← Quay lại trang sách

17.Nhà Brooklyn Tham Chiến.

TÔI THẤY TIẾC RẺ PHẢI RỜI KHỎI VÙNG ĐẤT CỦA QUỶ SỨ.

"Phải đấy, Carter, em nghiêm túc vô cùng."

Nói cho cùng, tôi đã có một cuộc ghé thăm đầy thành công ở đấy. Tôi đã cứu được Zia cùng ông anh trai của tôi khỏi tên hồn ma quá đáng Setne. Tôi đã bắt được cái bóng của con rắn. Tôi đã chứng kiến Cuộc tấn công của lữ đoàn Lão chiến binh cùng bao thắng lợi huy hoàng, và hơn hết, tôi đã được trùng phùng với Bes. Sao tôi lại không được có những kỷ niệm vui vẻ với nơi này cơ chứ? Tôi thậm chí ngày nào đó sẽ làm một kỳ nghỉ dưỡng du lịch biển ở đấy cho xem, thuê một túp lều xinh trên Biển Hỗn Mang. Sao lại không nhỉ?

Bao hoạt động chộn rộn ấy còn giúp tôi sao nhãng khỏi những ý nghĩ kém vui hơn. Nhưng một khi chúng tôi đến được bờ sông và tôi có được chút phút giây để thở, thì tôi lại bắt đầu nghĩ đến việc làm cách nào mình đã học được câu thần chú giải cứu cho bóng của Bes. Niềm hân hoan trong tôi biến ngay thành nỗi tuyệt vọng.

Walt – ôi Walt. Anh ấy đã là gì vậy chứ?

Tôi nhớ đến anh ấy đã lạnh lẽo không còn chút sức sống như thế nào, nằm lọt trong vòng tay tôi giữa đống gạch bùn hoang tàng. Rồi đột nhiên anh mở bừng mắt hớp hớp thở.

Nhìn này, anh đã bảo tôi.

Ngoài bề mặt, tôi vẫn nhìn thấy Walt như tôi đã luôn biết. Nhưng trong Cõi Âm thì… anh chàng thần Anubis tỏa sáng mờ mờ, vầng hào quang xam xám màu sắc của anh ta duy trì mạng sống cho Walt.

Vẫn là anh đây, hai người đồng thanh. Giọng nói kép của họ làm da tôi sởn ốc.

Anh sẽ gặp em vào lúc bình minh, họ hứa, tại Vùng Một, nếu em chắc là em không ghét anh.

Tôi có ghét anh ấy không? Hay là cả hai người họ? Thánh thần Ai Cập ôi, tôi thậm chí còn không rõ phải gọi anh ấy là gì nữa rồi! Tôi chắc chắn là không biết mình đang cảm thấy thế nào, hay liệu mình còn muốn gặp lại anh ấy không nữa.

Tôi cố gạt suy nghĩ ấy qua một bên. Chúng tôi vẫn còn cần phải đánh bại Apophis. Ngay cả đã bắt được bóng của nó rồi, cũng không có gì đảm bảo rằng chúng tôi sẽ bỏ bùa thành công. Tôi không cho là Apophis sẽ đứng ì ra đó trong khi chúng tôi ra sức tẩy xóa hắn ra khỏi vũ trụ này. Và hoàn tất rất có khả năng rằng việc nguyền rủa sẽ cần đến nhiều phép thuật hơn là tôi và Carter có, đó là đã kết hợp với nhau rồi ấy. Nếu chúng tôi tàn đời, tình trạng khó xử của tôi với Walt sẽ chẳng là rắc rối gì nữa.

Ấy vậy mà, tôi không thể thôi không nghĩ về Walt/ về hai người họ - về đôi mắt nâu ấm áp của họ hòa quyện vào nhau đến hoàn hảo, về nụ cười của Anubis trên mặt Walt trông tự nhiên đến lạ.

Hừ! Như thế này không có ích gì hết.

Chúng tôi leo lên con thuyền mặt trời – Carter, Zia, Bes và tôi. Tôi nhẹ người hết chỗ nói khi chú lùn yêu thích của tôi sẽ tháp tùng chúng tôi trong trận chiến cuối cùng. Lúc này đây tôi cần có một vị thần xấu hoắc đáng tin trong cuộc đời mình.

Nơi mũi tàu, Sobek kẻ cựu thù của chúng tôi nhìn tôi với nụ cười cá sấu, mà tôi nghĩ đấy là kiểu cười duy nhất gã có. “À… đám nhóc con nhà Kane đã quay về.”

“Á, à,” tôi quặc lại, “thần cá sấu muốn răng mình bị đạp thụt vào đây mà.”

Sobek hất cái đầu đóng vảy xanh lè của mình ra sau và cười lớn. “Nói hay lắm, bé con! Miệng nhà quan có gang có thép đấy.”

Tôi cho rằng câu đấy có nghĩa tán dương. Tôi quyết định nhếch mép cười với gã ta rồi quay lưng đi.

Sobek chỉ coi trọng sức mạnh. Trong lần giáp mặt đầu tiên, gã ta dìm Carter xuống dòng Rio Granda và bạt tôi một cú bay thẳng đến biên giới bang Texas và Mexico. Từ bấy đến nay chúng tôi cũng chẳng thân thiết gì hơn cả. Theo những gì tôi nghe thấy, thì gã ta chỉ đồng ý về phe chúng tôi vì Horus và Isis đã đe dọa gã sẽ gây ra tổn thương cơ thể trầm trọng. Việc này không nói lên được gì nhiều về lòng trung thành của gã.

