- V -
MÙA thu năm Đinh-Hợi (1527) Nguyễn Kim sang tới kinh thành Ai Lao vào bệ kiến quốc vương Xạ Đẩu, bầy tỏ ý kiến của mình. Quốc vương bằng lòng để Kim ở trong nước, và sai người đem lương thực chu cấp cho đám dân lưu vong. Ngoài ra Quốc vương lại cho phép người Việt được chọn đất làm nhà, hoặc cầy cấy giồng giọt. Chỉ trong vòng một tháng mà những túp lều xinh xắn, gọn gàng đã mọc lên như bát úp, bao bọc quanh kinh thành. Dân Việt Nam vốn sẵn tính cần cù, nhẫn nại, nên khi đặt chân đến đâu là tổ chức ngay công việc làm ăn, gây dựng cơ nghiệp lâu dài. Sự tín nghĩa trong việc đổi chác thực phẩm, sự lễ phép, thực thà, trong việc đối ngoại, đó là những đức tính quí báu cổ truyền đã giúp cho đời sống của họ được dễ dàng và thêm phần sung-thiện. Họ phải lìa bỏ quê hương là một sự bất đắc dĩ, nhưng tâm hồn họ tràn ngập một hy vọng được về xum họp ở mảnh ruộng đia làng sau một thời kỳ lạc lõng nơi đất khách. Trong lúc chờ đợi họ vẫn thực hiện bổn phận ‘‘làm người’’ một cách chu đáo, nghĩa là họ không chịu ỷ lại vào người khác để sống. Suốt ngày họ khom lưng trên thửa đất cỏn con, vun, sới, giồng rau, nhặt cỏ, lê gót chân trên con đường cát bụi, gồng thuê gánh mướn để kiểm lấy bát gạo, hay ngâm mình dưới nước để mò cua, bắt ốc bán lấy tiền.
Cuộc đời của họ tuy cực nhọc vất vả, nhưng cõi lòng họ vui sướng, vì họ nhận thấy ở trong cái thiếu thốn, cái điêu đứng, cái nhọc nhằn của kẻ tha phương, cá tính dân tộc Việt Nam đã phát huy được sắc thái riêng biệt của nó với tất cả cái gì đẹp đẽ nhất, cao cả nhất, mạnh mẽ nhất của sự sống...
Một hôm, Nguyễn Kim đang ngồi bàn với các tướng sĩ về tình hình nước nhà, thì chợt thấy một viên quan đến triệu vào hoàng cuug có việc cần. Nguyễn Kim đứng dậy vào nhà trong thay áo sắp sửa đi thì Đặng Thị sẽ bảo:
- Tiên sinh đi chuyến này lành ít dữ nhiều, phải thận trọng lời nói lắm mới được.
Kim ngẩn người nói:
- Có lẽ nào. Quốc vương đối với tôi vẫn ân cần tử tế, sao lại giở mặt chóng thế được?
- Bất tất phải nói nhiều, tiên sinh vào sẽ biết, Hễ Quốc vương có giở đến chuyện tiên đế Lê thánh Tôn bình nước Lão qua và xứ Bồn nam thì cứ nói là hai nước đó gây hấn trước cho nên bắt buộc Nam quốc phải động binh. Nếu Quốc vương có làm mặt giận đuổi đi thì đừng nói gì cả, cứ ra về sẽ có mưu kế sau này.
Nguyễn Kim không hiểu thế nào, nhưng cũng liều đi. Tại sao tự nhiên lại có việc này? thật là một sự bất ngờ. Nguyên Quốc vương Xạ Đẩu vốn là người nhu nhược, lại không am hiểu việc nước, nên quyền chính đều ở trong tay thừa tướng Tân lý Vụ. Hồi Nguyễn Kim sang Ai lao xin nương nhờ Xạ Đẩu thì lúc ấy Lý Vụ bận đi kinh lý vắng. Đến khi Lý Vụ về thấy người Nam nhan nhản ở kinh thành cả sợ tưởng nước đã bị chiếm đóng, vội đến tìm Quốc vương hỏi chuyện.
Khi đã biết rõ đầu đuôi, Tân- lý Vụ ngẩn người nói:
- Bệ hạ nuôi ông tay áo, vạ đến nơi rồi.
Xạ Đẩu ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậy?
- Người Nam vốn quỉ quyệt, tin làm sao được. Trước kia, mấy lần họ định sang chiếm đất của ta nhưng vì nước ta sông, núi, hiểm trở, lam sơn chướng khí thì nhiều, nên họ lại phải thôi. Xem như Chiêm thành thì đủ biết. Dân Chiêm vô tội, chỉ vì hèn yếu mà bị họ đè nén, lại dùng lối tầm gửi lấn ngành, làm cho đất Chiêm dần dần thu hẹp lại. Nước Ai lao ta đất rộng người thưa, chính là một mồi ngon của họ. Vua Lê thánh Tôn đem năm đạo quân sang đánh Lão qua và Bồn nam cũng vì muốn thực hiện cái mộng bá chủ phương Nam. Ngày nay bệ hạ cho mấy vạn dân Nam sinh cơ lập nghiệp ở đây, lâu ngày ‘‘Khách biến vi chủ’’ cái họa tuyệt chủng khó lòng mà tránh khỏi. Da dĩ người Nam vốn là một dân tộc anh hùng đã từng đương đầu với Trung Quốc mà có bao giờ chịu lùi bước đâu? Nguyễn Kim không phải là tay vừa, tướng sĩ của hắn người nào cũng mạnh khoẻ như hùm beo cả. Hắn bị Mạc đăng Dung đánh đuổi nên phải sang ẩn náu bên ta. Một mai hắn đủ thế lực trở về cố quốc, đánh họ Mạc, được thì hay nhất, nhỡ ra thua, hắn lại quay về đây ở lì nhất định không đi nữa thì ta tính làm sao? Đối với họ Mạc thì hắn đành chịu kém, chứ đối với nước ta dân tình còn lạc hậu, quân sĩ ô hợp, tướng tài không đủ lấy vài viên, nếu hắn dở mặt thì chỉ trong một ngày là toàn quốc bị chiếm đóng.
Xạ Đẩu đờ người ra không nói được câu nào. Tân Lý Vụ lại tiếp:
- Còn một lý do nữa khiến cho ta không thể dung cho Nguyễn Kim ở đây được. Hiện nay hắn là đối thủ của Mạc đăng Dung, vì trong bọn cựu thân của nhà Lê, dễ chỉ có hắn là tay kiệt liệt hơn cả.
Nếu họ Mạc biết hắn ẩn núp ở bên này, thì rồi có lúc cử binh sang tróc nã. Nguyễn Kim dù được dù thua nước ta cũng tan tành, thật là tự mình cõng rắn cắn gà nhà, vừa thiệt hại sinh mệnh của cải vừa làm cho tình bang giao thêm phần khó khăn.
Xạ Đẩu càng sợ hỏi:
- Sự đã rồi, khanh bảo trẫm định đối phó bằng cách nào?
- Bệ hạ cho gọi Nguyễn Kim vào đây, để hạ thần dùng lời lẽ thăm dò ý tứ của hắn. Nếu hắn quả không có bụng dạ nào dòm ngó nước ta, thì hạ thần sẽ tìm cách tống đi là xong. Trái lại, nếu hắn lòng lang dạ sói tìm cách lấn dần, thì bệ hạ giết phăng đi, rồi đêm nay lừa cho người Nam ngủ say, đem quân ra đánh úp một trận thì không còn lo gì hậu hoạn nữa.
Xạ Đẩu khen phải, liền sai một viên quan đến với Nguyễn Kim vào triều.
Nguyễn Kim nghe lời Đặng thị dặn, sắp sẵn câu trả lời, rồi cứ vững tâm đến hoàng cung.
Quốc vương mời ngồi. Kim đưa mắt nhìn thấy lố nhố các quan toàn là những người quen mặt cả, tựu trung có một vị ngồi hàng đầu nom sắc mặt hầm hầm mà chàng chưa gặp bao giờ. Kim đoán là thừa tướng Tân lý Vụ, nên cúi đầu thi lễ:
— Hạ quan kính chào thừa-tướng.
Tân lý Vụ cũng đáp lễ:
- Hạ quan ở xa vẫn biết tiếng An thành hầu, nay mới được hội diện, thật hân hạnh quá chừng.
