← Quay lại trang sách

CHƯƠNG HAI Trịnh Kiểm

NĂM Nhâm Thìn (1531) tức là năm Đại chính thứ hai (niên hiệu của Mạc đăng Doanh), tình hình trong nước đã thấy bớt sôi nổi. Các phần tử nhà Lê không thấy hoạt động mạnh như trước, và những cuộc khủng bố cũng dịu dần. Dân chúng lại tiếp tục sống một cuộc đời bình thản trong cảnh tươi đẹp của đồng ruộng.

Người dân Việt có lẽ đã quen với những biến cố chính trị thường xảy ra Iuôn luôn trên đất nước nên lòng trung thành của họ cũng theo thời cuộc mà co rãn, tư trào của họ cũng theo chiều mà xoay hướng cốt sao được yên ổn nơi quê hương là mãn nguyện rồi. Nói như vậy không phải là phủ nhận tấm lòng yêu nước chân thành của họ đâu? Không, họ rất tha thiết với sự tồn vong của giống nòi, và coi rẻ cái chết khi phải bảo vệ giang sơn. Trong khối óc dản dị của họ, kẻ thù chính của toàn dân hồi bấy giờ là quân Minh, là cái khối khổng lồ Trung Quốc, là cái chế độ thực dân sâu mọt của đế quốc phương Bắc đã trói buộc họ trong nô lệ hơn 10 thế kỷ. Ở họ, tư tưởng tranh đấu chỉ được mơ rộng và kích thích một cách hiệu quả nhất là khi có cuộc xâm lăng của ngoại bang. Cho nên trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, những cuộc đảo chính tiếp diễn trên 500 năm đối với họ là những sự trạng không quan trọng lắm, nhà nào nắm quyền thống trị thì tuy luật lệ hành chính có thay đổi qua loa, nhưng rút lại cũng chưa mang lại cho dân những phương tiện sinh hoạt nào khả dĩ gọi là tốt đẹp được. Thời đại nào họ cũng bị giai cấp thống trị bóc lột đến xương tủy và xô đẩy họ vào vòng chinh chiến liên miên với các nước lân cận, và nếu có đoạt được thắng lợi về quân sự thì nền kinh tế trong nước cũng kiệt quệ, nông nghiệp không phát triển được đều hòa, người dân áo vải vẫn phải ngửa cổ ra chịu sưu cao thuế nặng, tạp dịch phu phen. Gặp được những vị anh quân như Lý thánh Tôn, Lý nhân Tôn, Trần thánh Tôn, Lê thánh Tôn... lúc nào cũng thương dân như con, thông cảm với dân những nỗi đau khổ, thì họ còn đỡ bị đè nén, rầy vò. Không may phải các bạo chúa như Lê uy Mục, Lê tương Dực đã sa sỉ hoang dâm, lại hay nghi ngờ đa sát, thì đời sống của họ chỉ

những lo cùng phiền, còn nói chi đến chuyện phát triển nông nghiệp và thương nghiệp được.

Đã bị chìm đắm trong vòng tối đen, ngu dốt, lại khổ vì áp lực của bọn sĩ phiệt, bắt buộc phải khom lưng trên cánh đồng lầy để cung cấp thóc gạo cho giai cấp địa chủ quí tộc, dân quê đâm ra chán nản, tiêu cực, sống không Iý tưởng, không tương lai, dưới sự đe dọa của thiên nhiên như lụt lội, hạn hán, hỏa tai bão táp. Vì thế mà sau cuộc đảo chính do Mạc đăng Dung gây ra, một số dân hoài Lê tuy có bồng bột nổi lên phản kháng, nhưng rồi lại im ngay trước sự khủng bố ráo riết của họ Mạc. Họ chịu trở lại với cuộc đời tầm thường của họ dưới bóng tre xanh, thỏa hiệp với tân triều và hy vọng vươn tới một mực sống sán Iạn hơn. Mạc đăng Dung đã đi sâu vào tâm lý công cộng của toàn dân, nên dầu có phải bắt buộc dùng chính sách đàn áp trong một thời gian, nhưng rồi lại nới tay ngay, và lung lạc bọn sĩ phu bằng cách truy tặng cho những người đã tuẫn tiết theo nhà Lê. Đối với giai cấp nông dân, họ Mạc khôn khéo, chiều theo nhu cầu và nguyện vọng của mọi người là định chỉ việc thu thuế trong ba năm, phát thóc gạo và vải, giải tán một nửa số binh lính tại ngũ, đặt quan hệ ngoại giao với Trung quốc, Chiêm Thành, Ai Lao. Làm như thế cốt tỏ cho dân chúng biết chiến tranh đã chấm dứt và triều Mạc đã được các nước lân bang chính thức công nhận.

Mạc đăng Dung làm vua đến năm Canh dần (1529) thì nhường ngôi cho con là Mạc đăng Doanh còn mình về Cổ chai làm Thái Thượng hoàng. Năm Tân mão (1530) Đăng Doanh mới lấy niên hiệu là Đại chính Nguyên niên, và năm sau thì ban bố việc mở khoa thi để kén nhân tài. Chỉ dụ của vua Mạc gửi về huyện Vinh Lộc (Thanh hóa) huyện quan là Trương hoằng Sử lập tức sai thảo công văn đi các thôn xã báo cáo cho dân chúng biết. Hôm ấy lại nhằm vào phiên chợ Sài, mọi người thấy dán ở tường một tờ giấy hồng điều to bằng nửa chiếc chiếu vội đổ sô lại xem, nhưng chẳng ai đọc được chữ gì, chỉ đứng giương mắt nhìn chán rồi lại đoán phỏng. Bấy giờ có một người ở làng Sóc Sơn thấy thế liền chạy vội đi tìm một chàng thiếu niên đang bán củi ở góc chợ:

- Bác lại đây xem hộ cái này một tí, nhanh lên. Chàng thiếu niên vừa bán xong gánh củi, đang đếm tiền thấy gọi liền đáp:

- Tôi còn bận đi mua vài thứ, chốc nữa lại.

