp tháp ấy thật sự là phần tạo dựng đầu tiên nhất không, hay làm sao mà chuyện hoang đường ấy đồng thanh tương ứng với Vụ nổ Big Bang, hay với chuyện Chúa tạo ra thế giới trong bảy ngày, hay bất cứ chuyện gì khác mà con người có thể tin vào. Có lẽ cột tháp chỉ là biểu thị cho thứ gì đó lớn lao hơn - thứ mà trí óc tôi không thể hiểu thấu. Dù có là gì đi nữa, tôi biết cột tháp ấy tượng trưng cho Tôn ti Ma’at, và tôi phải tập trung vào đấy. Bằng không tôi sẽ lầm đường.

Chúng tôi đi đến chân đê chắn sóng. Lối đi lởm chởm đá có cảm giác cứng cáp đến an lòng dưới chân tôi, nhưng ở phía bên kia lực kéo của Hỗn Mang lại rất mạnh. Trong lúc chúng tôi nhích từng bước tới trước, tôi nhớ đến những bức ảnh mình đã thấy về các thợ xây đang xây nên những ngôi nhà chọc trời ngày xưa, đang bước đi không chút sợ hãi ngang qua những thanh xà cao đến gần hai trăm mét trong không trung mà không có lấy thiết bị bảo hộ an toàn nào.

Lúc này tôi đang cảm thấy như thể, ngoại trừ việc tôi không phải là không chút hãi sợ. Gió quật vào tôi. Đê chắn sóng rộng đến ba mét, nhưng tôi vẫn cảm thấy như mình sẽ mất thăng bằng đổ nhào xuống sóng biển. Tôi cố không nhìn xuống. Những thứ từ Hỗn Mang dập dờn và đập vào các tảng đá. Có mùi như mùi ozone, mùi khói xe, mùi formaldehyde trộn lẫn với nhau. Nội riêng hơi khói bốc lên cũng gần như đủ khiến tôi lăn ra xỉu rồi.

“Đi xa thêm chút xíu nữa thôi,” Setne bảo.

Hình dáng hắn chấp chới thất thường. Vỏ ngụy trang quỷ xanh lè của Zia chớp tắt chớp tắt. Tôi giơ tay lên để thấy lớp ảnh ảo của mình sáng mờ trong cơn gió, đe dọa sẽ đổ gục. Tôi không nề hà gì chuyện mất đi cái vẻ bề ngoài đười ươi khui nút chai tía choáng của mình đâu, nhưng tôi hy vọng cơn gió chỉ giật rách đi phần ảo ảnh thôi, chứ không phải làn da thật của tôi.

Rốt cuộc chúng tôi cũng đến được cột tháp. Cột tháp được chạm khắc trên đấy những chữ tượng hình nhỏ xíu, cả ngàn cả ngàn chữ, chữ trắng khắc trên tháp trắng, thế nên hầu như không thể nào đọc ra. Tôi nhìn ra tên của các vị thần, những thần chú khơi gợi lên Ma’at, cùng vài từ thần thánh khác vô cùng mạnh, đến nỗi gần như làm tôi mù đi. Quanh chúng tôi, Biển Hỗn Mang nhấp nhô dập dìu. Mỗi khi gió thổi đến, một tấm khiên rực sáng trong hình dáng con bọ hung nhấp nháy quanh Zia - phần vỏ giáp xác pháp thuật của Khepri, che chắn cho tất cả chúng tôi. Tôi nghĩ đấy là thứ duy nhất giúp chúng tôi tránh khỏi cái chết ngay tức thời.

“Giờ sao nữa?” tôi hỏi.

“Đọc lên câu thần chú đi,” Setne bảo “Rồi cậu sẽ thấy.”

Zia đưa cuộn văn tự cho tôi. Tôi cố sức tìm cho ra những dòng phù hợp, nhưng tôi không thể nhìn rõ được. Các chữ tượng hình nhòe nhoẹt vào nhau. Lẽ ra tôi phải trù trước rắc rối này mới phải. Ngay cả khi tôi không phải đang đứng cạnh Biển Hỗn Mang, tôi vẫn chưa khi nào giỏi ngâm thần chú cả. Tôi ước gì Sadie đang có đây.

"Phải đấy Sadie. Anh quả thực nói thế đấy. Đừng có há hốc lớn tiếng đến thế."

“Tớ - tớ không thể đọc được,” tôi thú thật.

“Để tớ giúp cho.” Zia lần ngón tay dọc xuống văn tự. Khi tìm ra những chữ tượng hình mình muốn, cô ấy cau mày.

“Đây chỉ đơn giản là một lời chú triệu gọi.” Cô trừng mắt nhìn Setne. “Mi bảo pháp thuật đấy phức tạp cơ mà. Mi bảo bọn ta sẽ phải cần đến sự trợ giúp của mi. Làm sao mi có thể nói dối khi đang cầm chiếc Lông vũ Sự thật được kia chứ?”

“Tôi đâu có nói dối!” Setne phản kháng. “Pháp thuật ấy với tôi là phức tạp. Tôi là hồn ma mà! Có vài câu chú - như là lời chú triệu gọi ấy - tôi hoàn toàn không thể gieo được. Và các người đúng là cần phải có sự giúp đỡ của tôi để tìm cái bóng. Các người cần cuốn sách của thần Thoth cho việc ấy, và cần tôi để dịch ra. Nếu không thì, hai người vẫn còn đang đắm thuyền trong con sông kia ấy.”

