- IV -
HỌ đông như một lủ kiến chen chúc nhau trên con đường cỏ ngoằn ngoèo qua những khu rừng rậm rạp. có lúc họ đi thành hàng dài, nối đuôi nhau, kẻ trước người sau, như một toán quân đang tiến ra mặt trận. Khi đến một thung lũng rộng rãi, họ tản mát khắp cánh đồng cỏ cao ngập đầu người, hay tụ hợp trên bờ suối để nấu ăn. Từng đàn trâu bò chậm chạp lách qua những thân cây cao vút, thỉnh thoảng lại rống lên những tiếng kêu rầu rĩ.
Đàn bà địu con đằng sau lưng, một tay sách lồng gà, một tay dắt trẻ con; nặng nề rẽ đám cỏ gianh. Đàn ông gánh một bên là gạo, một bên là đứa bé ngồi gọn trong chiếc thúng, kiên nhẫn bước đều như không biết mõi, mặc dầu họ đã đi như thế hơn nửa tháng giời ở trong rừng thẳm. Họ là những nông dân của hai tỉnh Thanh hóa Nghệ an, đã hưởng ứng lời kêu gọi của vị trung thần Nguyễn Kim, bỏ cả nhà cửa ruộng nương tản cư sang đất Lào, để tỏ lòng bất phục nhà Mạc. Họ đã vượt qua không biết bao nhiêu là suối rừng, bỏ xa rất nhiều thị trấn. Một số ít người vì kiệt lực quá không đi được, thà chịu bỏ xương trong rừng chứ nhất định không quay lại cố hương. Cũng có dăm ba gia đình khi qua các làng mạc, thấy sự sinh hoạt của người Lào cũng dễ chịu, liền ở đấy sinh cơ lập nghiệp. Những người còn lại, đại đa số là thủ hạ cũ của Nguyễn hoàng Dự hay là con cháu của các vị trung thần, nên cũng vì mối thù thâm căn cố đế mà đi theo Nguyễn Kim. Họ đều là những người có một năng lực làm việc dồi dào, một chí hướng bất di bất dịch, một niềm tin tưởng vững chắc về sự trung hưng của nhà Lê. Lòng trung thành của họ với cố -triều đã chỗi giậy một cách mãnh liệt, giữa lúc trạng thái xuy vong của nhà Lê đã diễn đến màn chót.
Nguyên từ khi Nguyễn Kim thoát được vào Thanh hóa, có tụ tập được một ít tướng tá cũ, hô hào dân chúng nổi lên chống với Mạc đăng Dung. Phàm các thôn lạc, chợ búa đều có đảng viên của các nhà Lê lén lút vào để tuyên truyền. Hồi bấy giờ nhà Mạc mới cướp được chính quyền nên thế lực còn mỏng mảnh, dân chúng vẫn chưa quên sự nghiệp của vị anh hùng đất Lam sơn, nên nhiều người bảo nhau thu thập tài sản trốn vào trong rừng. Ở một vài nơi những tay vong mạng mượn danh nghĩa ‘‘Phù Lê diệt Mạc’’ đánh phá các quận huyện làm cho lương dân bị thiệt hại lây mà không biết kêu ca vào đâu được. Ngoài ra lại còn bọn nho giả tuy không dám ra mặt đương đầu với kẻ thù, nhưng ngấm ngầm cho người đi reo rắc mầm phản kháng vào óc dân chúng bằng những bài thơ, câu hát xưng tụng nhà Lê và mạt sát họ Mạc. Đại khái như bài ‘‘Tiếng gọi quốc dân’‘ của một nhà nho vô danh ở Sơn nam:
Nhớ lại thuở quân Minh bạc ác,
Làm nước ta loạn lạc tứ tung.
Lam sơn nổi vị anh hùng,
Thanh gươm rửa mối thù chung giống nòi.
Triều Lê thị bầy tôi hào kiệt,
Giúp anh quân dựng nghiệp lâu dài.
Sĩ phu đua trí khoe tài.
Phương nam riêng một góc trời xênh xang.
Lộc nước đã vẻ vang mày mặt,
Lòng trung quân phải đặt lên trên,
Ơn vua chưa chút báo đền,
Mạc đăng Dung nở tiếm quyền cướp ngôi.
Bầy lang sói gây thời nhiễu loạn.
Giết Cung Hoàng ai oán lương dân,
Giang sơn gió bụi cát lầm,
Cỏ cây dường cũng âm thầm xót sa.
Hỡi những kẻ tài ba xuất chúng,
Hỡi những người trí dũng viên thông.
Đứng lên đoàn kết một lòng.
Phù Lê diệt Mạc nên công mới là.
Bài ca được truyền từ miệng người này sang tai ngưừi khác, không mấy chốc đã lan tràn khắp nơi. Suốt từ Thanh hóa trở ra Bắc, dân chúng đua nhau hát, rồi lại bảo nhau chôn thóc lúa để phòng khi quân Lê nổi lên thì có lương thực cho lính dùng. Kinh thành Thăng long nhốn nháo, tưởng như cảnh tao loạn sắp khởi diễn, chợ búa có lúc lác đác chỉ dăm ba người bầy hàng chán không có ai mua lại dọn về.
Mạc đăng Dung thấy vậy liền hỏi kế các quan.
Nguyễn Áng lên tiếng:
- Bệ hạ nhân đạo quá nên dân chúng đâm nhờn. Đảng phái nhà Lê vẫn ngấm ngầm hoạt động reo rắc sự hoang mang. Nếu ta không cương quyết thì đại sự hỏng hết.
Vương Phủ tiếp:
- Bệ hạ tha cho Nguyễn Kim về Tây đô là một điều thất sách. Ngày nay hắn rảnh tay ở nơi cố quận, tha hồ mà làm mưa làm gió, nếu không trừ đi thật đáng lo ngại về sau.
ĐăngDung phán hỏi:
- Nên dùng cách nào bây giờ?
Nguyễn Áng tâu:
- Muốn tỏa chiết lòng phản kháng của dân chúng ta phải bắt đầu dùng chánh sách khủng bố mới được. Bệ hạ giáng chiếu xuống các quan văn võ địa phương được toàn quyền xử dụng những biện pháp cần thiết để phòng ngừa hay trừng trị những kẻ làm tay sai cho nhà Lê. Một mặt bệ hạ sai tướng đem quân vào Thanh hóa bắt Nguyễn Kim mang về rồi cắt người trấn thủ ở đấy. Công việc này Dương chấp Nhất phải đảm nhiệm vì chính hắn đã nhiều lần đứng lên bảo tấu cho Nguyễn Kim.
Mạc đăng Dung khen phải.
Mật chỉ của Mạc triều gửi đi khắp nơi, các quan lại thi nhau áp dụng chính sách tàn bạo đối với dân chúng. Ở lương thôn các điều hào lạm dụng quyền thế, uy hiếp người lành, quân lính tuần phòng tha hồ xách nhiễu khách thương, làm đình trệ hết cả việc buôn bán. Các nhà giam chật ních những phạm nhân, đường xá vắng tanh, chùa chiền hiu quạnh. Dân sự lo ngày hai bữa cơm chưa xong, lại phải đề phòng bao nhiêu sự bất trắc xảy ra nên đâm ra chán nản, tiêu cực, thốt ra những lời thở than đau khổ như:
Canh ba trống đã điểm thùng,
Mời anh trở giậy ta cùng đi thôi.
Lính tuần ầm ĩ mé ngoài,
Kìa ông họ Mạc đuổi hoài họ Lê.
Hay là:
Ông Lê thì gác,
Bà Mạc đi tìm,
Tìm người như thể tìm chim.
Ông bà lục đục dễ tìm được ai?
Con lạy cả hai,
Con van cả hai,
Dân tôi kém cỏi vô tài,
Ông đánh cũng chịu bà sai cũng làm.
Hay là tả cảnh đêm khuya trong ngục thất:
Một cái gòng.
Nó tròng vào cổ,
Một cái ổ
Tám chín thằng nằm.
Ngoài song lấp ló trăng rằm.
Tiếng khuya mõ (1) điếm, tiếng ầm trống canh
Đó là trạng thái đảo huyền của dân quê giữa thời Lê, Mạc tranh chấp. Đảng phái nhà Lê bị lùng bắt ráo riết, nên chỉ ngấm ngầm hoạt động trong bóng tối. Họ Mạc nắm chính quyền lại liên minh với quân phiệt thẳng tay đàn áp bọn cựu quý tộc, dần dần gây được thanh thế với dân chúng, nên chỉ trong vòng ít lâu mà khắp giải đất chạy từ Thanh hóa ra đến biên thùy Hoa Việt, sự an ninh đã được tái lập. Đang khi ấy thì vị trung thần Nguyễn Kim cũng lâm vào một trạng thái bất ổn, vì quân sĩ họ Mạc dưới quyền chỉ đạo của Dương chấp Nhất đã chiếm được thành Tây Đô trước sự kháng chiến rời rạc và yếu ớt của đoàn nghĩa binh. Nguyễn Kim đành phải đem gia đình tạm lánh vào rừng. Tướng thủ túc là Ninh Chấp bàn rằng:
- Thế lực của Mạc đăng Dung mạnh lắm ta chưa làm gì được. Tướng quân hãy tạm lánh sang Ai Lao nương nhờ Quốc vương Xa Đẩu rồi sẽ liệu.
Nguyễn Kim ngần ngừ đáp:
- Ai Lao đối với ta không có cảm tình, biết bụng dạ họ thế nào mà sang.
Nguyễn Uông xen vào một câu:
- Ta chỉ nên tin ở lực lượng của mình thì hơn, chứ ỷ lại vào ngoại bang thì cái họa rước voi về dầy mồ không khéo khó thoát được.
Ninh Chấp cãi lại:
- Ta còn nắm được một ít dân chúng trong tay việc gì phải nhờ binh lực của nước ngoài. Ta chỉ cốt mượn đất của họ làm cơ sở để gây sức mạnh và tránh con mắt dò xét của họ Mạc, chứ mong gì họ giúp ta.
Nguyễn Kim đang phân vân chưa dám quyết định ra sao, thì thứ nam là Nguyễn Hoàng đã nói:
- Phụ thân muốn vấn kế sao không tìm đến nhà ẩn sĩ ở Hải dương.
Nguyễn Kim ngơ ngác hỏi,
- Nhà ẩn sĩ nào?
- Người này không những học hành uyên bác mà lại giỏi cả về khoa lý số có thể biết được cả việc tương lai, hiện nay đang mở trường dậy học ở huyện Vĩnh lại tỉnh Hải - Dương. Người ấy là Nguyễn bỉnh Khiêm học trò quan cố Bảng nhãn Lương đắc Bằng.
Nguyễn Kim cả mừng vỗ vai con:
- Cha quên khuấy đi mất.
Đoạn, gọi một tên gia tướng tâm phúc là Lý Vũ sai mang thư về Hải dương. Lý Vũ mặc trá hình là một tiều phu, đi tắt đường ra Bắc dòng giã 5 ngày mới đến huyện Vĩnh lại, hỏi dò tìm đến nơi.
Nguyễn bỉnh Khiêm hiệu là Bạch Vân cư sĩ người làng Trung am, sinh về năm Tân hợi (1491) tức là năm thứ 21 đời Hồng đức (niên hiệu vua Lê thánh Tôn) ông là con Nghiêm quận công Văn Định và mẹ là Nhữ Thị con gái quan Hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lan. Lúc nhỏ rất thông minh, khi lớn lên ông vào Thanh hóa thụ giáo quan Bảng nhãn Lương đắc Bằng. Ông không những nho học đã uyên thâm, lại thông hiểu cả lý số, nhân thời buổi nhiễu nhương không muốn ra làm quan, về làng mở trường dạy học. Năm ông 36 tuổi thì sẩy ra việc Mạc đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, và từ đó vị nho giả hình như chán cảnh đời, sống không lý tưởng, không hoài bảo, bên cạnh ngọn giả sơn và mấy luống hoa giồng trong vườn.
Lỹ Vũ đến nơi, nhầm lúc ông đang dạy học. Vũ trình bức thư, ông xem qua không nói gì, chỉ bảo học trò truyền cho Vũ xuống nhà nghỉ ngơi. Đêm hôm ấy Vũ trằn trọc mãi không ngủ được, nhân thấy sáng trăng liền ngồi dậy đi bách bộ ở ngoài sân, chợt thấy có bóng người đứng trên thềm. Chàng nhận ngay đó là thầy đồ, vội lại gần vái rồi thưa rằng:
- Chủ nhân tôi đang lúc tiến thoái lưỡng nan đỏ mắt mong lời vàng ngọc của tiên sinh, dám xin tiên sinh chỉ giáo.
Nguyễn bỉnh Khiêm cười đáp:
- Ban ngày có học trò, ta không tiện nói.
Ta gửi túc hạ mấy lời về nói với An thành Hầu: ‘‘ Hãy chịu ẩn nhẫn để đợi thời cơ, khi ra đến Sơn nam phải phòng kẻ tiểu nhân mưu hại. Trong thư An thành Hầu có mời ta đến giúp sức, nhưng ta xưa nay chỉ đọc sách chứ không thạo về việc vũ bị thì có đến cũng vô ích mà thôi’’,
Đoạn, Khiêm cầm gậy trúc trỏ ngọn giả sơn tiếp:
- Rừng núi hiểm trở rất tốt cho sự dụng võ. Ta tính số Thái ất đã biết rõ thời cuộc rồi. Túc hạ cầm lá thư này về đưa cho An thành Hầu, và mai nên đi sớm, bất tất phải đợi ta làm gì.
