← Quay lại trang sách

- IV -

DƯƠNG chấp Nhất đang ngồi hầu chuyện Mạc đăng Dung ở trong cung, thì Vương Phủ vào tâu việc Vũ công Duệ sỉ mắng mình, Đặng Dung xầm nét mặt lại:

- Tên hủ nho láo thực, trẫm không thể nhịn được nữa,

Chấp Nhất gạt đi, tâu:

- Bọn nho giả vốn có tính cố chấp, lại tự phụ mình là chân khoa mục, khinh bỉ kẻ vũ dũng. Lúc này bệ hạ phải tỏ ra có độ lượng biết dung tha thù địch thì bốn phương hào kiệt mới chịu phục tòng. Ta cứ dùng tiền tài danh lợi, duy hệ nhân tâm, lâu ngày lòng hoài niệm Lê triều cùng phải tiêu trầm trong cảnh giầu sang, bọu sĩ phu dù quật cường đến đâu cũng bị đời sống vật chất cám dỗ và thay đổi chí hướng,

Nguyễn Áng tiếp:

- Vũ công Duệ thì không cần, nhưng vợ hắn là Đặng thị tài giỏi vô cùng, nếu không giết đi thì thật đáng lo ngại về sau.

Đăng Dung ngạc nhiên phán hỏi:

- Đặng thị là ai?

- Đặng thị tên thực là Thúy Nga con gái viên tri phủ ở Sơn vi (Sơn tây) là Đặng Mộc. Nguyên Duệ ở làng Trinh Xá (Sơn tây) hồi còn nhỏ rất thông minh, chơi với trẻ con thường lấy đất nặn hình con voi, lấy 4 con cua làm chân, bắt hai con bướm làm hai tai, cắm con dỉa làm vòi, lấy con giun làm đuôi, thành ra voi đất mà đi được, hai tai vẫy được, vòi co lên ruổi xuống được, đuôi ve vẩy. AI trông thấy cũng chịu là ranh mãnh.

Một hôm, Đặng Mộc đi qua thấy thế, lẩy làm lạ cho gọi lên hỏi chuyện, thì Duệ ứng đổi nhanh nhẹn, trong bụng yêu lắm, liền thưởng cho một quan tiền. Cha mẹ Duệ nhà nghèo, Đặng Mộc xuất tiền ra cho Duệ đi học, nhớn lên Duệ thi hương đổ thủ khoa, rồi kết duyên với Đặng thúy Nga. Năm Hồng đức thứ 23, Duệ đỗ trạng, nguyên lúc ấy mới có 20 tuổi. Đặng thị năm lên 10 theo học một ngngười Tầu, không những thông hiểu lý số mà giỏi cả binh pháp, nếu để người ấy trốn mất thì là một cái họa lớn cho triều đình.

Mạc đăng Dung tiếp:

- Hay đem giết đi vậy.

Dương chấp Nhất can rằng:

- Nhân tài trong thiên hạ ít, mười vạn quân dễ kiếm nhưng một tướng giỏi khó tìm. Bệ hạ mới lên ngôi chưa thi ân gì cho dân chúng mà đã sát hại công thần, thật không nên lắm.

Đăng Doanh cũng nói thêm vào:

- Phụ vương nên nghe lời Dương chấp Nhất mở lượng khoan hồng, bỏ lòng nghi kỵ, thì các quan mới đỡ sợ mà thực dạ giúp mình. Phụ vương nên giáng chiếu bổ nhiệm Nguyễn Kim trấn thủ Tây Đô, còn Vũ công Duệ thì chỉ dùng lời lẽ khôn khéo dụ dần.

Mạc đăng Dung khen phải lập tức hạ chiếu cử An thành hầu cai trị Tây đô.

Nguyễn Kim nhận được chiếu chỉ, mừng rú lên, liền báo tin cho vợ con biết để sửa soạn đi nhậm chức. Kim lại định sang nhà Vũ công Duệ rủ cùng trốn đi nhưng trưởng nữ là Ngọc Bảo can rằng:

- Phụ thân đang lâm vào cá chậu chim lồng thoát chết được là may, lại mua dây buộc vào mình e rằng khó tránh được tầm con mắt cú vọ. Vả lại Đặng phu nhân không phải là người tồm thường, chắc him sẽ trù-tinh n,ọi việc dâu đấv rồi, chẳng chịu ngửa cô chịu chết đâu.