Thủy thủ đoàn cầu lửa chấp chói quanh tôi, rì rà rì rầm trong trí tôi – những lời chào đón vui mừng: Sadie Sadie, Sadie. Ngày xửa ngày xưa, chúng cũng từng đã muốn giết tôi; nhưng từ khi tôi đánh thức ông chủ xưa của chúng là thần Ra, thì chúng trở nên khá thân thiện.

“Vâng, chào mấy chú,” tôi thì thầm. “Gặp lại mấy chú thích quá cơ. Xin lỗi nhé.”

Tôi theo bước Zia và Carter đến ngai vàng rực lửa. Thần Ra nhoẻn miệng răng rụng cười với chúng tôi. Ông ấy vẫn già nua nhăn nheo như thưở nào, nhưng dường như có gì đấy khang khác trong mắt ông. Trước kia, ánh nhìn của ông ta luôn trượt qua tôi như thể tôi chỉ là một phần trong khung cảnh. Giờ đây thì ông ấy thật sự chú mục vào mặt tôi.

Ông chìa ra một đĩa bánh macaroon và bánh quy sô cô la, hơi chảy nhão ra một chút vì sức nóng từ cái ngai ấy. “Bánh quy không? Wheee!”

“Ừ, cảm ơn ạ.” Carter nhón lấy một chiếc macaroon.

Dĩ nhiên, tôi thiên về sô cô la hơn. Tôi đã không có lấy một bữa ăn cho đàng hoàng kể từ khi chúng tôi rời khỏi phiên tòa của cha.

Thần Ra đặt đĩa xuống rồi run rẩy đứng dậy. Bes định đỡ cho, nhưng thần Ra khoa tay từ chối. Ông tập tễnh đi về phía Zia.

“Zia,” ông ta vui vẻ líu lo, như thể đang hát một bài hát ru. “Zia, Zia, Zia.”

Ngạc nhiên thật, tôi nhận ra đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy ông ta gọi tên thật của cô ấy.

Ông ta vươn tay ra chạm vào bùa hộ mạng bọ hung của Zia. Cô nàng sợ sệt lùi lại. Cô liếc sang Carter tìm sự trấn an.

“Không sao đâu,” Carter hứa.

Zia hít một hơi thật sâu. Cô tháo vòng cổ mình ra ấn nó vào bàn tay ông già. Một quầng sáng ấm áp từ con bọ hung tỏa ra, bao bọc lấy Zia và thần Ra trong ánh sáng vàng kim óng ánh.

“Tốt, tốt,” thần Ra nói. “Tốt…”

Tôi cứ tưởng vị thần già này sẽ trẻ khỏe ra chứ. Nhưng thay vì thế, ông ta lại bắt đầu sụm xuống.

Đấy là một trong những cảnh tượng đáng lo nhất mà tôi từng chứng kiến trong một ngày vô cùng đáng ngại. Đầu tiên hết là hai tay ông ta rụng đi tan biến thành bụi. Rồi da ông ta bắt đầu hóa thành cát.

“Chuyện gì đang xảy ra thế?” tôi la lên. “Ta nên làm gì đi chứ?”

Mắt Carter mở tròn kinh hoàng. Miệng anh ấy há ra, nhưng chẳng lời nào thốt lên được.

Gương mặt tươi cười của thần Ra biến mất. Hai tay hai chân ông ấy gãy lìa như một bức điêu khắc bằng cát khô. Các phần tử cơ thể ông ta tản mác đi khắp Dòng Sông Đêm.

Bes càu nhàu. “Nhanh thế.” Ông dường như không có vẻ gì là choáng váng cả. “Thường thì lâu hơn mà.”

Tôi trố mắt nhìn Bes. “Ông đã chứng kiến việc này trước kia á?”

Bes cười nửa miệng với tôi. “Này, ngày xưa ta đã luôn phiên làm việc trên con thuyền mặt trời này đấy. Bọn ta đều đã chứng kiến cảnh Ra kinh qua vòng luân hồi của mình. Nhưng đã là xa xưa lắm rồi. Nhìn kìa.”

Bes chỉ vào Zia.

Chiếc mặt dây chuyền bọ hung đã biến mất khỏi tay cô ấy, nhưng ánh sáng vàng óng vẫn còn tỏa ra quanh mình Zia như một vầng hào quang bao trọn cơ thể. Cô quay sang tôi với nụ cười rạng rỡ. Tôi chưa từng thấy Zia thoải mái, thỏa mãn đến thế này.

“Giờ thì ta nhìn thấy rồi.” Giọng Zia nghe đậm hơn, một dàn đồng ca đủ âm giọng từ cao xuống thấp xuyên qua Cõi Âm. “Cơ bản là sự cân bằng thôi, phải không nào? Suy nghĩ của tôi và của ông ta. Hay đây là suy nghĩ của ta và của cô bé nhỉ…?”

Zia cười khanh khách như đứa bé con lần đầu được đạp xe. “Cuối cùng cũng tái sinh rồi! Cô cậu nói phải đấy, Sadie và Carter! Sau bao nhiêu năm tháng sống trong bóng tối, ta rốt cuộc cũng được tái sinh nhờ lòng trắc ẩn của Zia. Ta đã quên mất được trẻ trung được mạnh mẽ là như thế nào rồi.”

Carter thụt lùi. Tôi không thể trách anh ấy. Ký ức về Walt và Anubis sát nhập làm một vẫn còn tươi nguyên trong trí óc tôi, nên tôi cảm nhận được Carter đang cảm thấy gì; nghe Zia tự gọi mình bằng ngôi nhân xưng thứ ba thì còn hơn cả rờn rợn.

Tôi hạ tầm nhìn của mình xuống sâu hơn vào trong Cõi Âm. Ngay chỗ Zia là một người đàn ông cao lớn mặc giáp bằng da và đồng đang đứng. Ông ta trông vẫn còn giống thần Ra trong nhiều mặt. Vẫn trọc lóc. Mặt vẫn nhăn nheo khắc khổ vì tuổi tác, và ông ta cũng có cùng nụ cười nhân từ (chỉ là có thêm răng mà thôi.) Nhưng giờ đây, dáng đứng của ông ấy đã thẳng thớm. Người cuồn cuộn cơ bắp. Làn da ánh lên như vàng nấu chảy. Ông này là đáng tuổi ông ngoại ông nội mà lại lực lưỡng, vàng óng nhất quả đất.

Bes quỳ xuống. “Kính mừng chúa thượng Ra.”

“A, anh bạn nhỏ của ta.” Thần Ra vò vò mái tóc của vị thần người lùn. “Đứng lên đi! Gặp lại ngươi thật tốt quá.”

Thấy Bes khấu đầu, Sobek đứng nghiêm lại, tay cầm thanh gậy dài bằng sắt như ôm súng. “Chúa thượng Ra! Tôi biết người sẽ trở lại mà.”

Thần Ra chậc lưỡi. “Sobek, tên bò sát lão luyện kia. Mi sẽ táp ta làm bữa tối ngay nếu mi biết mi có thể thoát tội. Horus và Isis ghìm ngươi ngoan ngoãn à?’

Sobek hắng giọng. “Thưa vâng, tâu đức vua.” Gã nhún vai. “Non sông dễ đổi, bản tính khó dời.”

“Chẳng sao,” thần Ra nói. “Bọn ta sẽ sớm cần đến sức mạnh của ngươi thôi. Chúng ta sắp tiến đến bình minh phải không?”

“Vâng, thưa đức vua.” Sobek chỉ tay về phía trước chúng tôi.

Tôi nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm – theo đúng nghĩa đen. Khi chúng tôi tiến gần đến phía cuối Cõi Âm, Dòng Sông Đêm mở rộng ra. Những cánh cổng lối ra đứng cách đây chừng một hai cây số, ánh sáng ban ngày đang chói chang. Dòng sông biến thành các đám mây đổ lên bầu trời ban mai.

“Tốt lắm,” thần Ra bảo. “Đưa chúng ta đến Giza nào, thần Sobek.”

“Vâng, thưa đức vua.” Vị thần cá sấu thọc cây gậy sắt xuống nước, chống chèo đưa chúng tôi đi như một tay chèo gondola.

Carter vẫn chưa nhúc nhích. Cậu chàng tội nghiệp trố mắt nhìn vị thần mặt trời nửa như tán thưởng nửa chừng choáng váng.

“Carter Kane,” thần Ra âu yếm gọi, “ta biết chuyện này khó khăn với cậu lắm, nhưng Zia rất quan tâm đến cậu. Tình cảm của cô ấy không có gì thay đổi cả.”

Tôi ho khan. “Ơ… yêu cầu nhé? Làm ơn đừng có hôn anh ấy.”

Thần Ra phá lên cười. Hình ảnh ông ấy lay động, và tôi lại thấy Zia đứng trước mặt mình.

“Ổn thôi Sadie à,” cô cam đoan. “Giờ sẽ không phải lúc.”

Carter ngượng nghịu quay đi. “Ừm… tôi sẽ… sang đằng kia.” Anh va vào cột buồm, rồi loạng choạng bước đi về phía đuôi thuyền.

Zia nhíu mày lo lắng. “Sadie, sang để mắt đến anh ấy nhé? Chúng ta sắp đến thế giới loài người rồi. Tôi phải đề cao cảnh giác.”

Duy lần này, tôi không cãi lại. Tôi muốn sang xem anh mình thế nào. Anh ấy đang ngồi ngay bánh lái trong tư thế rơi máy bay, đầu cho vào giữa hai gối.

“Ổn cả chứ?” tôi hỏi. Câu hỏi ngu ngốc, tôi biết.

“Cô ấy là một ông già,” Carter lẩm bẩm. “Cô gái anh thích lại là một ông già lực lưỡng có giọng nói trầm hơn giọng của anh. Anh đã hôn cô ấy trên bãi biển, mà giờ thì…”

Tôi ngồi cạnh anh mình. Những quả cầu phát sáng háo hức chấp chới quanh chúng tôi khi con thuyền tiến ra vùng ánh sáng ban ngày.

“Hôn cô ấy hử?” tôi hỏi. “Chi tiết xem nào.”

Tôi nghĩ biết đâu anh ấy sẽ thấy đỡ hơn nếu tôi có thể chọc cho anh ấy nói chuyện. Không rõ là có tác dụng gì không, nhưng ít ra như thế thì đầu anh ấy mới ngẩng lên khỏi hai gối. Carter kể cho tôi nghe về chuyến hành trình cùng Zia băng qua serapeum, và trận tàn phá trên con thuyền Nữ Hoàng Ai Cập.

Thần Ra – à không là Zia- đứng trên mũi tàu giữa Sobek và Bes, hết mức thận trọng không nhìn về phía chúng tôi.

“Vậy ra là anh đã bảo với cô ấy sẽ ổn thôi,” tôi kết lại. “Anh đã khuyến khích Zia giúp cho thần Ra. Rồi giờ đây anh lại đang ân hận.”

“Em trách anh sao?” Carter hỏi.

“Cả hai chúng ta đều làm vật chủ cho thần,” tôi nói. “Không cần phải suốt đời. Và cô ấy vẫn là Zia. Với lại, chúng ta đang tiến vào cuộc chiến. Nếu chúng ta không sống sót, anh có muốn trải qua những giờ cuối cùng của anh chối bỏ cô ấy không?”

Carter săm soi vẻ mặt tôi. “Chuyện gì đã xảy ra cho Walt?”

A… ngay tim đen. Đôi khi, có vẻ như Carter biết rõ bí danh của tôi cũng như tôi biết được tên anh ấy.

“Em… em không biết rõ lắm. Anh ấy còn sống, nhưng chỉ là nhờ -“

“Cậu ta đang làm vật chủ cho Anubis,” Carter nói nốt.

“Anh biết hả?”

Carter lắc đầu. “Nhìn thấy vẻ mặt đó của em anh mới biết. Nhưng như thế là hợp lý. Walt có cái tài… tài gì gì đấy. Tài chạm tay vào là hóa thành tro xám ấy. Pháp thuật là chết chóc.”

Tôi không thể đối đáp lại. Tôi ra sau này là để an ủi Carter và trấn an anh rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Giờ đây, chẳng biết thế nào, mà anh ấy lại xoay sở đổi ngược được thế cờ.

Carter thoáng đặt tay lên đầu gối tôi. “Chuyện này có thể có tác dụng, em gái à. Anubis có thể giữ cho Walt sống, Walt có thể có một cuộc sống bình thường.”

“Anh gọi thế là bình thường à?”

“Anubis chưa từng có một vật chủ là con người. Đây là cơ hội cho cậu ta có được một thân thể thực thụ, được làm người bằng da bằng thịt.”

Tôi rùng mình. “Carter, đây không giống như tình huống của Zia. Cô ấy có thể tách rời ra bất cứ lúc nào.”

“Vậy để anh nói xem có đúng không nhé,” Carter bảo. “Hai cậu con trai mà em thích – một cậu thì đang chết dần còn cậu kia thì nằm ngoài giới hạn vì cậu ta là thần – giờ chỉ là một người, không phải đang chết dần mà cũng không nằm ngoài giới hạn cho phép. Vậy mà em lại đang than phiền.”

“Đừng làm cho em nghe như là lố bịch chứ!” tôi thét lên. “Em không phải lố bịch!”

Ba vị thần quay lại nhìn tôi. A. Được thôi. Quả là tôi nghe có vẻ lố bịch thật.

“Nghe này,” Carter nói, “thôi ta hãy chấp nhận phát hoảng lên về chuyện này sau nhé, được không? Cho là chúng ta không chết ấy.”

Tôi run rẩy hít vào. “Được.”

Tôi giúp anh trai đứng dậy. Chúng tôi cùng nhau lên đứng với các thần nơi mũi tàu khi con thuyền mặt trời trồi lên khỏi Cõi Âm. Dòng Sông Đêm biến mất phía sau chúng tôi, và chúng tôi lướt thuyền qua các đám mây.

Quang cảnh Ai Cập trải rộng những sắc màu xanh lục, vàng và đỏ trong ánh bình minh. Ở phía tây, những cơn bão cát cuộn xoáy qua sa mạc. Về phía đông, dòng sông Nile ngoằn ngoèo uốn lượn xuyên qua Cairo. Ngay bên dưới chúng tôi, ở ven rìa thành phố, ba Kim Tự Tháp nhô lên khỏi bình nguyên Giza.

Sobek gõ cây gậy của mình lên mũi thuyền. Gã hô lớn tiếng như một sứ giả: “Cuối cùng, thần Ra đã thực sự trở lại! Hỡi thần dân của người hãy hoan hỉ! Hỡi những kẻ thờ phụng người hãy tập hợp lại!”

Có lẽ Sobek nói thế chỉ là nghi thức lễ nghĩa thôi, hay là để ton hót thần Ra, hay có thể là để khiến cho vị thần mặt trời già nua thấy khó chịu hơn. Dù là để làm gì đi nữa, thì vẫn chẳng có ai bên dưới kia đang tập hợp lại. Mà dứt khoát là không ma nào đang hoan hỉ.

Tôi đã trông thấy cảnh vật này lắm lần, nhưng có gì đó không phải. Lửa cháy khắp thành phố. Đường phố dường như trống hoác kỳ lạ. Không có khách du lịch, không một con người nào quanh các Kim Tự Tháp. Tôi chưa bao giờ thấy Giza trống vắng đến vậy.

“Mọi người đâu cả rồi?”

Sobek rít lên kinh tởm. “Lẽ ra ta phải biết chứ nhỉ. Bọn người phàm yếu đuối đang ẩn nấp hoặc khiếp hãi tránh đi vì tình trạng náo loạn ở Ai Cập. Apophis đã lên kế hoạch cho việc này rất khéo. Bãi chiến trường của hắn sẽ không có bóng dáng những thứ người phàm đáng ghét.”

Tôi rùng mình. Tôi có nghe đến những rắc rối tại Ai Cập dạo gần đây, cùng với cả các thiên tai kỳ quái, nhưng tôi lại không nghĩ đấy là một phần trong kế hoạch của Apophis.

Nếu đây là chiến trường mà hắn chọn…

Tôi chú mục sát vào vùng đồng bằng Giza. Nhìn xuyên vào Cõi Âm, tôi nhận thấy ít ra khu vực này không hoàn toàn trống rỗng. Đang bọc vòng quanh chân Kim Tự Tháp Lớn là một con rắn khổng lồ được hình thành từ những cơn lốc xoáy cát đỏ cùng bóng tối. Hai mắt hắn là hai đốm sáng cháy rực. Nanh của hắn là những tia chớp. Bất cứ nơi nào hắn chạm vào, sa mạc sục sôi lên, còn bản thân Kim Tự Tháp thì lại lắc lư phát ra tiếng vang vọng kinh hồn. Một trong những kiến trúc lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại đang sắp sửa đổ sụm.

Dù là ở cao trên này, tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện của Apophis. Hắn lan tỏa ra sự hoảng loạn cùng sợ hãi cường độ mạnh đến nỗi, tôi có thể cảm nhận được những người thường ở khắp Cairo đang rúm ró lại trong nhà, sợ không dám đi ra ngoài. Toàn bộ đất trời Ai Cập đang nín thở.

Trong khi chúng tôi quan sát, Apophis ngẩng cái đầu rắn hổ mang to lớn của hắn lên. Hắn đánh xuống nền sa mạc, tạo thành một miệng núi lửa cỡ bằng cái nhà trong cát. Rồi hắn cuộn mình lại như thể vừa bị chích phải, và rít lên giận dữ. Thoạt tiên tôi không thể nhìn ra hắn đang chiến đấu với thứ gì. Tôi lôi khả năng mắt chim rình mồi của Isis ra và nhìn thấy một bóng hình uyển chuyển nhỏ nhắn trong bộ áo quần ôm họa tiết da báo, những lưỡi dao loang loáng từ cả hai tay khi cô ấy nhảy vọt lên với sự nhanh nhẹn cùng vận tốc không phải của người, tấn công vào con rắn đồng thời né tránh cái đớp của nó. Một thân một mình, Bast đang cắm chân Apophis.

Miệng tôi đắng chát. “Cô ấy có một mình. Những người khác đâu?”

“Họ đang đợi hiệu lệnh của pharaoh,” thần Ra bảo. “Hỗn Mang đã khiến cho họ bị chia rẽ và hoang mang, lo lắng. Họ sẽ không xông pha vào trận chiến mà không có người cầm đầu.”

“Thế thì lãnh đạo họ đi chứ!” tôi yêu cầu.

Vị thần mặt trời quay lại. Hình dáng ông ta mờ đi, và trong một khoảnh khắc tôi trông thấy vào đó là Zia trước mắt mình. Tôi lo không biết cô ấy có khè lửa đốt tôi thành tro không nữa. Tôi có cảm giác rằng lúc này việc ấy với Zia dễ như trở bàn tay.

“Ta sẽ đối mặt kẻ cựu thù của ta,” Zia bình thản nói, vẫn bằng giọng của thần Ra. “Ta sẽ không để cho con mèo trung thành của ta phải chiến đấu một mình. Sobek, Bes – theo ta.”

“Vâng thưa đức vua,” Sobek đáp.

Bes bẻ ngón tay răng rắc. Bộ phục trang tài xế của ông ấy biến mất, thay vào đó là bộ đồ nhái Vinh dự Chú lùn. “Hỡi Hỗn Mang… chuẩn bị mà gặp Xấu Xí này.”

“Chờ đã,” Carter gọi. “Thế còn chúng tôi thì sao? Chúng tôi có cái bóng của con rắn mà.”

Lúc này con thuyền đang rơi xuống rất nhanh, sắp sửa đáp xuống ngay phía ngoài các Kim Tự Tháp.

“Chuyện quan trọng phải làm trước, Carter.” Zia chỉ về phía Đại Nhân Sư, đứng cách những Kim Tự Tháp chừng ba trăm mét. “Cậu và Sadie phải giúp cho chú của hai người.”

Giữa móng vuốt của tượng Nhân Sư, một vệt khói từ cửa vào đường hầm bốc lên. Tim tôi hụt nhịp. Zia từng bảo với chúng tôi rằng đường hầm ấy đã được niêm kín như thế nào để ngăn không cho những nhà khảo cổ tìm được đường tới Vùng Một. Rõ ràng là, đường hầm ấy đã bị phá mở.

“Vùng Một sắp thất thủ,” Zia nói. Hình dáng cô ấy biến đổi, và vị thần mặt trời lại đang đứng trước mặt tôi. Tôi thật lòng mong sao ông ấy/cô ấy quyết định dứt khoát cho rồi.

“Ta sẽ giữ chân Apophis lâu hết mức có thể,” thần Ra nói. “Nhưng nếu cô cậu không giúp ngay cho chú cùng các bạn của mình, thì sẽ chẳng còn mạng nào để mà cứu nữa đâu. Ngôi Nhà Sự Sống sẽ sụp đổ.

Tôi nghĩ đến chú Amos đáng thương cùng các học sinh nhỏ tuổi của chúng tôi, bị một đám pháp sư phiến loạn bao quanh. Chúng tôi không thể để cho họ bị sát hại.

“Chị ấy nói phải,” tôi bảo. “E hèm, ông ấy nói phải đấy. Ông hay cô gì cũng vậy.”

Carter lưỡng lự gật đầu. “Ông sẽ cần thứ này, thần Ra.”

Anh chìa móc câu và néo ra cho vị thần mặt trời, nhưng thần Ra lắc đầu. Hay là Zia lắc đầu. Trời đất thánh thần Ai Cập ơi, chuyện này rối loạn quá!

“Khi ta bảo với cậu là các vị thần đang chờ pharaoh của họ,” thần Ra bảo, “thì ý ta nói đến cậu đấy, Carter Kane, Con mắt của Horus ạ. Ta có mặt ở đây là để chiến đấu với kẻ thù lâu đời của mình, chứ không phải để tiếm lấy ngai vàng. Đấy mới là số phận của cậu. Đoàn kết Ngôi Nhà Sự Sống lại, lãnh đạo các vị thần nhân danh ta. Đừng bao giờ lo sợ, ta sẽ cầm chân Apophis cho tới khi cậu đến.”

Carter nhìn trân trối vào móc câu và néo trên tay mình. Anh ấy trông khiếp hãi y chang như khi nhìn thấy thần Ra tan ra thành cát.

Tôi không thể trách anh ấy. Carter vừa mới được lệnh phải lên ngôi vua của nền sáng tạo và dẫn dắt một đội quân pháp sư cùng thần vào cuộc chiến. Một năm trước, thậm chí là sáu tháng trước thôi, cái ý tưởng rằng anh trai tôi được trao cho loại trọng trách như thế cũng sẽ làm tôi phát hoảng như vậy.