Nguyễn Kim khiêm tốn đáp:
- Hạ quan gặp lúc quốc biến, gia vong, phải sang nương nhờ quí quốc, tự lấy làm hổ thẹn vô cùng. Thừa tướng đứng đầu trăm quan, giúp Đại vương cai trị muôn dân, hôm nay vời hạ quan vào chắc có điều hay dậy bảo.
Tán lý Vụ cười nhạt hỏi:
- Bên quí quốc họ Mạc làm việc thoán nghịch, dân áo vải còn biết chỗi dậy kháng cự đến cùng, thế mà tiên sinh mang tiếng là giòng giỏi trung thần lương tướng, đã không biết lấy cái chết để đáp lại ân tình của nhà Lê, lại chạy trốn ẩn nấp một nơi cầu lấy cái sống thừa, thì không hiểu ý định của tiên sinh ra sao? Xin bầy tỏ cho hạ quan được rõ.
Nguyễn Kim đáp:
- Họ Mạc bội nghịch, đến cỏ cây còn oán giận huống chi là giống người có tâm huyết. Hạ quan ăn bổng lộc của nhà Lê, sống chết với nhà Lê, có lẽ nào lại đội trời chung với họ Mạc. Xưa kia Bá Di, Thúc tề vì phản đối nhà Chu mà vào ăn ở núi Thú dương hái rau vi ăn. Ngày nay hạ quan cùng một nhóm dân trung nghĩa bỏ đất của nhà Mạc sang nương nhờ quí quốc để mưu sự phục thù, chẳng qua cũng muốn bắt chước cái khí tiết của cổ nhân đó thôi, còn như tìm một cái chết không lợi gì cho nước thì chúng tôi không làm.
- Một giải đất Thanh hóa của lệnh nghiêm đường không đáng là nơi để tiên sinh dụng võ hay sao mà phải chui rúc ở xứ mọi rợ này?
Các quan đều che mặt cười, Nguyễn Kim biết là lời nói đuổi khéo, bèn thưa rằng:
- Hồi trước hạ quan cũng đã hoạt động ở Thanh hóa nhưng vì thế lực còn mỏng manh nên bị tướng nhà Mạc là Dương chấp Nhất đánh thua, phải chay lạc lõng sang quí quốc. Tệ bang với quí quốc, xưa nay hai bên chưa có xảy ra sự gì bất hòa, thì dẫu hạ quan có tạm nương náu ít lâu, tuy cũng phiền phức thật, nhưng cũng là một sự bất đắc dĩ. Nếu thừa tướng không dung, hạ quan xin đi nơi khác.
Tân lý Vụ thấy mình chót quá lời, cũng có ý thẹn, bèn giả vờ nói:
- Hạ quan thấy tiên sinh vì đại nghĩa mà phải bôn ba lưu lạc, nghĩ cũng thương tình muốn giúp một ít quân, tiên sinh nghĩ thế nào?
Nguyễn Kim cúi đầu, thưa:
- Hạ quan xin cảm tạ tấm lòng hào hiệp của thừa tướng. Hiện nay hạ quan tuy quân đơn tướng ít, nhưng không dám ỷ lại vào thế lực ngoại bang để mưu sự thành bại. Ở tệ quốc, trung thần nghĩa sĩ còn nhiều, hạ quan gọi một tiếng là hàng vạn người theo chỉ hiềm chưa có cơ hội đó thôi.
- Thế ngộ thua thì tiên sinh tính sao?
- Không may mà thất bại, thì ba thước đất ở Thanh hóa là nơi yên giấc ngàn thu của hạ quan, có lẽ nào cứ bôn ba lưu lạc mãi quê người.
Tàn lý Vu biết rõ chí hướng của Nguyễn Kim nên không nói nữa, chỉ đưa mắt làm hiệu cho quốc vương biết. Xa Đẩu hỏi thử:
- Dân Chiêm thành thường chê người Nam là hội tín, quả nhân cũng nhận thấy đúng một vài phần. Tiên sinh nghĩ sao?
- Đại vương thấy đúng ở chỗ nào?