Tôi ghét phải thừa nhận ra, nhưng tôi nói, “Hắn có lý.”

“Chắc chắn rồi,” Setne bảo. “Giờ thì hai người đã ở đây, phần còn lại có khó khăn gì đâu. Chỉ ép cho cái bóng chường ra, và tôi - à - hai người có thể bắt được lấy.”

Zia và tôi lo lắng nhìn nhau. Tôi hình dung cô ấy cũng cảm nhận như tôi. Đứng ngay ven rìa sự sáng tạo, đối mặt với vùng Biển Hỗn Mang vô tận, điều cuối cùng mà tôi muốn là phải gieo ra lời chú có khả năng triệu gọi một phần hồn của Apophis. Làm thế giống như là bắn súng pháo sáng, ra hiệu rằng: Ê này, cái bóng to tướng xấu xa kia! Bọn tao đây này! Tới đây mà giết chúng tao đi!

Nhưng mà, tôi không thấy bọn tôi còn được lựa chọn nào khác.

Zia thi hành phận sự. Đây là một câu thần chú dễ ợt, loại một pháp sư sẽ dùng để gọi shabti, hay một cây phủi bụi có ếm bùa, hay đơn giản là bất cứ sinh vật cấp thấp nào từ Cõi Âm.

Khi Zia dứt lời, một cơn chấn động lan ra tứ phía, như thể cô ấy vừa thả một phiến đá khổng lồ xuống Biển Hỗn Mang. Sự khuấy động ấy lăn tăn lan đến bờ biển ngược lên mấy ngọn đồi.

“Ừm... gì thế?” tôi hỏi.

“Tín hiệu báo nguy,” Setne bảo. “Tôi đoán là cái bóng vừa mới kêu gọi các nguồn lực Hỗn Mang bảo vệ cho nó.”

“Hay nhỉ,” tôi nói. “Thế chúng ta tốt hơn nhanh nhanh lên. Đâu là-? Ồ...”

Sheut của Apophis thật lớn, tôi phải mất một lúc mới hiểu ra mình đang nhìn vào cái gì. Cột tháp trắng dường như tỏa một cái bóng ngang qua biển; nhưng khi cái bóng tối dần đi, tôi nhận ra đấy không phải là bóng đổ của cột tháp. Đúng hơn là, cái bóng quằn quại ngang mặt nước như phần của một con rắn khổng lồ. Cái bóng lớn dần lên cho đến khi đầu con rắn gần chạm đến đường chân trời. Nó chém ngang xuống biển, lưỡi thò ra thụt vào, cắn bập vào hư không.

Hai tay tôi run rẩy. Bên trong tôi có cảm giác như mình vừa mới tợp một ly tướng nước Hỗn Mang. Cái bóng của con rắn thật lớn, tỏa ra thật nhiều sức mạnh, đến nỗi tôi không thể thấy được làm sao mà chúng tôi có thể bắt được nó. Tôi đã đang nghĩ gì thế nhỉ?

Chỉ có một điều giúp tôi không thất kinh tán đởm.

Con rắn không được tự do hoàn toàn. Hình như đuôi nó bị neo vào cột tháp, như thể ai đó đã đóng cọc ngăn không cho nó thoát đi.

Trong một khoảnh khắc ghê sợ, tôi cảm nhận được ý nghĩ của con rắn. Tôi nhìn nhận theo quan điểm của Apophis. Nó bị mắc bẫy vào cột tháp - đang sục sôi căm giận và đau đớn. Nó căm ghét thế giới người thường lẫn các vị thần, là thứ đã ghim nó xuống và hạn chế tự do của nó. Apophis khinh miệt sự sáng tạo như kiểu tôi ghê tởm một cái đinh gỉ đóng xuyên qua chân mình, làm mình không bước đi được.

Apophis chỉ muốn tắt đi ánh sáng chói lòa từ cột tháp. Nó muốn tiêu hủy trái đất, để có thể quay trở về bóng tối mà bơi lội mải miết trong vùng trải dài vô tận của Hỗn Mang. Tôi phải vận hết ý chí mới không cảm thấy thương cho con rắn tội nghiệp bé nhỏ, chỉ muốn tiêu diệt thế giới, nuốt chửng mặt trời này.

“Rồi,” tôi khàn khàn bảo. “Chúng ta đã tìm thấy cái bóng. Giờ ta làm gì với nó đây?”

Setne chậc lưỡi. “Ồ, tôi có thể tiếp quản từ đây trở đi. Hai người đã làm rất khá. Tas!”

Nếu tôi không quá sao nhãng, hẳn tôi đã có thể thấy được điều gì sẽ xảy đến, nhưng mà không. Lốt quỷ ảo ảnh của tôi đột nhiên trở thành những dải vải lanh niệm các chắc chắn, bao lấy miệng tôi trước tiên, rồi quấn quanh người tôi bằng tốc độ chóng mặt. Tôi loạng choạng té nhào, toàn thân bị bao bọc trừ hai con mắt. Zia rơi xuống đám đá cạnh tôi, cũng bị quấn thành kén. Tôi cố thở, nhưng lại bị giống như hít vào qua một chiếc gối vậy.

Setne cúi xuống Zia. Hắn thận trọng rút cuốn Sách của thần Thoth từ dưới làn vải trói rồi cặp sách vào nách. Đoạn hắn mỉm cười nhìn xuống tôi.

“Ôi, Carter, Carter.” Hắn lắc đầu như thế hơi thất vọng. “Ta thích mi lắm, anh bạn ạ. Thật đấy. Nhưng mi lại quá cả tin. Sau cái vụ trên thuyền, mi vẫn cho phép ta gieo bùa ảo ảnh lên mi à? Coi nào! Biến một lớp ảo ảnh thành chiếc áo bó thiệt dễ vô cùng.”

“Mmm!” tôi bẳn nhẳn.

“Gì hả?” Setne khum tay che tai. “Khó nói được khi bị bó kín lắm, phải không nào? Này, chuyện này không có tư thù gì đâu. Tự ta không thể gieo được lời chú ấy, bằng không ta đã làm từ bao nhiêu năm trước rồi. Ta cần hai chúng bay! À... chí ít là một trong hai đứa. Ta nghĩ ta có thể giết được mi hay bạn gái mi dọc đường đi, để ta xử lý đứa còn lại được dễ dàng hơn. Ta chẳng hề nghĩ là hai đứa bay lại có thể tồn tại đến tận đây. Ấn tượng đấy!”

Tôi vặn vẹo suýt chút nữa nơi xuống nước. Chẳng hiểu vì sao, Setne lại kéo tôi vào nơi an toàn.

“Nào nào,” hắn mắng mỏ. “Nào anh bạn, tự tử chẳng có ích gì đâu. Kế hoạch của cậu đâu có bị phá vỡ. Ta sẽ chỉ chỉnh sửa chút thôi mà. Ta sẽ bắt lấy cái bóng. Phần này ta tự làm được! Nhưng thay vì tung ra chú nguyền rủa, ta sẽ chỉ tống tiền Apophis thôi, hiểu không? Nó sẽ chỉ tiêu diệt những gì ta cho phép nó tiêu diệt. Rồi nó sẽ lui về Hỗn Mang, bằng không thì bóng của nó sẽ bị dẫm bẹp, và con rắn mập chia tay từ đây.”

“Mmm!” tôi phản đối, nhưng mỗi lúc hít thở một khó nhọc hơn.

“Phải, phải.” Setne thở dài. “Đây là phần mà cậu nói là. ‘Mi điên rồi Setne! Mi sẽ không bao giờ thoát khỏi chuyện ấy đâu!’ Nhưng vấn đề là, ta sẽ thoát đấy. Ta đã thoát thân khỏi những trò bất khả cả bao nhiêu nghìn năm nay rồi. Ta chắc chắn ta và con rắn sẽ đạt được thỏa thuận. Ồ, ta sẽ để cho nó giết chết Ra cùng tất cả những tên thần còn lại. Chuyện nhỏ. Ta sẽ để cho nó tiêu hủy Ngôi Nhà Sự Sống. Ta nhất định sẽ để nó tàn phá Ai Cập cùng mỗi một bức tượng đáng nguyền rủa của Ramses cha ta. Ta muốn tên khoác lác ấy phải được xóa bỏ không tồn tại nữa! Nhưng còn toàn thể thế giới con người à? Cái này thì đừng lo, anh bạn ạ. Ta sẽ tha cho phần lớn thế giới ấy. Ta cần phải có một chỗ nào đó để trị vì chứ, phải không nào?”

Hai mắt Zia long lên ánh cam rực. Vải liệm trói cô ấy bắt đầu bốc khói, nhưng chúng thít cô chặt cứng. Lửa từ Zia lịm đi, cô phủ phục xuống nền đá.

Setne cười phá lên. “Gan đấy cưng. Hai đứa ngồi im đây nhé. Nếu cả hai sống sốt qua được qua vụ chấn động lớn thì ta sẽ quay lại đây đón hai đứa. Biết đâu hai đứa có thể làm quân hề hay gì đấy cho ta. Hai đứa làm ta cười vỡ cả bụng! Nhưng lúc này đây, ta e là chúng ta đến đây đã hết chuyện. Chẳng có phép lạ nào từ trên trời rơi xuống mà cứu hai đứa đâu.”

Một khối chữ nhật tối đen xuất hiện trên không trung ngay trên đầu tên hồn ma. Sadie từ trong đấy rơi xuống.

Tôi phải nể em gái tôi chuyện này: con bé canh giờ chính xác, và phản ứng mau lẹ. Nó rơi sầm xuống Setne làm hắn bổ ngửa ra. Rồi Sadie nhìn thấy chúng tôi bị gói gọn như mấy món quà, nhanh nhảu nhận định chuyện gì đang xảy ra, thế là nó quay về phía Setne.

“Tas!” con bé thét lên.

“Khoooông!” Setne đã bị quấn trong những lọn ruy băng hồng cho đến khi hắn trông giống như một chiếc nĩa quấn đầy spaghetti.

Sadie đứng lên bước lùi khỏi Setne. Hai mắt con bé sưng mọng như thể nó vừa mới khóc. Quần áo nó bám đầy bùn khô và lá cây.

Walt không thấy đi cùng. Tim tôi chùng xuống. Tôi gần như thấy mừng vì miệng mình đang bị bịt kín, vì có lẽ tôi không biết phải nói gì nữa.

Sadie đưa mắt nhìn toàn cảnh - Biển Hỗn Mang, cái bóng oằn oại của con rắn, cột tháp trắng. Tôi có thể nhận ra con bé cảm nhận được lực kéo của Hỗn Mang. Nó tấn chân xuống, rướn cả người ngược lại phía biển như một kẻ cầm đầu trong trò chơi kéo co. Tôi hiểu con bé quá rõ để có thể nhận thấy nó đang rắn lòng lại, đang ém nhẹm cảm xúc vào trong ép nỗi buồn xuống.

“Chào anh trai yêu quý,” con bé nói bằng giọng run run. “Cần giúp đỡ gì không?”

Sadie xoay sở giải được bùa mê trên người chúng tôi. Con bé trông ngạc nhiên khi thấy tôi đang giữ móc câu và néo của thần Ra. “làm quái sao mà-?”

Zia giải thích ngắn gọn những gì chúng tôi đã trải qua - từ trận chiến với con hà mã khổng lồ đến những trò phản bội mới nhất của Setne.

“Chừng đó chuyện,” Sadie tự hỏi, “và chị phải kéo theo cả ông anh trai của em nữa à? Tội nghiệp quá. Nhưng làm sao chúng ta có thể sống sót tại đây chứ? Quyền lực của Hỗn Mang...” Con bé nhìn chăm chú vào mặt dây chuyền bọ hung của Zia. “Ồ. Em thiệt ngu quá. Chả trách sao mà Tawaret cứ nhìn chị là lạ thế nào ấy. Chị đang điều khiển sức mạnh của thần Ra.”

“Thần Ra chọn chị,” Zia nói. “Chị không muốn chuyện này.”

Sadie trở nên im thin thít - không giống nó chút nào.

“Em này,” tôi lên tiếng, dịu dàng hết mức có thể, “chuyện gì đã xảy ra cho Walt rồi?”

Đôi mắt con bé chất chứa đau thương ngút ngàn đến nỗi tôi chỉ muốn xin lỗi vì đã hỏi nó. Tôi chưa từng trông thấy con bé như thế này kể từ khi... à, từ khi mẹ tôi qua đời, khi Sadie còn bé xíu.

“Anh ấy sẽ không đến đâu,” con bé đáp. “Anh ấy... đi mất rồi.”

“Sadie, anh xin lỗi,” tôi nói. “Em có-?”

“Em ổn!” con bé gắt.

Dịch cho này: Em nhất định là chẳng ổn gì cả, nhưng nếu anh mà hỏi nữa thì em sẽ tộng sáp vào mồm anh đấy.

“Chúng ta phải nhanh nhanh lên,” con bé nói tiếp, cố điều chỉnh giọng mình. “Em biết cách bắt được cái bóng. Cứ đưa cho em bức tượng.”

Tôi phát hoảng trong tích tắc. Tôi vẫn còn giữ cái tượng Apophis mà Walt đã nặn ra không nhỉ? Lê lết đến tận đây mà lại bỏ quên bức tượng thì thật là một hành động thậm ngu.

May sao, bức tượng vẫn nằm dưới đáy ba lô của tôi.

Tôi đưa nó cho Sadie, con bé nhìn trân trân vào nét trạm khắc màu đỏ tỉ mỉ hình như con rắn cuộn tròn, vào những chữ tượng hình trói buộc quanh cái tên Apophis. Tôi hình dung ra con bé đang nghĩ về Walt, cùng mọi nỗ lực mà cậu ta đã bỏ ra để tạc nên bức tượng này.

Con bé quỳ xuống cạnh mép đê chắn sóng, nơi chân cột tháp tiếp giáp với cái bóng.

“Sadie này,” tôi gọi.

Con bé cứng người lại. “Gì?”

Miệng mồm tôi có cảm giác như đóng đầy keo. Tôi muốn bảo nó thôi hãy quên hết mọi chuyện đi.

Nhìn thấy nó nơi cột tháp, cùng cái bóng khổng lồ quấn lượn về phía chân trời... Tôi chỉ biết là chuyện gì đó sẽ không ổn. Cái bóng sẽ tấn công. Lời chú sẽ phản ứng ngược hay sao đó.

Sadie gợi cho tôi nhớ đến mẹ chúng tôi thật nhiều. Tôi không thể xóa đi ấn tượng rằng chúng tôi đang lặp lại vết xe lịch sử. Cha mẹ chúng tôi trước đây từng một lần ra sức cản trở Apophis, nơi cột tháp Cleopatra’s Needle, và mẹ tôi đã chết. Tôi đã trải qua bao năm ròng chứng kiến cha mình đối mặt với mặc cảm tội lỗi của mình. Nếu giờ đây tôi đứng yên để mặc Sadie bị làm hại...

Zia nắm lấy tay tôi. Những ngón tay của cô ấy đang run rẩy, nhưng tôi thấy biết ơn có cô ấy hiện diện nơi này. “Chuyện này sẽ có tác dụng,” cô hứa.

Sadie thổi hất đi một cộng tóc khỏi mặt. “Nghe lời bạn gái anh đi, Carter. Và thôi đừng có làm em phân tâm nữa.”

Con bé nghe như cáu tiết, nhưng trong mắt nó không có chút bực bội nào. Sadie hiểu mối quan ngại của tôi rõ như là nó biết bí danh của tôi vậy. Nó cũng đang sợ hãi giống như tôi, nhưng nó đang cố trấn an tôi, theo cái cách đáng ghét của riêng nó.

“Em làm tiếp được chưa?” nó hỏi.

“Chúc may mắn,” tôi cố thốt ra lời.

Sadie gật đầu.

Con bé chạm vào tượng của cái bóng và bắt đầu ngâm nga.

Tôi thấy sợ rằng những con sóng từ Hỗn Mang sẽ cuốn tan bức tượng, hay thậm chí còn tệ hơn, là sẽ dìm Sadie xuống. Nhưng thay vì vậy, cái bóng của con rắn bắt đầu quẫy đập. Nó chầm chậm teo lại, mình quằn quại mồm đớp táp như thể đang bị cái roi chăn bò quất vào. Bức tượng thấm hút bóng tối. Chẳng mấy chốc cái bóng biến mất hẳn, còn bức tượng đen thui. Sadie đọc lên một lời chú trói buộc đơn giản vào bức tượng: “Hi-nehm.”

Một tiếng rít dài từ biển rộng thoát lên - gần như thể là tiếng thở dài nhẹ nhõm - và âm thanh ấy vang dội qua những ngọn đồi. Những ngọn sóng dập dồn chuyển sang sắc đỏ nhạt hơn, như thể một loại cặn đục ngầu nào đó đã được nạo vét. Sức kéo từ Hỗn Mang chừng như thoảng giảm đi.

Sadie đứng lên. “Rồi. Chúng ta đã sẵn sàng.”

Tôi trố mắt nhìn em gái. Nhiều khi con bé trêu tôi rằng nó đến một lúc nào đó sẽ bắt kịp tuổi tôi rồi làm chị gái của tôi. Lúc này đây nhìn vào nó, cùng tia sáng cương quyết trong mắt và vẻ tự tin trong giọng nói, tôi hầu như có thể tin là thế thật. “Kỳ diệu quá,” tôi nói. “Làm sao em biết câu thần chú vậy?”

Sadie quắc mắt. Đương nhiên rồi, câu trả lời quá hiển hiện: nó đã quan sát Walt thực hiện cùng một lời chú với cái bóng của Bes... trước khi bất cứ chuyện gì đấy đã xảy đến với Walt.

“Phần chú nguyền rủa sẽ dễ thôi,” con bé nói. “Chúng ta phải đang đối mặt với Apophis, nhưng ngoài chuyện đó ra thì đấy là cùng một lời chú mà lâu nay chúng ta đang sử dụng.”

Zia dùng chân chọc chọc vào Setne. “Đấy cũng là một điều nữa mà cái thứ giòi bọ này đã nói dối với chúng ta. Ta nên làm gì với hẳn đây? Chúng ta sẽ phải lấy cuốn Sách của thần Thoth ra khỏi lần vải trói kia, hiển nhiên rồi, nhưng sau đấy chúng ta có nên quẳng hắn xuống biển kia không nhỉ?”

“MMM!” Setne phản đối.

Sadie và tôi nhìn nhau. Chúng tôi ngầm đồng tình rằng chúng tôi không thể thủ tiêu Setne - dù hắn có dễ sợ đến thế đi nữa. Có lẽ chúng tôi đã trông thấy quá nhiều chuyện kinh khủng trong mấy ngày qua rồi nên chúng tôi không cần phải chứng kiến thêm nữa. Hay có lẽ chúng tôi biết rằng Orisis phải là người quyết định hình phạt dành cho Setne, vì chúng tôi đã hứa mang tên hồn ma này quay lại Sản phán quyết.

Có lẽ, đứng bên cạnh cột tháp của Ma’at, bao quanh là Biển Hỗn Mang, cả hai chúng tôi cùng nhận ra rằng chế ngự bản thân không phải báo thù là điều khiến hai anh em tôi khác với Apophis. Tôn ti trật tự có vai trò của nó. Chúng giúp tôi không phải thất bại.

“Cứ kéo hắn theo,” Sadie bảo. “Hắn là ma mà. Không thể nặng đến thế đâu.”

Tôi tóm lấy chân hắn, rồi chúng tôi quay ngược trở ra theo lối đê chắn sóng. Đầu của Setne va vào đất đá, nhưng tôi chẳng quan tâm. Tôi phải tập trung hết mực để bước chân này lên trước chân kia. Di chuyển rời xa khỏi Biển Hỗn Mang thậm chí còn khó khăn hơn là đi về phía nó.

Khi chúng tôi đến được bãi biễn thì tôi mệt lả. Quần áo tôi bê bết mồ hôi. Chúng tôi lê bước băng qua bãi cát và cuối cùng cũng leo được lên đồi.

“Ơ...” tôi thốt lên vài lời nhất định không phải lời thần thánh rồi.

Trên cánh đồng lỗ chỗ miệng núi lửa bên dưới chúng tôi, lũ quỷ đã kéo lại - hàng trăm tên, tất thảy đều sầm sập đi về hướng chúng tôi. Như Setne đã đoán, cái bóng đã gửi đi tín hiệu báo nguy đến các lực lượng của Apophis, và lời kêu gọi đã được đáp lời. Chúng tôi bị mắc kẹt giữa Biển Hỗn Mang và một đội quân thù địch.

Đến lúc này tôi bắt đầu thắc mắc. Sao lại là mình?

Tất cả những gì tôi muốn là lẻn qua phần nguy hiểm nhất trong Cõi Âm, đánh cắp cái bóng của tên Chúa Tể của Sự Hỗn Mang, rồi chứ lấy thế giới. Liệu đòi hỏi thế có quá lắm không?

Lũ quỷ có lẽ cách chừng hai sân bóng, đang tiến đến rất nhanh. Tôi ước chừng có khoảng ba đến bốn trăm tên, rồi còn thêm nhiều nữa đang đổ vào cánh đồng. Vài tá con quái vật có cánh còn thậm chí ở gần hơn, chao liệng mỗi lúc một thấp xuống bên trên. Để chống lại đội quân này, chúng tôi có hai đứa trẻ nhà Kane, Zia, và một con ma bọc như gói quà. Tôi không thích tỷ lệ chọi này chút nào.

“Sadie, em có thể tạo được cái cổng vượt lên bề mặt không?” tôi hỏi.

Con bé nhắm mắt tập trung. Nó lắc đầu. “Không thấy dấu hiệu của Isis. Có thể là do chúng ta đang ở quá gần Biển Hỗn Mang.”

Thật là một ý nghĩ ghê rợn. Tôi cố triệu hồi hóa thân của thần Horus. Không có gì xảy ra. Tôi cho là lẽ ra mình phải biết rằng ở dưới này rất khó mà điều khiển sức mạnh của ông ta, nhất là sau khi tôi đã yêu cầu vũ khí từ ông ta lúc còn ở trên thuyền, và cố lắm ông ta chỉ có thể cho tôi một cọng lông đà điểu.

“Zia?” tôi gọi. “Sức mạnh cậu có từ Khepri vẫn còn đang hoạt động. Cậu có thể đưa chúng ta ra khỏi đây không?”

Zia nắm chặt bùa hộ mạng bọ hung. “Tớ nghĩ không được rồi. Toàn bộ năng lượng của Khepri đang được sử dụng để che chắn chúng ta khỏi Hỗn Mang. Ông ta không thể làm gì hơn được nữa.”

Tôi tính đến chuyện chạy ngược về cột tháp trắng. Biết đâu chúng tôi có thể dùng nó để mở một cổng dịch chuyển. Nhưng rồi tôi nhanh chóng dẹp đi ý tưởng đó. Lũ quỷ sẽ ập xuống chúng tôi trước khi chúng tôi có thể đến được cột tháp.

“Chúng ta sẽ không thể thoát ra khỏi đây được rồi,” tôi quyết định. “Ta có thể gieo chú nguyền rủa lên Apophis ngay lúc này được không?”

Zia và Sadie đồng thanh: “Không.”

Tôi biết hai cô ấy nói đúng. Chúng tôi phải đứng đối mặt với Apophis thì câu thần chú mới có tác dụng. Nhưng tôi không thể tin được rằng bọn tôi đã tiến xa đến mức này rồi, chỉ để đến đây thì bị chặn lại.

“Ít nhất thì chúng ta có thể xông ra chiến đấu.” Tôi tháo móc câu và néo ra khỏi thắt lưng.

Sadie và Zia chuẩn bị sẵn sàng đũa phép và gậy.

Thế rồi, nơi đầu kia cánh đồng, một làn sóng hỗn loạn dấy lên qua từng dãy quỷ. Chúng bắt đầu từ từ quay đi khỏi chúng tôi, chạy bổ về hướng khác. Phía sau đoàn quân quỷ dữ ấy, những quả cầu lửa thắp sáng bầu trời. Từng cuộn khói bốc lên từ những miệng núi lửa mới mở ra trên mặt đất. Dường như có một trận chiến đang nổ ra ở đầu khác của cánh đồng.

“Chúng đang đánh ai thế?” tôi hỏi. “Đánh lẫn nhau ư?”

“Không.” Zia chỉ tay, nụ cười giãn ra trên khuôn mặt cô ấy. “Nhìn kìa.”

Nhìn xuyên qua bầu không khí mờ mịt thật chẳng dễ dàng gì, nhưng một mũi quân chiến binh đang từ từ tràn qua hàng hàng lớp lớp quỷ dữ ở phía sau. Quân số bên ấy ít hơn - chừng cỡ một trăm thôi - nhưng bọn quỷ phải nhường lối cho họ. Những tên nào không chịu nhường thì bị chém gục ngay, hay bị dày xéo, hoặc nổ tung lên như pháo hoa.

“Là các vị thần!” Sadie kêu lên.

“Không thể nào,” tôi nói. “Các vị thần sẽ không có hành quân vào trong Cõi Âm mà giải cứu chúng ta đâu!”

“Không phải mấy ông thần quan trọng, không.” Con bé cười toe với tôi. “Nhưng những thần già nua bị quên lãng từ Ngôi Nhà Sự Sống thì sẽ làm đấy! Anubis có nói anh ấy sẽ gọi quân tiếp viện.”

“Anubis hả?” giờ thì tôi rối túng lên rồi. Con bé gặp Anubis lúc nào vậy chứ?

“Kia kìa!” Sadie la lớn. “Ồ-!”

Con bé dường như quên mất phải nói thế nào. Nó chỉ vẫy vẫy ngón tay về phía những đồng hữu mới của chúng tôi. Một chiếc xe màu đen bóng lộn nhào vào chiến đấu. Tay tài xế hẳn là điên khùng lắm. Anh ta cày xuống đám quỷ, lăn lộn đủ cách để tông vào chúng. Anh ta nhảy qua những miệng núi lửa đang phừng phực rồi xoay vòng vòng, nhá đèn điên cuồng bóp còi inh ỏi. Rồi anh ta phóng thẳng đến khi những dãy quỷ đàng trước bắt đầu tản mác đi. Chỉ còn lại vài con quỷ có cánh gan dạ mới dám đuổi theo chiếc xe ấy.