Nguyễn Uông cũng nói:

- Ta đã nắm chiếu chỉ trong tay, nhanh chân đi nhanh là đắc sách. Nếu trùng trình sợ Mạc Thị đổi lòng thì khó tìm được cơ hội tốt.

Nguyễn Kim nghe lời, hối gia nhân thu xếp hòm xiểng quần áo. Con giai là Nguyễn Hoàng vội can:

- Phụ thân hấp tấp đi ngay thì bị bắt.

Nguyễn Kim ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậy?

- Mạc đăng Dung vốn tính đa sát và hay nghi ngờ, sở dĩ để yên cho cha con ta, một phần lớn là nhờ ở sự bảo tấu của Dương bá phụ: hắn còn lạ gì đất Tây đô là nơi dụng võ của nội tổ (trỏ Nguyễn hoàng Du) tướng sĩ ở đó còn nhiều. Để cho thân phụ về Tây đô, khác nào như thả hổ về rừng, một người quỷ quyệt như hắn khi nào nhẹ dạ như thế được. Con xin đặt hai giả thuyết: một là hắn thử lòng thân phụ, giả vờ cử đi Tây đô để dò xét tâm lý của ta. Nếu ta hấp tấp đi ngay, tức là ta mắc mẹo của hắn; hai là hắn muốn tỏ ra có độ lượng cao cả, bỏ hết thù cũ, lấy danh lợi giàng buộc ta, để cho ta quên phắt nhà Lê mà chỉ biết có nhà Mạc. Bây giờ thân phụ trước hết phải dâng biểu tạ ơn để hắn yên lòng, sau đi chơi các hạn đồng liêu tỏ tình lưu khứ, cốt dềnh dàng, thích thắng đừng lộ vẻ mừng vui. Khi đã vào Tây đô rồi, thì tha hồ kẻ kia có muốn hại cũng không nổi; ta sẽ chiêu mộ binh sĩ, cát cứ một phương mưu sự khôi phục nhà Lê.

Nguyễn Kim chợt tỉnh ngộ vổ vai Hoàng khen:

- Con thật là người có kiến thức rộng rãi sau này có thể hơn cha nhiều.

Nguyễn An thành hầu có ba người con. Nàng Ngọc Bảo là con gái đầu lòng, mới có 15 tuổi, Trưởng nam là Nguyễn Uông, 13 tuổi, giỏi vũ nghệ, cương trực và nóng nẩy khác hẳn với em là Nguyễn Hoàng mới 12 tuổi, tính nết thâm trầm, mưu mẹo quyền biến rất tài tình. An thành Hầu rất quý trọng Hoàng, phàm có công việc gì can hệ đều bàn với Hoàng để Hoàng giải quyết hộ và cùng nhờ được trí sáng suốt của con, mà Nguyễn Kim thoát khỏi tay Mặc đăng Dung, lập nên cơ nghiệp lâu dài sau này.

Vũ công Duệ đi được hai hôm rồi, đình thần mới biết. Nguyễn Kim sợ vì sự xuất bôn của Duệ mà Mạc vương đổi lòng, vội dâng biểu tạ ơn.

Biểu rằng:

‘‘ Hữu vệ điện tiền tướng quân An thành hầu thần Nguyễn Kim, muội tử bái lạy, kính chúc Hoàng đế bệ hạ muôn tuổi.

‘‘ Hạ thần trộm nghĩ: Kể từ khi Ngô vương Quyền đuổi quân Nam hán, lập nền tự chủ, đến đời Lê mạt nước Đại Việt ta trải qua bao nhiêu biến cố, lúc loạn, lúc bình, khi suy khi thịnh, thời nào cũng có vị anh quân, triều nào cũng có người hào kiệt. Đến khi Lê cung Hoàng nối ngôi vì bất tài nên lòng dân không phục, đất nước nhiễu nhương, triều đình đổ nát. Bệ hạ thuận theo thiên mệnh khoác áo Hoàng bào, trăm họ ca khúc thanh bình, muôn dân tôn phù thánh chúa. Hạ thần ngu muội trước mắt không biết có núi Thái sơn, tội đáng phanh thây, may được bệ hạ mở lượng hải hà, không nỡ gia đinh, lại dùng vào hạng bề tôi thân tín, ân đức to như trời bể, hạ thần chỉ biết lấy cái chết để tạ lại. Ngày nay thần chịu vương mệnh cai trị Tây đô, con cháu đời đời kế nghiệp, thần nguyện sẽ trung thành với bệ hạ, thu dùng nghĩa sĩ bốn phương để giúp bệ hạ giữ gìn cơ nghiệp lâu dài.’’

Mạc đăng Dung xem biểu xong rất đẹp lòng phán.

- An thành hầu thật không phụ lòng tin cậy của trẫm.

Nguyễn Áng tâu:

- Nguyễn Kim ngoài mặt thì thế, nhưng trong bụng lại khác. Nếu bệ hạ không nỡ giết thì giữ lại kinh thành đừng cởi trói cho chim bằng mà mang họa.

Đăng Dung cười:

- Trẫm làm chủ thiên hạ, đối với mọi người phải lấy tín nghĩa làm đầu, huống hồ trẫm đã hạ chiếu phong tước cho hắn rồi, bây giờ lại nuốt lời thì còn gì uy quyền của vị thiên tử nữa.

Đoạn, không nghe lời Nguyễn Áng, sai nội giám mang cho một tấm gấm, và vàng bạc để đi đường. Trong hàng các quan có người tâu xin cho đuổi bắt Vũ công Duệ. Đặng Dung cười nhạt:

- Tên hủ nho bắt về cũng chẳng dùng được việc gì nhưng để ra ngoài sợ sinh biến, cho đi tróc nã.

Nguyễn Kim nhận được vàng bạc biết Mạc đăng Dung không ngờ mình nữa, cả mừng, liền để mấy hôm đi chơi từ giã các bạn đồng liêu, rồi mới cho gia nhân xếp quần áo, hòm siểng chất lên đầy xe, ra khỏi kinh thành thẳng đường về Tây đô…

Bọn Vũ công Duệ ra khỏi thành, đi được non nửa dậm đường thì trời đã tối mịt. Khanh bàn rằng:

- Nếu ta đi suốt đêm nay thì cũng chưa chắc sớm mai tới địa phận Sơn nam (Nam định) được; vả lại nhỡ gặp lính tuần hỏi giấy má thì phiền phức lắm. Âu là ta tìm hàng quán nào tạm nghỉ rồi sẽ hay.

Vũ công Duệ tiếp:

- Ta trốn đi, Mạc đăng Dung biết tất cho quân truy nã, không may bị bắt về, thật là làm trò cười cho dân chúng. Muốn chắc chắn thì cử tắt bờ ruộng, đi suốt đêm nay để tránh sự kiểm soát của địa phương.

Đặng thị nói:

- Họ Mạc mới tiếm vị, các quân địa phương càng chưa nhận được công văn cáo tri, nên sự kiểm soát cũng chỉ nhằm mục đích phòng ngừa trộm cướp chứ không phải để lùng bắt đảng phái nhà Lê. Chúng ta cứ thẳng đường cái lớn mà đi, lúc nào ngờ có lính tuần đến thì tắt bờ ruộng cũng được. Nếu đi hết đêm nay, thì ít nhất cùng vượt được 20 dặm rồi, truy binh có mọc cánh cũng không theo kịp.

Giữa cảnh đêm trường tịch mịch, năm người như những bóng ma lùi lũi rảo cẳng trên con đường đất gồ ghề. Có lúc họ phải rẽ xuống ruộng lội qua giộc để tránh ngọn đuốc của bọn lính tuần; có khi lại vòng qua một xóm làng, men bờ hào đi. Tiếng chó sủa vang sau lũy tre làm cho họ giật mình, không dám thở mạnh. Tiếng chầy giã gạo ở một căn nhà lá trong xóm đưa ra thình thịch như chân người chạy, thế là cả bọn đã hoảng sợ kẻo nhau chạy bạt mạng, dẫm bừa cả lên chông gai, mảnh sành. Gió lạnh thổi, làm cho thân tre cọ vào nhau bật lên những tiếng kêu lắc cắc. Mưa bụi lất phất bay, buốt như kim châm. Trong bọn, không kể Vũ công Khanh là tay sức lực khoẻ mạnh, còn hai tên gia nhân tuy mệt nhưng còn có thế gắng gượng được, chứ Đặng Thị và Vũ công Duệ thì vì tuổi già, phải vất vả suốt đêm, nên sức đà kiệt chân mỏi gối chồn, mắt hoa đầu váng. Vũ công Khanh thấy thế liền cõng mẹ lên lưng, tay dìu cha, chập choạng trong bóng tối đen, không còn phân biệt phương hướng, thôn lạc nào. Chàng đang đi chân bỗng thụt vào hố, ngồi xệp xuống, vội gọi gia nhân đến nâng giậy, nhưng không thấy tiếng thưa, thành ra chúng đã lủi đi đâu mất, mang theo cả bọc quần áo. Khanh sẽ đặt mẹ xuống đất. Vũ công Duệ rên rĩ nói:

- Mệt lắm.

- Cha cố gượng một chút.

Chàng đứng giậy cõng mẹ lên vai. Người đàn bà thân hình mềm nhũn như sợi bún, tóc xõa chùm cả mặt nhưng hai tay vẫn còn bám được vào vai con. Chàng bế sốc cha lên, bấm chặt mười đầu ngón chân xuống đất cho khỏi trơn rồi lại đi …

Tiếng gà trong xóm đã mấy lần giục giã, ở một vài nơi ánh lửa đã thấy le lói qua lớp màn đen. Rồi dần dần ở chân trời, vẩn lên một mầu trắng bạc, thấp thoáng có làn khói đen nhờ cuồn cuộn bay.

Chàng vẫn kiên, nhẫn đi, trước mặt chàng một trang viện đã hiện rõ sau rặng cây cau cao vút. Chàng nặng nề bước, tòa nhà mỗi lúc một gần, một vẻ mừng thoáng trên khuôn mặt đẫm lệ và mồ hôi. Mắt chàng sáng lên, tim rồn rập đập mạnh. Tới chiếc cổng gạch, chàng cố thu hết tàn lực, bước lên một bực, hai bực, rồi vì mệt quá, chàng ngã gục xuống, quăng cả hai xác thịt trên mặt dất.

Sau hàng rào vang lên mấy tiếng chó sủa …

Cách tỉnh Sơn nam độ 15 dặm về phía Bắc trước Sơn nam gọi là Thiên trường, tức Nam địnhbây giờ) làng Trung lâm do ba làng Bắc Lâm, Cao Lâm. Nam Lâm họp lại, nằm trên bờ một dòng suối và chạy dài mãi đến chân đồi ‘‘Gọp’’. Lưng chừng đồi một cái giếng tục gọi là giếng ‘‘ Vàng’’ nước trong như lọc, đào đã từ lâu bên cạnh một ngôi miếu thờ thổ thần. Sỡ dĩ có tên giếng ‘‘Vàng’’ là do câu chuyện ‘‘ Tàu để của’’ mà sinh ra. Nguyên từ năm Cảnh thống thứ hai đời vua Lê hiến Tôn, làng Trung lâm vẫn có tiếng là trù phú nhất huyện Bình Lục. Dần làng một nửa chuyên về nông nghiệp, một nửa xuất ngoại buôn bán đi vắng quanh năm, chỉ đến gần Tết mới quay về cố hương nghỉ ngơi vài tháng, rồi lại bôn tẩu trên đường thương mại. Ruộng nương của những người này đều giao cho nông dân trông nom chỉ đòi một số thóc bằng một phần mười tổng sổ thóc thu hoạch được trong một năm. Lợi tức thì nhiều mà chi tiêu rất ít, vì sự sinh hoạt của dân quê vốn bình thường giản dị, lại được mấy năm liền phong đăng hòa cốc, thương mại phát đạt nên hai giai cấp nông dân và thương dân đều được nhàn nhã phong lưu. Cái cảnh tiền dư thóc mục kể thì sung sướng thực, nhưng hiềm một nỗi, trong làng không một người nào biết chữ, nên phái thương nhân vẫn chưa được hài lòng. Một vài người đã đề cập đến vấn đề đón thầy giáo hóa con em, để hy vọng sau này may ra có dăm ba người bia đá, bảng vàng, nhưng phái nông dân phản đối kịch liệt, cho rằng sự học không cần thiết bằng bát cơm, manh áo, và bảng vàng bia đá dẫu có quý thật nhưng không phải là nguồn sinh lợi chắc chắn và dồi dào như những thửa đất rộng rãi và phì nhiêu. Câu chuyện ‘‘học’’ vì thế mà không có kết quả. Phái nông dân vẫn giữ vững lập trường của mình cho đến một ngày kia có một người Tàu lù lù đến, giữa lúc dân làng đang tấp nập sửa sang đón mừng tân xuân. Người Tàu này trạc độ ngoài 10 tuổi vai vác một cái bọc to, chân đi đôi hài sảo và đầu đội một cái nón tù-lờ sơn màu vàng nhợt. Khắp mình bụi trắng bám đầy, tỏ ra hắn đã dầu dãi nhiều ngày ngoài trời và trên khuôn mặt xương xương, ghét và mồ hôi đã điểm những vết đen, trắng loang lổ. Hắn tới làng Trung Lâm thì mặt trời đã ngả về chiều, nên không mấy người để ý đến. Hắn ngủ một đêm ở miếu thổ thần và sáng hôm sau đến trình diện xa trưởng ở nhà riêng. Xã trưởng hỏi:

- Chú ở đâu đến, có việc gì?

- Thưa ông chúng tôi ở bên Tầu mới sang.

Giọng nói tuy lơ lớ Tầu nhưng không ngọng nghịu, làm cho xã trưởng ngạc nhiên giương mắt nhìn khách.

- Có lẽ nào? chú mới ở bên Tầu sang sao nói tiếng Việt thạo thế?

- Thưa ông trước kia tôi ở bên này đã lâu nên thông thạo tiếng Việt; sau vì việc gia đình lại phải về Tàu.

- Bây giờ chú lại sang đây buôn bán phải không?

Người Tàu ngập ngừng một lát rồi đáp:

- Tôi có một việc rất bí mật chưa dám nói hở cho dân làng biết nên phải thân hành đến bàn với ông. Nếu ông giúp cho thì tôi xin biếu ông 5 nén vàng.

- Chú cứ nói, nếu công việc của chú không thiệt hại gì đến quyền lợi gì của dân làng thì ta sẽ giúp dầu một xu cũng không thèm lấy. Trái lại nếu chỉ vì tư lợi mà mọi người phải thiệt thòi thì 5 nén vàng, chứ 50 nén vàng, hay 5 nghìn nén ta cùng chịu.

Người Tàu ngồi xuống ghế, để cái bọc bên cạnh, rồi móc túi lấy một tờ giấy vẽ chi chít những vạch ngang vạch dọc, đưa cho xã trưởng:

- Ông cứ xem đây thì biết.

Xã trưởng nheo cặp mắt, nghiêng đầu ngắm đi ngắm lại, rồi làm ra mặt thạo, gật gù hỏi:

- Bùa trừ tà chú bán bao nhiêu tiền?

Hắn cắn chặt lấy đôi môi như muốn ghim một nụ cười:

- Thưa ông, đây là bản đồ quí xã.

Xã trưởng nét mặt ửng đỏ, cố cãi:

- Bản đồ vẽ vụng quá.

Hắn sè lai gần, ngón tay chỏ ấn xuống mặt tờ giấy, nói:

- Quý xã danh hiệu là Trung Lâm ở về phía Bắc tỉnh Sơn Nam, nằm giữa một cánh đồng rộng độ vài trăm mẫu dất cát phì nhiêu. Cạnh làng ngọn tiểu khê chảy song hành với con sông đào, vòng qua chân đồi ‘‘Gọp’’ rồi đổ rồn nước xuống một cái hồ rộng ước độ mười mẫu.

- Đúng rồi.

- Trong làng, ngoài ra những ngõ hẹp nối liền với nhau chi chít như mạng nhện, lại có một con đường rộng chạy từ đầu làng đến cuối làng, con đường này bắt đầu từ mảnh ao thả bèo đi mãi đến tận đình, rồi ngoặt về phía tay trái, qua cổng chùa xuyên qua hai rặng cây răm bụt thẳng đến chân đồi ‘‘Gọp’’,là hết địa phận làng.

- Phải.

- Lưng sườn đồi có một cái giếng sâu 2 trượng, 6 tấc, đường kính 3 thước 4 tấc, thành giếng nổi lên cao hơn mặt đất 1 thước 2 tấc, đào từ năm Hồng đức thứ 17, đời vua Lê thánh Tôn và cách miếu thổ thần chừng 2 ngũ.

Xã trưởng đứng phắt dạy, nắm lấy áo người Tàu quát:

- Anh là người dọ thám của bọn giặc nào! nói ngay?

Hắn cười tiếp:

- Xin tôn ông để tôi nói hết đã nào. Nếu tôi là do thám của giặc thì khi nào lại dại dột thế này.

Xã trưởng chợt nghĩ ra, xin lỗi, ngồi xuống nói.

- Tôi chót nhỡ lời, xin chú kể nốt đi.

- Tôi vốn họ Trương, quê ở Quảng đông, hồi lên 7 tuổi theo thân phụ sang buôn bán ở Thăng long, chính là năm Diên Minh đời vua Lê nhân Tôn. Cha con tôi nhờ giỏi làm ăn mỗi ngày một phát đạt, nên chỉ trong vòng có 5, 6 năm mà trở nên giàu có, vàng bạc, súc tích rất nhiều. Kịp đến khi vua Nhân Tôn thăng hà, Nghi Dân tiếm vị, chém giết nhiều người, kinh thành nhốn nháo, chúng tôi thu xếp đồ tể nhuyễn di cư về Sơn nam cho đến năm Hồng Đức thứ 17 thì ở quí xã có việc tu sửa đình chùa và đào giếng. Chúng tôi ngẫu nhiên đi qua rẽ vào chơi được biết chuyện liền nhận thầu công việc đó.

- Chú lại khiêm cả nghề thợ mộc, thợ nề nữa?

- Chúng tôi biết quái gì, nhưng cũng nhận là vì một mục đích khác. Nguyên chúng tôi sắp sửa về Tàu có chút việc, lại sợ mang nhiều vàng bạc đi đường gian phi trộm cướp như ong sểnh một chút, không những mất hết, mà còn nguy hiểm đến tính mạng. Nhân dịp cơ hội này chúng tôi bàn nhau nhận thầu việc trùng tu đình chùa và đào giếng, để được rảnh tay đem giấu vàng ở đáy giếng, rồi hô thần yểm của. Chúng tôi về Tàu ít lâu thì gia nghiêm mắc bệnh mà qua đời. Tôi vì sinh kế quẩn bách nên phải lần mò sang đây tìm số vàng. Nếu tôn ông hết lòng giúp, cho phép tôi được nán lại quí xã vài hôm, thì ngoài cái số 5 nén vàng kính dâng tôn ông, tôi xin biếu dân làng 5 nén nữa, gọi là một chút để giúp vào việc sửa sang đường xá đình chùa.

Xã trưởng như mở cờ trong bụng hỏi:

- Số vàng của chú ước lượng bao nhiêu?

- Độ 100 nén.

Đọan hắn giở tờ giấy thứ hai đưa cho xã trưởng nói:

- Đây là bức họa đồ cái giếng ở đồi ‘‘Gọp’’, kích thước đã ghi sẵn ở dưới.

Xã trưởng nhìn thấy bốn chữ Hán viết ở cuối trang giấy không hiểu, liền hỏi:

- Bốn chữ gì thế này?

- Thưa bốn chữ ‘‘Tỉnh trung thị Nguyệt’’ nghĩa là ở trong giếng trông mặt giăng.

- Viết thế để làm gì?

- Hôm nay là 16 tháng chạp; buổi tối đợi lúc trăng lên cao, thì nhìn xuống giếng thấy hình ảnh chị Nguyệt hiện ở trên mặt nước về phía nào thì cứ đào ở chỗ ấy khắc tìm thấy vàng.

Xã trưởng vỗ đùi, cười:

- Nghĩa lý xâu xa thế thì có giời biết.

Câu chuyện đến đấy là hết. Xã trưởng giữ hắn lại ăn cơm xong, rồi ra đình hồi trống triệu tập các vị hào trưởng lại, kể hết đầu đuôi cuộc hội kiến với người Tàu lúc ban sáng. Mọi người đều vui mừng mong cho chóng tối để xem xét kết quả công việc ra sao.