Lý Vũ lạy, nhận thư, rồi xuống nhà. Sáng hôm sau Lý Vũ đi sớm, gấp đường về Thanh hóa đệ trình bức thư và nhắc lại lời nói của Nguyễn bỉnh Khiêm, Nguyễn Kim dở ra xem, chỉ thấy một bài đường luật nghĩa lý mờ mịt khó hiểu. Thơ rằng:
Non sông nào phải buổi bình thời.
Thù đánh nhau chi khéo nực cười,
Cá vực chim rừng ai khiến đuổi,
Núi xương, sông huyết thảm đầy vơi.
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ,
Thú dữ nên phòng lúc cắn ngươi,
Ngán ngẩm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi.
Kim đọc to cho các tướng cùng nghe. Mọi người còn đang ngẫm nghĩ thì Hoàng đã lên tiếng:
- Bốn câu đầu ám chỉ vào thời cuộc hiện tại, tức là việc thoán nghịch của họ Mạc đã gây nên cảnh núi xương sông máu. Đúng lắm rồi. Hai câu luận ám chỉ vào phụ thân. Câu ‘‘ngựa phi chắc có hồi quay cổ’’ nghĩa là phụ thân dẫu có phải xuất bôn để mưu đại sự thì rồi sẽ có ngày được về cố hương, mà nhà Lê cũng có cơ phục hồi quyền thống trị. Câu ‘‘ Thú dữ nên phòng lúc cắn người’’ khuyên phụ thân nên đề phòng sự mưu hại của kẻ khác.
Ninh Chấp cười nói:
- Cứ như ý tôi thì cái tư tưởng diễn đạt trong bài thơ này là cái tư tưởng tiêu cực của nhà nho hèn nhát, bất lực trước sự biến chuyển của thời cuộc. Bốn câu đầu ám chỉ vào cuộc tranh chấp Lê Mạc; tôi cũng đồng ý. Hai câu luận vẩn vơ quá chừng. Cái dụng tâm của tác giả là muốn làm cho hai câu đó thật bí mật để nâng cao giá trị của bài thơ, và bắt buộc người ta ngẫm nghĩ, phân tách nghiên cứu, rồi rút cuộc muốn gán cho nó một ý nào cũng được. Công tử bảo ‘‘ngựa phi chắc có hồi quay cổ’’ là ám chỉ vào tướng công. Tôi bảo không phải. Câu đó có thể ám chỉ vào tôi, vào công tử, hay vào một người nào khác. Còn hai câu kết thật là phơi trần cái hoài bão ‘‘cao cả’’ của nhà nho ẩn dật. Đấy không phải là một hy vọng trông thấy đất nước được phục hưng sau một thời kỳ tao loạn, đây không phải là tấm lòng tha thiết với sự tồn vong của dân tộc, mà là một cử chỉ lãnh đạm đối với tổ quốc, với giống nòi. Đang lúc quyền thần tiếm vị gieo rắc bao sự tang tóc đau thương, đang lúc toàn dân còn muốn trỗi giậy để rửa hận cho nhà Lê, thì hạng nho giả thoải hóa học đòi chủ nghĩa ‘‘siêu nhiên cao cư’’ của Lão Trang đứng hẳn ra ngoài vòng tranh đấu của dân tộc. Họ đã không hiểu rõ cái nhiệm vụ của giai cấp mình trong giai đoạn lịch sử này, mà chịu sống hèn nhát bên cạnh khóm cúc; cụm hoa, lại còn cổ xúy cái lối chơi ủy mị như đàn ngọt hát hay, nhởn nhơ bên đầm, túi thơ bầu rượu. Chính cái tính bạc nhựợc của họ đã gián tiếp giúp cho Mạc đăng Dung thực hiện mộng đế vương; chính vì cái lối chơi ‘‘nước đôi’’, của họ mà bao nhiêu lương dân bị giết oan. Chúng ta không cần dựa vào cái lực lượng mỏng manh của họ để chống với kẻ thù. Chúng ta đã có một khối rất mạnh làm hậu thuẫn, cái khối đó là dân chúng kiên nhẫn và trung thành...