Người ấy cố lôi bằng được:

- Cần biết ngay bây giờ. Một tí thôi mà.

Chàng thiếu niên buộc tiền cẩn thận vào cạp quần rồi theo người làng đến chỗ dán tờ cáo thị. Chàng rẽ đám đông, tiến vào, đọc lo cho mọi người nghe:

‘‘Tri huyện Vĩnh Lộc sức hạ toàn dân tri tất: Binh thân niên, tức Đại chính lục niên, Thánh Thượng chi chuẩn khai khoa thủ sĩ, tuyển dụng nhân tài. Sĩ tử hoặc trúng Trạng nguyên, Bảng nhỡn, Thám Hoa tịnh Tiến sĩ tam thập nhân. Kỳ luật lệ trường quy y như cựu. Tu tiên sức toàn dân tri chiểu…’’

Tri huyện

Có tiếng nhao nhao hỏi:

- Bác dịch nôm cho anh em hiểu qua loa.

Chàng thiếu niên rõng rạc nói:

- ‘‘ Quan tri huyện Vĩnh Lộc sức cho dân chúng biết rằng đến năm Bính thân, tức năm Đại Chính thứ 6, nhà vua có mở khoa thi kén nhân tài. Những người đỗ chia ra như sau: Trạng nguyên, Bảng nhỡn, Thám Hoa và 30 Tiến sĩ. Các luật lệ trong trường quy vẫn như cũ. Vậy sức cho dân chúng biết trước.’’

Chàng đọc xong, mọi người bấy giờ mới để ý đến chàng. Không ngờ rằng một người rách rưới như thế kia mà xem nổi một tờ cáo thị bằng Hán văn, nhất là ở một thời đại mà chỉ những hạng quí tộc mới đủ điều kiện để theo đuổi sự học. Người ta nhao nhao hỏi tên chàng và quê hương của chàng, nhưng chàng đã lẩn đi đâu mất. Vậy chàng thiếu niên đó là ai? Chàng họ Trịnh tên Kiểm, người làng Sóc Sơn huyện Vĩnh Lộc, phủ Quang Hòa (Thanh Hóa) Tổ họ Trịnh xưa kia quê ở làng Tiên Trung cùng phủ, làm ăn rất phát đạt, truyền đến Trịnh Lục là thân phụ Trịnh Kiểm thì dần dần sa sút, Trịnh Lục còn giữ lại được ba gian nhà gỗ thì đến năm Đoan Khánh thứ hai (niên hiệu vua Lê uy Mục) bị cướp đốt cháy sạch. Vợ chồng hết đường sinh kế, đành phải di cư sang làng Sóc Sơn cấy nhờ ruộng của một nhà phú hộ để lấy thóc ăn. Năm sau thì Trịnh Kiểm oe oe tiếng khóc chào đời. Vợ chồng tuy có buồn vì gia đình bần bách nhưng lại mừng vì được một giai vui vầy trong lúc sớm hôm. Trịnh Kiểm nhớn lên mặt mũi khôi ngô, thân hình tráng kiện, nên được Trịnh Lục yêu quý lắm. Năm Kiểm lên 6, người cha bắt đầu khai tâm cho con. Kiểm rất thông minh học đâu nhớ đấy, lên 10 tuổi đã biết làm thơ. Một hôm có người bạn đến chơi, Trịnh Lục gọi con ra khoe:

- Thằng bé này ngày sau, tuy không chắc chiếm được Trạng nguyên, Bảng nhỡn, nhưng cái Tiến sĩ thì cầm chắc trong tay.

Ông bạn đáp:

- Thời buổi loạn ly này, võ cần hơn văn, Thơ phú có hay thực nhưng không đuổi được giặc. Nên cho con trẻ xoay nghề cnng kiếm thì hơn.

Lục cười:

- Thế nhân trọng văn khinh võ, kẻ cầm thanh gươm lăn lộn ở sa trường tính mệnh như nghìn cân treo sợi tóc. Chỉ có khách văn nhân dùng ngọn bút mà trị dân đã nhàn nhã ung dung lại quyền cao lộc cả.

- Ở đời, sức khỏe là cần nhất. Đối với người lương thiện, thì dùng lời lẽ phải trải là có thể hàng phục được, còn đối với kẻ hung bạo không dùng sức mạnh không xong. Xem như hồi nhà ông bị cướp thì đủ biết. Nếu ông có vũ nghệ để đối phó với chúng thì có lẽ gia đình không đến nỗi phải phiêu bạt đi nơi khác để kiếm ăn.

Trịnh Lục chợt tỉnh ngộ ra, liền nói:

- Tôi không biết vũ nghệ thì dạy cháu làm sao được.

- Ở làng bên có Hoàng vũ Cử mở trường dạy võ, sao ông không cho cháu sang học?

Trịnh Lục nghe lời, chọn được ngày tốt cho con sang thụ giáo Hoàng vũ Cử. Thấm thoát được 5 năm, Lục mắc bệnh qua đời. Kiểm thôi học ở nhà, đi làm nuôi mẹ. Ngày ngày Kiểm vào rừng kiếm củi bán lấy tiền, thừa thì giờ lại luyện tập vũ nghệ để đợi thời tiến thân. