← Quay lại trang sách

- V -

MẶT trời đã xế về Tây và chim dần trong rặng núi. Ánh nắng còn rớt lại trên ngọn cây đã biến mất. Một hồi chuông chùa rõng rạc điểm giữa cảnh tịch liêu của hoàng hôn. Mặt trăng đã nhô lên giữa bầu trời trong xanh, và dải một lượt ánh sáng êm dịu xuống cánh đồng quê. Rồi gương nga mỗi lúc một sáng hơn, cảnh vật như quét một lượt sơn trắng bạc.

Dần sang giờ Hợi, mọi người mới kéo nhau đến đồi ‘‘Gọp’’ người Tàu đứng tựa vào thành giếng, chỉ tay xuống mặt nước bảo với các cụ bô lão:

- Hình mặt trăng hiện về phía tay trái, thì đích là bảo vật chôn ở đó. Không biết nước sâu đến đâu?

Một cụ đáp:

- Mùa này nước cạn, khéo lắm chỉ ngang bụng chân.

- Tốt quá. Để tôi niệm chú thoái thần đã rồi sẽ cho người xuống mò.

Nói đọan hắn rút ba thẻ hương ở trong bọc ra thổi bùi nhùi châm lửa, rồi xõa tóc ngảnh mặt về phương Bắc, lẩm nhẩm đọc một tràng tiếng Tầu. Xong hắn dậm chân vỗ ngực, thét mấy câu ‘‘Trẫu lớ! trẩu lớ’’ rồi cắm hương xuống đất, bắt mấy cái phọc quyết chỉ ra tứ phương. Trong lúc hắn phép, các cụ kính cẩn cúi đầu đứng yên lặng như khi đi tế ở đình.

Làm lễ thoái thần xong, hắn lại quì xuống ngẩng mặt lên không trung lễ bốn lễ, rồi mới sai một thanh niên xuống giếng mò. Người này lần từng bực tới đáy giếng, bì bõm một lúc ở dưới nước, thì lôi ở trong hang ra một cái vỏ bằng sành gắn kín.

Ở trên thả dần dần một chiếc thừng có buộc ở đầu một cái dỏ, cho xát tới mặt nước. Chiếc vò vừa đặt vào thì thừng lại kéo lên. Cứ như thế ba bận. Chàng thanh niên chui cả mình vào hang lục soát mãi không thấy gì nữa mới chịu trèo lên miệng giếng.

Hắn xem xét ba cái vò cẩn thận, rồi thưa với mọi người.

- Công việc đến đây là xong, các cụ cho người mang ba cái vò này về nhà ông Xã trưởng. Tôi còn phải ở lại làm lễ tạ thần đã rồi sẽ về sau.

Các cụ đều hí hửng mừng thầm, kéo nhau về ngủ cả ở nhà Xã trưởng để canh giữ ba lọ vàng, trong bụng nơm nớp chỉ sợ có kẻ nào manh tâm phản chắc, lại mở ra ‘‘nhót’’ trước mấy nén thì mang tiếng với khách. Đến sáng rõ người Tầu cũng chưa thấy về. Các cụ đợi cho đến gần trưa, thì chợt một người hấp lấp chạy đến, thở hổn hển nói:

- Chú Tàu đi mất rồi.

Một cụ ngồi nhỏm giậy, tiếp:

- Thế nó bỏ vàng à?

- Không biết nhưng thành giếng thì vỡ tung ra, gạch đá bữa bãi.

Xã trưởng sinh nghi, liền đập vỡ ba cái vò ra thì toàn là sỏi, tịnh không có một ly vàng nào cả.

Mọi người đều ngã ngửa ra, phàn nàn một lúc rồi kéo nhau ra giếng, thì thấy hòn gạch nào cùng vỡ đôi ra và rỗng ở giữa. Một cụ già chỉ tay nói:

- Nó khôn thật, vàng để trong ruột những viên gạch thì có trời biết.

Một cụ tiếp:

- Thế còn cái câu Tỉnh Trung … gì..g … nguyện để làm quái gì.

- Thì nó cũng bày vẻ qua loa để cho có vẻ bí mật mà lị.

Một cụ khác ngẫm nghĩ một lát rồi tiếp:

- Tôi thì dốt không hiểu câu: ‘‘ Tung tỉnh hay tỉnh tung’’ là gì, nhưng nó bịa ra để đánh lừa mình bắt mình chầu chực suốt cả đêm để mang mấy cái vò đựng sỏi về, còn nó ở ngoài này tha hồ đào, sới để lấy vàng. Thôi chẳng qua mình dốt và tham nên bị nó lừa. Phen này nhất quyết đón thầy về để cho con cháu ăn mày thánh dăm ba chữ khỏi bị cái nhục dốt nát, Khốn nạn đã ngu thì nó bảo thế nào chả phải nghe.

Này nhé! nó đến từ chiều hôm trước, giấu mấy cái vò vào hang, thế rồi hôm sau nó đem bốn cái chữ khỉ gió ấy ra lòe mình để cho mình hí hửng vác mấy cái vò về. Thôi cứ dốt là khổ, biết chưa?

Mọi người thở dài quay ra về. Từ đó các vị hào trưởng vẫn thường sai người đi khắp vùng để tìm một ông thầy nào hay chữ đón về. Nhưng chưa gặp được ai. Mãi đến năm Đoan Khánh nguyên niên đời vua Lê uy Mục mới đón được thầy đồ. Nguyên ông này cùng với vợ con, một hôm đi qua Trung Lâm xin vào ngủ trọ một đêm, bị dân làng vật nài giữ lại để dạy học, thấm thoát được gần 20 năm. Ông đồ không biết tên họ là gì nhưng tính nết điềm đạm, it nói, ít giao thiệp. Xong buổi học, ông chỉ thơ thẩn từ trong nhà ra sân, hoặc lúi húi ở vườn giồng hoa, tía lá. Học trò của ông cũng nhiều người có khoa hoạn, nên thanh danh của ông mỗi ngày một lan rộng khắp vùng. Dân làng Trung Lâm vốn thực thà, chất phác đối xử với thầy rất có thủy chung, gạo nước tiền nong, cung cấp đủ dùng. Ông đồ ở được 10 năm thì các học trò nẩy ra một ý kiến gom góp nhau vào mỗi người một số tiền dựng cho thầy 5 gian nhà gỗ trên một thửa đất công ở đầu làng. Mỗi năm lại tu sửa mở rộng thêm ra, làm cho khu nhà trông có vẻ khang trang mỹ lệ. Năm Thống nguyên đời vua Lê Cung Hoàng, ông vì già yếu, liên giao việc dạy học cho con gái là Bích Lan mới có 19 tuổi. Rồi từ đó ông chỉ ngày ngày ngao du những nơi phong cảnh đẹp, bầu rượu túi thơ dường như muốn rũ sạch bụi trần.

Một buổi sáng, theo lệ thường, ông giậy sớm đi tản bộ trong vườn mặc dầu gió rét và mưa phùn lấm tấm rơi. Nhìn thấy một vùng hoa nở, tức cảnh ngâm một bài thơ.

Mấy hạt mưa xuân lấm tấm rơi,

Đầy vườn đã thấy cảnh hoa cười,

Hai hàng cúc huệ, giương màu thắm,

Bốn dẫy hỏng, lan tỏ sắc tươi.

Liễu, trúc khoe xanh chen mặt đất,

Đơn, nhài đua trắng tỏa hương trời,

Bồng Lai có phải là đây nhỉ ?

Giốc chén quỳnh tương, ngỏ mấy lời.

Đang lúc ông cao hứng ngâm nga, tâm hồn thinh thảng phiêu diêu trong lạc cảnh, thì chợt nghe thấy ở ngoài cổng như có tiếng chân người hì hục bước lên, rồi tiếp đến có tiếng chó sủa vang. Ông vội ngoắt mình trở ra cổng thì được mục kích một cảnh tượng thương tâm: ba cái xác thịt nằm đè lên nhau ở trên bực gạch sắp sửa rơi xuống đất. Ông đồ gọi người nhà ầm lên rồi quên phắt mình là già nua tuổi tác, thò hai bàn tay gầy gò run lập cập, định nâng ba người giậy.

Nếu không có tên gia nhân chạy ra đỡ hộ thì có lẽ ông đã ngã gục nốt rồi. Vừa hay có hai người thợ cầy đi qua, xúm vào đỡ ba người lên rồi ôm vào nhà. Ông đồ sai đặt mỗi người một giường, lấy chăn đắp cẩn thận và truyền đốt lửa để sưởi ấm. Bà đồ chạy lại sẽ hỏi:

- Ai thế! ông có quen không?

Ông đồ lắc đầu đáp:

- Nào biết ai. Thấy người hoạn nạn thì cứu giúp có kể gì quen mấy không quen.

Được một lúc nhờ có hơi lửa ấm áp, Vũ công Khanh tỉnh dần dần, mở mắt nhìn, Chàng ngạc nhiên thấy mình nằm trên giường, trong một gian nhà rộng rãi, đồ đạc trang hoàng lịch sự. Ở chân giường một lò than hồng tí tách nổ tỏa ra một ánh sáng êm dịu. Nhìn sang hai chiếc giường kê song song ở gian bên kia cách chỗ chàng nằm độ dăm bước, chàng thấy rõ hai đống chăn sù sù, để lộ hai khuôn mặt hốc hác xanh xao mà chàng đã nhận được ai rồi. Có tiếng giầy đi lẹp kẹp ở ngoài, rồi thấy một cụ già lững thững đi vào. Chàng đoán là chủ nhân ngôi nhà này vội ngồi nhỏm giậy.

Cụ già nhìn chàng mỉm cười, hỏi:

- Công tử đã bình phục chưa?

Công Khanh đứng xuống đất chắp tay vái:

- Xin cám ơn lão trượng.

Cụ già cầm lấy tay chàng kéo vào, bảo ngồi xuống giường rồi tiếp:

- Công tử mới khỏi chớ nên dẫm đất vội xin cứ tự nhiên. Lão phu còn nhiều chuyện muốn nói.

Đoạn cụ chỉ tay về phía hai chiếc giường bên kia hỏi:

- Phải chăng là lệnh song thân?

- Thưa vâng.

- Lão phu trông mặt lệnh nghiêm đường quen quá nhưng chưa dám nhận, đợi cho công tử dậy để hỏi cho cẩn thận đã.

Công Khanh im không nói. Cụ già biết ý tiếp luôn:

- Lão phu với lệnh nghiêm đường cùng làm quan với nhau dưới triều vua Lê thánh Tôn cho đến triều vua Lê uy Mục thì lão phu cáo quan về dậy học ở đây. Lão phu họ Lưu tự là Sĩ Tái cùng với Vũ công là bạn đồng khoa.

Công Khanh vẫn ngồi im. Cụ già thở dài vuốt râu nói:

- Hồi vua Lê uy Mục mới lên ngôi, có ý ngờ Lão phu và hai vị quan nữa là Lễ bộ thượng thư Đàm văn Lễ và Đô ngự sử Nguyễn quang Bật phản đối việc phù lập ngài nên giết mất hai người đó, còn lão phu may trốn thoát được.

Lệnh nghiêm đường đang được quyền cao chức trọng sao lại hấp tấp bỏ đi? hay trong triều đã có điều gì?

Công Khanh lúc bấy giờ mới đem câu chuyện Mạc đăng Dung thoán nghịch kể hết. Sĩ Tái than rằng:

- Tư tưởng tiếm vị của Mạc thị đã manh nha từ lâu, mà các quan không biết tìm cách đề phòng lại chịu chết uổng như vậy: kể thì đáng trách nhưng cũng đáng thương. Lão phu thẹn vì tuổi già sức yếu đã trở nên vô dụng với đời, nên đành chịu giương mắt nhìn quyền thần lộng hành mà không làm gì được, công tử sức lực cường tráng lại là giòng giỏi trung lương, há yên phận làm tôi họ Mạc hay sao?

Công Khanh cúi đầu, nét mặt ửng đỏ. Vợ chồng Vũ công Duệ được Sĩ Tái trông nom cẩn thận cơm cháo thuốc thang đầy đủ, nên chỉ mươi hôm lại khỏe mạnh như cũ. Đôi bạn già cách biệt nhau đã lâu, nay được gặp mặt, vui mừng siết kể, suốt ngày đêm hết bàn việc quốc sự lại uống rượu ngâm thơ, ngờ đâu vạ đến sau lưng mà vẫn u mê không biết.

Nguyên từ khi dứt được nhà Lê, Mạc đăng Dung muốn phục lòng dân, thả hết các tù phạm, xá thuế ba năm, tư giấy đi các nơi để báo cáo cho thiên hạ biết và cái niên hiệu là Minh Đức, phàm các luật lệ của nhà Lê đều giữ như cũ, lại sai mở kho thóc phát trẩn cho dân nghèo, trọng dụng các quan cựu thần. Duy đối với Vũ công Duệ, Mạc đăng Dung lại cương quyết hơn, cho họa hình gửi đi các địa phương và treo giải thưởng 1000 nén vàng với cái tước Quận công cho người nào bắt sống được. Trong vòng hai tháng giời, công văn bay đi khắp nơi như bươm bướm, các quan phủ huyện vì sợ chết cũng có, vì muốn cũng cổ địa vị của mình nên cúi đầu răm rắp vâng mệnh và dâng sớ về triều tỏ lòng trung thành với họ Mạc. Công văn về tới huyện Bình Lục, quan huyện là Nguyễn Dương họp các nha thuộc lại bàn. Viên thơ lại là Đào Quỹ vốn là tay quỉ quyệt, cất tiếng nói trước:

- Bắt Vũ công Duệ, Đại nhân muốn dùng văn hay dùng võ?

Nguyễn Dương ngạc nhiên hỏi:

- Thế nào là văn với võ?

Đào Quỹ đáp:

- Nếu dùng võ thì đại nhân cứ việc sai lính huyện, hợp lực với các hương dũng canh phòng những bến đò, chợ búa kiểm soát hành khách đi lại. Đồng thời phái quân dọ thám về các thôn lạc, lục soát từng nhà một, bắt xã trưởng phải kê khai danh sách gia đìm có người nào lạ mặt phải trình báo ngay.

- Còn dùng văn thì thế nào?

- Nếu đại nhân muốn dùng văn thì cứ dấu phắt việc triều đình truy nã Vũ công Duệ, yên lặng như không.

Nguyễn Dương ngắt lời:

- Nếu vậy một trăm năm nữa cũng không bắt nổi hắn.

Đào Quỹ mỉm cười một cách ranh mãnh:

- Thế mà bắt được mới tài tình chứ!

Hắn ghé vào tai huyện quan thì thầm một lúc.

Dương cả mừng khen:

- Dùng võ thì sợ náo động nhân tâm, âu là ta dùng văn vậy.

Ngay hôm ấy, các nha lại tức tốc thảo công văn gửi về các làng báo cáo việc vua Lê thoái vị nhường ngôi cho họ Mạc, giấu kín việc Vũ công Duệ bị truy tầm, và kèm theo tờ sức của huyện quan:

‘‘ Năm Minh Đức thứ nhất, quan Tri huyện Bình lục sức cho dân chúng biết:

‘‘ Nhân dịp tân quân mới lên ngôi, bản chức có mở một cuộc thi thơ vào ngày mùng mười tháng ba vào khoảng giờ mão, ở huyện lỵ để mừng thánh chúa ra đời. Có ba giải thuởng trị giá 500 lạng bạc chia ra như sau:

‘‘ Giải nhất 200 lạng với một tấm gấm.

‘‘ Giải nhì 100 lạng với một tấm lụa.

‘‘ Giải ba 50 lạng với hai chục bá Giang Tây

‘‘ Các bài thi gồm có :

‘‘ Thứ nhất: một bài thơ đường luật (bằny chữ Hán hay Nôm tùy ý).

‘‘ Thứ nhì: một vế câu đối nôm

‘‘ Hỡi các vị tao nhơn mặc khárh, hãy hưởng ứng cuộc thi của bản chức để mua vui trong dịp đầu xuân’’.

Tri huyện Nguyễn Dương

Tờ sức vừa tung ra, dân chúng náo nức mong cho chóng ‘‘đến ngày đó, để được dự một cuộc vui hiếm có.

Lưu bích Lan đi chợ biết chuyện, về kể lại cho cả nhà nghe. Vũ công Duệ hỏi:

- Huyện quan là người thế nào?

Sĩ Tái đáp:

- Hắn là chân cử nhân xuất thân, chữ nghĩa cũng khá nhưng tâm địa hẹp hòi. Hắn chịu bỏ ra 500 lạng bạc để treo giải thưởng, không ngoài cái mục đích siểm mỵ Mạc đăng Dung.

Duệ thở dài:

- Bọn khoa mục ngày nay không giữ được cái khí tiết thanh cao của nho giả đời Trần, đại đa số là những hạng hương nguyện, xu thời.

Đáng tiếc thay!

Vũ công Khanh cũng tức giận nói:

- Huyện quan là người có học lại là thần tử nhà Lê đã không biết tuẫn tiết theo quân vương, lại còn đem thân cúi luồn kẻ khác. Hôm nay con sẽ đến tận nơi dùng câu văn sỉ mắng hắn, xem hắn có hồi tâm mà bỏ cái thói xiểm nịnh ấy đi không.

Đặng thị mắng con:

- Mày còn trẻ tuổi đã biết gì mà dám phê bình các bạc tiền bối. Mày định gây vạ cho chúng ta chắc?

Khanh sợ hãi lủi đi mất.