Lạ lùng thay, bây giờ tôi lại không thấy như vậy. Nghĩ về Carter như một pharaoh quả thực lại rất an lòng. Tôi dám chắc mình sẽ hối hận khi nói thế này, và tôi đảm bảo Carter sẽ không bao giờ để tôi quên điều sẽ nói đi, nhưng sự thật là từ dạo chúng tôi dọn đến Nhà Brooklyn thì tôi đã đặt lòng tin vào anh trai mình. Tôi trở nên phụ thuộc vào sức mạnh của anh ấy. Tôi tin tưởng anh ấy sẽ đưa ra quyết định đúng đắn, ngay cả khi anh ấy không tin tưởng chính mình. Khi biết được bí danh của Carter, tôi đã nhìn thấy một nét rõ rệt đan quyện vào tính cách của anh ấy: tài lãnh đạo.

“Anh sẵn sàng rồi đấy,” tôi bảo Carter.

“Quả vậy,” thần Ra đồng tình.

Carter ngước nhìn lên, có chút sững sờ, nhưng tôi nghĩ anh ấy có thể nhận biết là tôi không phải đang trêu anh – không phải lần này.

Thần Bes thụi vào vai Carter. “Dĩ nhiên là cậu đã sẵn sàng rồi mà nhóc. Thôi nào, đừng phí phạm thời gian nữa mà hãy đi cứu chú của cậu đi!”

Nhìn sang Bes, tôi cố không để mắt mình ngấn lệ. Tôi đã mất ông ấy một lần rồi.

Về phần thần Ra, ông ấy có vẻ rất tự tin, nhưng vẫn còn bị giới hạn trong hình dạng của Zia Rashid. Cô ấy là một pháp sư mạnh mẽ, phải đấy, nhưng vẫn còn lạ lẫm với vụ làm vật chủ này. Nếu cô ấy chỉ nao núng chút xíu thôi, hay cố quá sức mạnh, thì…

“Thế thì thôi, chúc may mắn.” Carter nuốt khan. “Hy vọng là…”

Anh ngập ngừng. Tôi nhận ra anh chàng tội nghiệp đang cố chào từ biệt bạn gái, có thể là lần cuối cùng, nhưng lại không thể hôn cô ấy mà không phải hôn luôn thần mặt trời.

Carter bắt đầu chuyển đổi hình dạng. Quần áo, ba lô, thậm chí cả móc câu và néo đều cuộn lại thành một bộ lông chim. Hình dạng anh thu nhỏ cho đến khi anh là một con chim ưng màu nâu – trắng. Rồi anh sải cánh chao đi từ mạn thuyền.

“Ôi mình ghét phần này quá,” tôi làu bàu.

Tôi gọi cho Isis mời bà ta nhập cuộc: Nào. Đến lúc chúng ta phải hành động như một.

Ngay lập tức năng lượng từ nữ thần tuôn chảy vào tôi. Cảm giác như là ai đó vừa bật mở máy phát thủy điện đủ để thắp sáng cả một quốc gia rồi điều chuyển toàn bộ sức mạnh đó thẳng vào trong tôi. Tôi biến thành một con diều (hâu) lao vút lên không trung.

ﻤﻤﻤ

Duy lần này, tôi không gặp rắc rối trong việc hóa trở lại thành người. Carter và tôi hẹn gặp nhau dưới chân tượng Đại Nhân Sư rồi nghiên cứu lối vào đường hầm vừa bị đánh sập. Đám phiến loạn đã không nương tay gì. Các khối đá to như ô tô đã biến thành đá vụn. Phấn cát bao quanh đen thui chảy tan thành thủy tinh. Đoàn quân của Sarah Jacobi đã dùng đến câu thần chú ha-di hoặc là rất nhiều cuộn thuốc nổ.

“Đường hầm này…” tôi lên tiếng. “Chẳng phải đầu kia mở ra ngay đối diện Sảnh Thời Đại sao?”

Carter khắc khổ gật đầu. Anh lôi móc câu và néo ra, lúc này đang tỏa sáng ánh lửa trắng ma quái. Anh chìm vào trong bóng tối. Tôi triệu hồi gậy cùng đũa phép của mình rồi theo bước anh vào trong.

Khi bước xuống, chúng tôi nhìn thấy bằng chứng của cuộc chiến. Những vụ nổ làm cháy xém vách tường lẫn bậc cấp. Một phần trần hầm bị oằn xuống. Carter vừa phát quang ra một lối đi sử dụng sức mạnh của thần Horus, nhưng ngay khi chúng tôi đi qua, trần hầm đổ sập xuống sau lưng chúng tôi. Thế này thì chúng tôi chẳng phấn khởi gì nữa.

Bên dưới chúng tôi, tôi nghe thấy âm thanh giao chiến – những từ thần thánh được hô vang; pháp thuật lửa, nước cùng đất đang xung đột với nhau. Một con sư tử rống lên. Kim loại loảng xoảng va vào kim loại.

Cách đấy thêm vài mét, chúng tôi tìm thấy thương vong đầu tiên. Một thanh niên trong bộ quân phục xám rách lá tả tơi đang chống tựa vào tường, tay ôm bụng thở khò khè đau đớn.

“Leonid!” tôi thét lên.

Cậu bạn người Nga của tôi xanh lè đầy máu. Tôi đặt tay lên trán cậu ấy. Da cậu lạnh ngắt.

“Dưới kia,” cậu ngáp ngáp. “Nhiều quá. Tôi cố -“

“Ở yên đây,” tôi nói, rồi nhận ra nói thế ngớ ngẩn quá, vì cậu ấy có nhúc nhích được đâu. “Bọn tôi sẽ quay lại với viện trợ.”