- Đời nhà Trần, quân Nam đục thuyền để cho hàng tướng là Ô mã Nhi bị chết đuối. Thế là một chuyện. Vua Trần anh Tôn đã gả Huyền Trân công chúa cho quốc vương Chiêm Thành rồi nhân lúc vua Chiêm mất, sai tướng sang thăm viếng, thừa cơ cướp công chúa mang về. Thế là lấy không được hai châu Ô, Lý. Trận Chi Lăng, Bình định vương dâng thơ trá hàng lừa cho Liễu Thăng vào trọng địa rồi giết. Như thế chả là bất nhân bất nghĩa lắm ru!
Nguyễn Kim cười đáp
- Đại vương ở xa không biết rõ sự thực,để hạ thần bày tỏ cho đại vương nghe. Việc của nhà Nguyên vu cho người của tệ quốc đục thuyền làm chết đuối Ô mã Nhi thật là vô căn cứ. Chẳng qua Nguyên chúa muốn che lấp cái nhục nhã ở Bạch đằng giang nên bắt bẻ qua loa để giữ thể diện chứ muốn giết Ô mã Nhi nào có khó gì! Chỗ trận tiền khi mà quân giặc đã tan tác chạy dài thì chỉ một ngọn giáo vung lên là kết liểu đời viên tướng Mông cổ, hà tất phải dùng cái kế đục thuyền? Còn như việc gả bán Công chúa Huyền Trân, thì khi vua Chiêm thăng hà, tiên đế Trần Anh Tôn có sai Trần khắc Chung sang viếng tang, đó là lấy tình thông gia sử sự như vậy. Theo tục nước Chiêm, thì các hoàng hậu phi tần phải tự thiêu mình để theo quân vương, công chúa Huyền Trân cũng phải chịu theo tục lệ đó để danh tiết được toàn vẹn. Nhưng dân Chiêm lại cho công chúa là ngngười dị chủng, nhất định liệt công chúa vào hạng thị tì, không cho cái vinh dự được ngồi lên giàn hỏa. Đó là một điều sỉ nhục cho nước tôi. Dân Chiêm đã không biết mình, xử sự trái lẽ, lại còn trách móc lôi thôi, thì không biết họ tránh móc nỗi gì? Hạ thần hãy đặt câu hỏi: Nếu công chúa Huyền Trân sợ chết
trốn về nước thì khi qua bao nhiêu cửa ải dùng cách nào thoát được, nếu không có sự đồng ý của quân Chiêm? Chẳng qua người Chiêm xưa nay vẫn ác cảm với Nam quốc, không làm gì được ở trận tiền, nên lấy sự phân biệt nòi giống để làm nhục lại, đó là một lối trả thù của kẻ yếu đối với kẻ mạnh. Quốc vương chúng tôi cũng nhận thấy thế, nhưng vẫn lấy lượng cả đối đãi để cho tình hữu nghị khỏi bị thương tổn.
Còn như Liễu Thăng bị chết ở Chi lăng thật là đáng kiếp lắm. Binh pháp có câu ‘‘Binh bất yếm trá’’, kẻ làm tướng cầm biết bao nhiêu sinh mệnh con ngngười, phải biết quyền biến, mẹo mực như thần, hư hư thực thực, cốt sao diệt được địch thủ mà không tổn hại quân mình là được. Liễu Thăng thân làm một ông tướng đã từng lăn lộn
ở sa trường mà còn giữ cái tính kiêu ngạo, khinh người như cỏ rác, coi rẻ tính mệnh của ba quân, để đến nỗi chết một cách tầm thường, thì đủ biết Nguyên chúa dùng người rất bậy bạ. Như thế mà Đại vương lại bảo người Nam chúng tôi là bất nhân, bất nghĩa, thì không biết những kẻ chỉ quen đi xâm lấn nước người, Đại vương liệt họ vào hạng người nào?
Xạ Đẩu mặt có sắc thẹn, ngồi im. Một vị quan đại thần lên tiếng:
- Tiên sinh khéo ngụy biện, nhưng không che được cái lỗi của mình. Tiên sinh bảo quân Nguyên xăm lăng nhưng chính ra Nam chúa gây hấn trước, nên mới khinh bỉ sứ thần. Việc chiếm đất của Chiêm và đánh nước Lão qua thì lỗi tại ai?