Ninh Chấp nói xong thì các tướng nhao nhao mỗi người thêm vào một câu. Có người thì cho là Nguyễn bỉnh Khiêm kín đáo khuyên Kim nên cư ẩn một nơi đợi cơ hội tốt sẽ hành động. Người nói nên đề phòng quân địch đánh úp vì cả giải đất Thanh- hóa đã lọt vào phạm vi kiểm soát của nhà Mạc. Lại có người bàn nên tập trung quân đội lại đánh một trận nếu được thì hay, bằng thua thì trốn sang Ai Lao. Đang lúc Nguyễn Kim phân vân chưa biết ngả về phe nào, chợt thấy quân vào báo có một người đàn bà già và một thiếu nữ xin vào yết kiến có việc cơ mật. Kim cho vào. Hai người vòng qua sân, bước lên thềm. Kim thoáng nhìn người, đàn bà già nét mặt hơi quen quen, nhưng chưa nhận rõ là ai, toan cất tiếng hỏi thì người ấy đã òa lên khóc. Các tướng đều sửng sốt không hiểu thế nào. Người đàn bà nín khóc nói:
- Tôi là chính thất của Đô ngự sử Vũ công Duệ, tướng công còn nhớ không?
Nguyễn Kim bấy giờ mới nhớ ra, vội đứng giậy vái chào. Các tướng lĩnh đứng đấy người nào cũng từng biết tiếng Vũ công Duệ và Đặng Thị, nên đều kính cần cúi đầu. Nguyễn Kim mời Đặng Thị ngồi, rồi hỏi:
- Vũ ngự sử hiện nay ở đâu?
Đặng Thị rầu rĩ đáp:
- Gia quân đã mất rồi.
Nguyễn Kim dật mình, ứa nước mắt hỏi:
- Sự tình thế nào, xin phu nhân cho tôi biết.
Đặng Thị bắt đầu kể từ khi đến nương nhờ Lưu sĩ Tái, việc Vũ công Khanh bị bắt thế nào, nhất nhất đều nói hết. Đoạn nghỉ một lát rồi tiếp:
- Vì bị Nguyễn Dương sức giấy truy tầm ngặt quá nên chúng tôi phải trốn tránh trong rừng thật là muôn phần cơ cực, Lưu sĩ Tái vì già yếu không chịu được lam sơn chướng khí nên mắc bệnh từ trần rồi đến lượt Lưu phu nhân cũng nối gót mà qua đời. Chúng tôi hỏi dò đường về đến Ninh Bình đáp thuyền qua cửa Thần phù. Gia quân thất vọng vì thấy sự nghiệp đã tan vỡ, lại thấy dân chúng đất Bắc, đa số hướng về Mạc thị, nên đâm ra yếm thế, nhiều lúc tỏ ra không thiết sống nữa. Nhân hôm ấy lợi dụng lúc thuyền xa bến, gia quân đeo chiếc ấn ngự sử vào cổ rồi nhẩy xuống nước tự trầm. Các chân sào có quăng lưới vớt, nhưng sống gió to quá thuyền trôi mãi không sao giữ được tay lái, đành chịu vậy.
Nguyễn Kim thở dài:
- Thật là một bậc trung thần có khí tiết.
Đặng thị tiếp:
- Chúng tôi vào Thanh hóa, định tìm tướng công để nương nhờ cho qua cái tuổi già, nhưng Thanh Hóa đã bị tướng nhà Mạc là Dương chấp Nhất chiếm mất rồi, nên phải lén lút thăm dò mãi mới tìm đến đây.
Nguyễn Kim chỉ thiếu nữ hỏi:
- Còn cô, này là ai?
- Thưa, Lưu bích Lan con gái của Sĩ Tái.
Kim vốn biết Đặng thị kiến thức rộng rãi, liền đưa bài thơ của Nguyễn bỉnh Khiêm ra hỏi ý kiến. Đặng thị đọc qua cúi đầu ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:
- Hồi Mạc đăng Dung làm việc thoán nghịch tôi có bói một quẻ Dịch biết rằng khi số nhà Mạc đang vượng, chưa thể làm gì được. Tướng công nên cho quân sĩ sang Ai Lao tạm ẩn náu ít lâu đợi khi nào gặp tay anh kiệt đến giúp thì đại sự mới thành.
Nguyễn Kim ngạc nhiên hỏi:
- Còn vị anh kiệt nào nữa?
- Việc trời bí hiểm lắm, không thể nói trước được.
Nguyễn Kim nghe theo, liền truyền cho quân sĩ thu xếp hành trang, hộ tống bá tính vượt biên thùy sang Ai Lao.