Leonid can trường gật đầu, nhưng tôi nhìn Carter và biết chúng tôi cùng nghĩ như nhau. Có lẽ Leonid không thể sống nổi đến đấy. Chiếc áo khoác quân phục của cậu ấy đẫm máu. Cậu đang che tay ngang bụng, nhưng rõ ràng cậu ấy bị đả thương nghiêm trọng – do móng vuốt hay dao hay thứ pháp thuật khủng khiếp không kém nào đấy.

Tôi tung thần chú Làm Chậm lên Leonid, ít nhất lời chú này giúp ổn định hơi thở của cậu ấy và chặn dòng máu chảy, nhưng sẽ chẳng giúp được gì nhiều hơn thế. Anh bạn đáng thương này đã liều cả mạng mình để đào thoát khỏi St. Petersburg. Cậu ấy đã đến tận Brooklyn để cảnh báo với tôi về cuộc tấn công sắp đến. Giờ thì cậu đã ra sức bảo vệ cho Vùng Một chống lại những người chủ cũ của mình, thế là chúng chém gục cậu rồi bước thẳng qua thân cậu, bỏ mặc cậu lại đây vật vã chết dần chết mòn.

“Bọn tôi sẽ quay lại,” tôi lại hứa.

Carter và tôi loạng choạng đi tiếp.

Chúng tôi xuống đến bậc thang cuối cùng thì bị ném ngay vào cuộc chiến. Một con sư tử shabiti nhảy bổ vào mặt tôi.

Nữ thần Isis phản ứng nhanh hơn tôi. Bà cho tôi một từ một để nói ra: “Fah!”

Thế là chữ tượng hình mang nghĩa Giải Phóng lấp lánh trong không trung:

Con sư tử teo lại thành bức tượng nhỏ bằng sáp mà nhảy lên nhảy xuống vô hại trên ngực tôi.

Quanh chúng tôi, toàn hành lang đang trong tình trạng lộn xộn. Ở cả hai đầu, các học viên vỡ lòng của chúng tôi đang miệt mài giao chiến với những pháp sư thù địch. Ngay trước mặt chúng tôi, một tá những tên phản loạn đã tạo thành một mũi nêm chặn đứng các cánh cửa dẫn vào Sảnh Thời Đại, còn những bạn hữu của chúng tôi thì dường như đang cố xông qua chúng.

Trong một khoảnh khắc, với tôi tình hình này dường như ngược ngạo. Chẳng phải phe chúng tôi phải đang bảo vệ mấy cánh cửa sao? Rồi tôi hiểu được chuyện chắc hẳn đã xảy ra. Cuộc tấn công trong đường hầm đã được niêm phong đã làm quân đồng minh của chúng tôi bất ngờ. Họ đã vội lao đi trợ giúp cho chú Amos, nhưng khi đến được mấy cánh cửa, thì kẻ thù đã ở trong ấy rồi. Giờ thì đám này đang cố ngăn không cho quân tiếp viện của chúng tôi đến được chỗ chú Amos, trong khi chú của chúng tôi đang ở bên trong sảnh, có thể là đơn phương độc mã, đối mặt với Sarah Jacobi cùng đội quân tinh nhuệ của ả.

Nhịp mạch tôi rần rật. Tôi xông vào chiến trận, phóng vun vút những câu thần chú từ cái danh sách phong phú đến không ngờ của nữ thần Isis. Cảm giác lại được làm nữ thần mới sảng khoái làm sao, nhưng tôi phải cẩn thận để mắt đến nguồn năng lượng của mình. Nếu tôi mà mặc cho Isis tự tưng tự tác, nữ thần sẽ tiêu diệt kẻ thù của mình trong giây lát mà thôi, nhưng đồng thời trong quá trình ấy bà cũng sẽ vắt kiệt tôi. Tôi phải chế ngự khuynh hướng muốn nghiền nát những kẻ người phàm yếu ớt thành tro bụi của bà ấy.

Tôi quăng đũa phép của mình đi như ném bu-mơ-răng đánh trúng vào một pháp sư to lớn, râu ria, đang quát tháo bằng tiếng Nga khi hắn đang đọ kiếm với Julian.

Tên người Nga biến mất sau một tia chớp vàng lóa. Nơi hắn từng đứng, một con chuột hamster kêu chin chít lên báo động rồi lút cút chạy đi mất. Julian cười toe toét với tôi. Lưỡi kiếm của cậu ấy bốc khói còn phần lai quần xăn lên của cậu đang bắt lửa, nhưng ngoài ra thì cậu trông vẫn ổn.

“Đến lúc rồi đấy!” cậu bảo.

Một tên pháp sư khác tấn công vào cậu, thế là chúng tôi không còn thời gian tán gẫu nữa.

Carter bươn chải lên trước, tay loang loáng móc câu cùng néo như thể anh ấy đã luyện tập với chúng cả đời rồi vậy. Một tên pháp sư bên địch triệu gọi con hà mã – tôi thấy làm thế là bất lịch sự quá, khi mà chúng tôi đang ở trong một khoảng không gian chật chội thế này. Carter dùng néo xả xuống con hà mã, mỗi một gai mắt xích trở thành sợi thừng rực lửa. Con hà mã đổ sụm, bị cắt thành ba phần, rồi chảy thành một đống sáp.

Những người bạn khác của chúng tôi cũng đang không đến nỗi nào. Felix dùng thần chú đóng băng mà trước đây tôi chưa từng thấy – bọc lấy kẻ thù của cậu trong mấy con người tuyết phốp pháp, dứt điểm với mũi cà rốt và ống điếu. Đội quân chim cánh cụt của cậu lạch bạch xung quanh, mổ vào những tên pháp sư địch và chôm chỉa đũa phép của chúng.