Kim thản nhiên trả lời:
- Kể từ khi Nam quốc được tự chủ, thì trong sự giao thiệp với Trung quốc, các vua chúa nước tôi vẫn giữ lễ thần tử. Sứ thần của Trung quốc dù sao cũng chỉ là một vị quan thôi nếu xét về chức tước hãy còn kém bậc các vua chư hầu. Sài Thung là một viên quan nhỏ được ủy sang tệ quốc để nối việc bang giao, mà lại lên mặt khinh rẻ mọi người, thì dầu nhũn nhặn đến đâu cũng phải tức. Đã thế Nguyên chúa lại nghe lời hắn sui giục, ý muốn thôn tinh nước Nam làm quận, huyện, nên cất quân sang đánh làm cho Nam chúa chúng tôi bất đắc dĩ phải động binh. Phàm có việc bình định nước Lão Qua và nước Chiêm thành là vì hai nước đó không tự lượng sức mình, hay quấy rối ở biên thùy, làm trở ngại sự thông thương, nên quân Nam vì tự vệ mà phải lâm vào vòng chiến. Vua Chiêm thua trận tự dâng đất cầu hòa. Còn nước Lão qua chịu thần phục không cắt đất, thì chúa chúng tôi có thèm đòi đâu.
Dân Nam đối với mọi người đều lấy tín nghĩa làm đầu, không sợ kẻ mạnh, nhưng không bắt nạt kẻ yếu, đời sống giản dị bình thường ghét sự sa hoa đàng điếm. Mấy tháng giời, chúng tôi nương nhờ quí quốc, tính nết thế nào, chắc các hạ đã rõ, bất tất phải biện bạch nhiều.
Mọi người thấy Nguyễn Kim đối đáp nhanh nhẹn thẩy đều sợ hãi, ngồi im không dám hỏi nữa.
Quốc vương Xa Đẩu nghĩ một lát rồi phán:
- Kinh thành đất hẹp không phải là nơi dụng võ. Quả nhân muốn mời tiên sinh đến nơi khác, tiên sinh có ưng không?
- Cái đó xin tùy lượng của đại vương.
- Tiên sinh hãy tạm về nhà, quả nhân sẽ có cách giúp.
Nguyễn Kim lạy rồi ra về kể chuyện cho Đặng Thị biết. Đặng thị cả mừng nói:
- Tôi dùng mẹo này sẽ đánh lừa được họ.
Đoạn gọi Nguyễn Uông ra dỉ tai một lúc. Uông tức khắc đi loan báo cho các tướng sĩ đều biết. Ngày hôm sau khắp kinh thành đồn rầm lên là Mạc đăng Dung sắp cất quân sang bắt Nguyễn Kim. Tin đó đưa đến tai Quốc vương Ai Lao. Xa Đẩu cả sợ liền vời Tàn lý Vụ vào hỏi kế.
Lý Vu bàn rằng:
- Nếu để quân Mạc sang đây thì nguy cho ta lắm. Bất nhược ta dùng mẹo này vừa không mất lòng Nguyễn Kim mà nhà Mạc cũng không trách ta vào đâu được.
- Mẹo gì?
- Ở về phủ Trấn Nam có đất Sầm Châu rất hiểm trở và lại giáp giới với Thanh Hóa, bệ hạ cho Nguyễn Kim ra đó. Nếu có xẩy ra sự lôi thôi thì chỉ ở biên thùy, Mạc đặng Dung không lấy cớ gì mà kéo quân xâm phạm nước ta được.
Xạ Đẩu gật đầu khen.
- Thật là diệu kế.