Khi chiếc xe đến gần hơn, tôi có thể nhận ra đấy là một chiếc limousin Mercedes. Xe leo lên đồi, bám theo sau nó là những con quỷ dơi, rồi nó phanh ken két dừng lại giữa một đám bụi mù đỏ. Cửa bên tài xế mở ra, một người đàn ông nhỏ thó lông lá trong chiếc quần bơi Speedo bước ra.

Tôi chưa khi nào vui mừng đến thế khi gặp được một người xấu xí đến vậy.

Bes, trong vẻ huy hoàng xấu đau xấu đớn ấy, leo lên nóc xe mình. Ông ta quay lại đối mặt với đám quỷ dơi. Hai mắt ông ta lồi ra. Miệng há rộng đến không tưởng tượng. Lông tóc dựng lên chĩa ra như lông nhím, rồi ông ta quát, “BOO!”

Những con quỷ có cánh thét lên rồi tan hủy.

“Bes!” Sadie chạy bổ về phía ông ấy.

Vị thần người lùn cười tươi rói. Ông trượt xuống thùng xe, để có thể đứng ngang tầm Sadie khi con bé ôm chầm lấy ông.

“Con bé của ta có thế chứ!” ông nói. “Này Carter, xách đít đến đây nào!”

Ông ta cũng ôm lấy tôi nữa. Tôi thậm chí còn không thấy phiền khi ông ấy di di đốt ngón tay lên đầu mình.

“À Zia Rashid!” Bes rộng lượng kêu lên. “Tôi cũng dành cái ôm cho cô nữa-”

“Thôi khỏi đi ạ,” Zia vừa nói vừa thụt lùi. “Cảm ơn.”

Bes rống lên cười. “Cô nói phải. Để sau rồi hẵng ôm ôm ấp ấp. Chúng ta phải đưa các cô cậu ra khỏi đây!”

“Cái - cái lời chú về bóng ấy?” Sadie lắp bắp. “Thật sự có tác dụng sao?”

“Tất nhiên rồi, cô nhóc điên quá!” Bes xỉa ngón tay vào bộ ngực lông lá của mình, thế là đột nhiên ông ta vận vào bộ đồng phục của tài xế. “Giờ nào, lên xe đi!”

Tôi quay sang tóm lấy Setne thì... tim tôi gần như chững lại. “Ôi trời đất thánh thần Horus...” Tên pháp sư đã biến mất. Tôi rà mắt khắp khu vực theo mọi hướng, hy vọng hắn chỉ là nhúc nhích trốn đi thôi. Chẳng thấy bóng dáng hắn đâu.

Zia phù lửa vào nơi hắn từng nằm. Rõ ràng là, tên hồn ma ấy không chỉ biến thành vô hình thôi, vì không có tiếng thét nào vang lên cả.

“Setne vừa ở ngay đây cơ mà!” Zia tức tối. “Bị trói chặt bằng Dải băng Hathor! Làm sao mà hắn chỉ biến mất đi cơ chứ?”

Bes cau mày. “Setne hử? Ta ghét tên đê tiện đó lắm. Cô cậu đã lấy được bóng con rắn chưa?”

“Rồi,” tôi đáp, “Nhưng Setne đang giữ cuốn sách của thần Thoth.”

“Ta có thể gieo bùa nguyền rủa mà không có cuốn sách không?” Bes hỏi.

Sadie và tôi nhìn nhau.

“Được,” cả hai chúng tôi cùng đáp.

“Thế thì để sau chúng ta hẵng lo đến Setne,” Bes bảo. “Chúng ta không có nhiều thời gian đâu!”

Tôi nghĩ nếu phải di chuyển qua Vùng đất của Quỷ dữ thì limousin là loại xe cần thiết. Buồn thay, chiếc xe mới này của Bes chẳng sạch sẽ hơn gì chiếc chúng tôi đã bỏ lại đáy Địa Trung Hải mùa xuân vừa rồi. Tôi thắc mắc không biết có phải ông ấy đã đặt trước xe là phải ngập đầy rác hộp thức ăn Tàu, tạp chí bị dẫm nát, cùng quần áo bẩn không nữa.

Sadie ngồi ghế trước. Zia và tôi leo ra sau. Bes đạp nghiến chân ga rồi chơi trò tông thẳng vào quỷ.

“Năm điểm nếu ông có thể tông được gã có cái đầu dao phay kia!” Sadie gào lên.

Bùm! Đầu-dao-phay bay vèo qua mui xe.

Sadie vỗ tay. “Mười điểm nếu ông có thể tông vào hai cái thứ chuồn chuồn kia cùng một lúc.”

Bùm, bùm! Hai con bọ vô cùng lớn đập vào kính chắn gió.

Sadie và Bes cười như nắc nẻ. Còn tôi á, tôi thì bận kêu gào, “Miệng núi lửa kìa! Coi chừng! Mạch lửa đấy! Sang trái!”

Khi chúng tôi tiến vào tâm trận chiến, tôi có thể thấy các vị thần đang đẩy lùi đám quỷ. Trông có vẻ như toàn bộ cái Cộng đồng dưỡng lão đã xổ tung cơn cuồng nộ tuổi già vào các lực lượng bóng tối. Tawaret nữ thần hà mã đang dẫn đầu, trong trang phục y tá cùng giày cao gót, một tay quăng quật ngọn đuốc cháy rần rật còn tay kia là mũi kim tiêm dưới da. Cô ta vụt vào đầu một con quỷ, rồi chích vào mông một con khác, làm hắn ngay lập tức xụi lơ.