Alyssa đang chiến đấu chống lại một kẻ dùng phép thuật của đất, nhưng mụ người Nga này rõ là không có cửa. Chắc hẳn trước đây mụ ta chưa từng thấy sức mạnh thần Geb bao giờ. Cứ mỗi lần mụ người Nga triệu ra một sinh vật làm từ đá hay cố ném tảng đá đi, thì những đợt tấn công của ả tan ra thành đá vụn. Alyssa búng tay, nền hầm biến thành cát lún dưới chân kẻ thù của cô. Mụ người Nga lún xuống đến tận vai, kẹt cứng.

Ở đầu kia hành lang, Jaz khom mình cạnh Cleo, chăm lo cho cánh tay của cô ấy, đã bị biến thành hoa hướng dương. Nhưng mà Cleo đã áp đảo được kẻ thù của mình. Nằm dưới chân cô ấy là bộ tiểu thuyết David Copperfield to như người thật, mà tôi có cảm giác bộ sách này từng là pháp sư thù địch với chúng tôi.

(Carter bảo tôi rằng David Copperfield là nhà ảo thuật. Anh ấy thấy chuyện này buồn cười vì sao đấy. Bạn lờ anh ta đi. Tôi làm thế đấy.)

Ngay cả đám cạp-mắt-cá của chúng tôi cũng hành động. Nhóc Shelby đã rải bút chì màu dọc hành lang để kẻ thù đạp ngã. Giờ thì con bé đang vung vẩy đũa phép như vợt tennis, chạy len lỏi qua chân các pháp sư người lớn, đập vào mông chúng mà gào lên, “Chết đi, chết đi, chết đi!”

Trẻ con có đáng yêu không nào?

Con bé vọt vào một chiến binh kim loại to tướng, là shabti không nghi ngờ gì nữa, thế là hắn biến thành một con heo bụng ỏng bảy sắc cầu vồng. Nếu chúng tôi sống sót qua hôm nay, tôi có cảm giác rất xấu là Shelby sẽ muốn giữ lấy con heo ấy.

Vài cư dân trong Vùng Một đang giúp chúng tôi, nhưng ít ỏi thấy thương. Loe ngoe mấy pháp sư già khập khiễng cùng các lái thương tuyệt vọng đang ném bùa và đánh chệch thần chú.

Chậm mà chắc, chúng tôi tràn đến cửa, nơi mũi nhọn chính của quân thù dường như đang tập trung vào một người tấn công duy nhất.

Khi nhận ra đấy là ai, tôi chỉ muốn biến mình thành chuột hamster mà chin chít lủi đi.

Walt đã đến. Anh ấy đánh toạc qua hàng ngũ quân thù bằng tay không – quẳng một pháp sư địch qua hành lang bằng sức mạnh phi phàm, chạm vào một tên khác và ngay lập tức bọc tên đấy vào trong vải ướp xác. Anh chộp lấy gậy của một tên nổi loạn thứ ba, thế là cây gậy vụn ra thành bụi. Cuối cùng Walt quạt tay về phía những tên địch còn lại, chúng teo nhỏ thành cỡ búp bê. Những hũ quách – loại dùng để chôn nội tạng của xác ướp – bật ra quanh mỗi tên pháp sư bé xíu ấy, nút chúng lại bằng những cái nắp có hình dáng như đầu thú. Mấy tên pháp sư tội nghiệp tuyệt vọng kêu gào, đập đầu vào những lọ đựng bằng đất sét rồi đi lảo đảo như một dãy những quả ki bowling không được vui.

Walt quay sang những người bạn của chúng tôi. “Mọi người ổn cả chứ?”

Anh trông giống như một Walt bình thường của ngày xưa – cao lớn, cơ bắp, cùng gương mặt tự tin, đôi mắt nâu dịu dàng, và bàn tay rắn rỏi. Nhưng quần áo của anh đã thay đổi. Walt mặt quần jean, áo phông mang chữ Dead Weather, và áo khoác da màu đen – là phục trang của Anubis, với kích cỡ vừa vặn vóc dáng của Walt. Tôi chỉ cần phải hạ tầm nhìn vào Cõi Âm, một chút thôi, là thấy ngay Anubis đang đứng đấy trong dáng vả đẹp ngời đáng ghét ấy. Cả hai người họ - choán lấy cùng một chỗ.

“Sẵn sàng đi,” Walt bảo đội quân của chúng tôi. “Chúng đã niêm các cánh cửa, nhưng tôi có thể -“

Rồi anh nhìn thấy tôi, giọng anh lạc đi.

“Sadie,” anh nói, “Anh -“

“Mở cửa làm sao nào?” tôi gặng hỏi.

Anh câm lặng gật đầu.

“Chú Amos ở trong đó à?” tôi hỏi. “Đang đánh nhau với Kwai và Jacobi cùng ai biết là kẻ nào nữa đây chứ?”

Anh lại gật.

“Thế thì đừng có trố mắt nhìn tôi mà mở cửa ra đi, cái đồ đáng ghét!”

Tôi đang bảo với cả hai người họ. Cảm giác thật tự nhiên. Và cũng thật thoải mái khi giải thoát nỗi giận dữ của mình ra ngoài. Để sau tôi sẽ xử lý hai tên ấy – tên ấy – gì cũng được. Còn ngay lúc này đây, chú tôi đang cần tôi.

Walt Anubis dám cả gan mỉm cười.

Anh đặt tay lên cánh cửa. Tro xám lan tỏa khắp bề mặt. Cánh cửa đồng tan ra thành bụi.

“Mời em trước,” anh bảo tôi, rồi chúng tôi xông vào Sảnh Thời Đại.