Ngay hôm ấy Xạ Đẩu truyền cho Nguyễn Kim phải cấp tốc di cư về Sầm Châu và ban cho đủ lương thực để quân dân dùng trong lúc hành trình. Về đến Sầm Châu, Đặng Thị họa địa đồ, rồi cho quân lính cứ chiếu theo đó mà đóng dinh trại, lại tìm chỗ đất rộng rãi làm nhà cho dân chúng ở, chia ra từng làng, xóm. Phàm những nơi ách tắc trong rừng đều đặt quân canh gác, đào giếng khơi ngòi, đắp đường xá để tiện việc thông thương, chiêu mộ dân bản xứ đến lập đồn điền. Không đầy nửa năm mà đất Sầm Châu đã biến thành một thị trấn to tát, người ngựa đi lại rầm rập, quân sĩ luyện tập suốt ngày để chờ thời khởi sự,
Một hôm Đặng Thị bàn rằng:
- Chúng ta sướng xuất khẩu hiệu ‘‘Phù Lê diệt Mạc’’ thì phải tìm một người dòng dõi họ Lê tôn lên làm Minh Chủ mới có thể danh chính ngôn thuận được. Tiên sinh nên truyền hịch đi khắp nơi để mọi người hiểu rõ công việc mình làm, chắc chắn thế nào cũng có người trong hoàng phái tìm đến.
Nguyễn Kim nghe lời, liền thảo tờ hịch gửi đi.
‘‘Hỡi dân chúng toàn quốc.
Nước đang lúc hưng thịnh thì sinh ra lắm điều hay, khi đã rối ren thì có nhiều việc gở
‘‘Xem như đời Hồng đức luôn 5 năm mưa gió thuận hòa, dân chúng an cư lạc nghiệp, Sĩ phu đua nhau dùi mài kinh sử, các xứ mọi rợ thấy đều sợ uy thiên tử mà lại chầu. Đến đời vua Lê uy Mục thì ở đất Sơn nam có giống châu chấu làm hại mùa màng, từng đàn chim sẻ ở mạn Bắc bay về che kín cả kinh thành trong hai tiếng đồng hồ. Đêm đêm, thường nghe thấy tiếng khóc rầu rĩ ở góc thành Đông, dân chúng xôn xao cho là điềm sắp có loạn. Hồi ấy ở Hải dương dân chết đói rất nhiều, con sông ở làng Cổ chai tự nhiên nhuộm máu (1) trong nửa ngày mới tan hết. Quan Ngự sử xem thiên tượng có đóan là điềm hung tinh giáng trần gây việc tai ương. Từ khi vua Lê uy Mục dùng Mạc đăng Dung thì trong nước không bao giờ được yên, lúc thì lụt lội mất mùa, khi thì hỏa tai, đói kém, dân chúng nhục nhã điêu linh, triều đình lung tung đổ nát. Ngày nay Mạc đăng Dung tiếm vị làm nhiều việc bạo nghịch, khiến cho cỏ cây cũng phải câm hờn, các trung thần nghĩa sĩ ẩn náo một nơi, chịu cảnh ngậm sầu nuốt tủi. Xét cho kỹ ra thì luân lý của dân ta vốn gốc ở đạo nho, con người ở trong gia đình lấy chữ hiếu làm đầu, ngoài xã hội thì chỉ có đấng quân vương là trọng, cho nên hễ có giữ được trung hiếu thì con người mới đáng quí. Cường thần Mạc đăng Dung không giữ vẹn đạo thần tử, dẫu có được hống hách một thời, nhưng sự nghiệp cũng như Tào, Măng mà thôi. Xem như Hồ quý Ly khôn khéo bao nhiêu mà cũng không thoát được lưới trời, rút cục lại phải gửi xác ở chốn quê người, trăm năm bia miệng chê bai, nghìn thu xử xanh sỉ vả.
‘‘Ta nay khởi nghĩa ở đất Sầm châu, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, nghĩ căm giận cho họ Mạc hung tàn, sót thương cho Lê hoàng bị giết. Dân chúng chớ nghe lời đường mật của loài Mạc cẩu phải đứng lên giết hết kẻ thù, trai gái đoàn kết một lòng, giang sơn thu vê một mối.
‘‘ Cõi Lam sơn còn đó, ai người hoài niệm Lê triều? Đất nước tao loạn điêu linh nghĩa sĩ hãy vùng chỗi giậy ’’.
NGUYỄN KIM
Những tờ hịch được tung ra khắp nơi, ai nấy đều nức lòng đón chờ ngày khởi sự trong khi ấy quân lính họ Mạc vẫn ra tay đàn áp dân chúng làm cho tình thế càng ngày càng trầm trọng.
Chú thích:
(1) Có lẽ thuồng luồng ở khúc sông đó bị Mạc đăng Dung giết.