Hai ông già đóng khố khập khễnh đi quanh, tung cầu lửa lên trời rồi chú nguyền rủa những con quỷ biết bay. Một trong hai ông lão ấy luôn mồm thét lên, “Bánh pudding của ta!” không vì một lý do cụ thể nào.

Heket nữ thần ếch nhảy chồm chồm quanh trận địa, dùng lưỡi quật ngã bọn quái vật. Bà ta dường như đặc biệt ưu ái những con quỷ có đầu côn trùng. Cách đấy vài mét, Mekhit nữ thần mèo nghễnh ngãng đang quất vào đám quỷ bằng gậy chống, mồm la lớn, “Meo!” rồi rít lên.

“Ta có nên giúp họ không?” Zia hỏi.

Bes chậc lưỡi. “Họ không cần giúp đâu. Đây là trò vui nhất họ có trong mấy thế kỷ qua. Giờ họ lại sống có mục đích! Họ sẽ bọc hậu cho chúng ta rút lui trong khi ta đưa cô cậu đến sông.”

“Nhưng bọn tôi không còn thuyền nữa rồi!” tôi phản đối.

Bes nhướn một bên mày rậm rịt. “Cậu chắc không?” Ông ta cho chiếc Mercedex chạy chậm lại rồi hạ kính cửa sổ xuống. “Ê cưng! Có ổn không vậy?”

Tawaret quay lại nở nụ cười hà mã rạng ngời với Bes. “Bọn em ổn mà, anh yêu! Chúc may mắn nhé!”
”Anh sẽ quay lại!” Bes hứa. Ông ta gửi đi cái hôn gió, và tôi nghĩ Tawaret sắp ngất đi vì hạnh phúc mất.

Chiếc Mercedes phóng đi.

“Anh yêu á?” tôi hỏi.

“Ê cậu nhóc,” Bes lầu bầu, “ta có chỉ trích quan hệ tình cảm của cậu không vậy?”

Tôi chẳng có gan nhìn sang Zia, nhưng cô ấy siết chặt lấy tay tôi. Sadie im re. Có lẽ con bé đang nghĩ về Walt.

Chiếc Mercedes nhảy phóng qua kẽ nứt phụt lửa cuối cùng rồi dừng kít lại trên bờ biển xương.

Tôi chỉ vào xác tàu của Nữ hoàng Ai Cập. “Thấy chưa? Không còn thuyền nữa.”

“Ồ thế ư?” Bes hỏi lại. “Thế kia là gì?”

Ngược dòng sông, ánh sáng chói chang tỏa ra từ bóng tối.

Zia hít vào rõ sâu. “Ra,” cô nói. “Con thuyền mặt trời đang tiến đến.”

Khi ánh sáng di chuyển đến gần hơn, tôi nhận ra Zia nói đúng. Cánh buồm vàng-trắng soi rọi tia sáng. Những quả cầu sáng rực nhẹ nhàng lượn qua lượn lại trên boong tàu. Sobek vị thần đầu cá sấu đang đứng ở mũi tàu, cầm một cây gậy to gạt phăng đi đôi ba con quái vật dưới sông. Và đang ngự trên chiếc ngai rực lửa ngay chính giữa thuyền mặt trời là thần Ra quen thuộc.

“Oooooooi!” ông gọi lớn vọng qua mặt nước. “Chúng ta có bánh quy!”

Sadie hôn lên má Bes. “Ông thông minh tuyệt đỉnh!”

“Ê này,” vị thần chú lùn lẩm bẩm. “Cô sẽ làm Tawaret ghen cho mà xem. Chỉ tình cờ là thời điểm được phù hợp thôi mà. Nếu như nhỡ con thuyền mặt trời, thì chúng ta sẽ xui tận mạng ngay.”

Ý nghĩ ấy làm tôi rùng mình.

Hằng bao thiên niên kỷ nay, thần Ra đã theo một chu kỳ - bơi thuyền vào Cõi Âm lúc hoàng hôn, đi dọc theo con Sông của Màn đêm cho đến khi ông ấy lại trồi lên thế giới người bình thường vào bình minh. Nhưng đấy là cuộc hành trình một chiều, và con thuyền tuân theo thời gian biểu sít sao.

Khi thần Ra đi ngang qua vô số những Ngôi nhà của Màn đêm, thì cổng của những nơi này sẽ đóng lại cho đến đêm kế tiếp, khiến cho những kẻ du hành là người phàm như chúng tôi đây rất dễ bị mắc kẹt. Sadie và tôi trước đây từng kinh qua vụ này, và không hay ho vui vẻ gì cho cam.

Khi con thuyền mặt trời dạt vào bờ, Bes cười nhếch một bên miệng với chúng tôi. “Sẵn sàng chưa, mấy nhóc? Ta có cảm giác rằng mọi chuyện trên thế giới người thường sẽ không được dễ chịu đâu.”

Đây là điều phi ngạc nhiên đầu tiên tôi nghe được cả ngày hôm nay.

Những ánh đèn đang tỏa sang thả dài ván cầu, và chúng tôi leo lên thuyền để chào đón điều có thể là lần mặt trời mọc cuối cùng trong lịch sử.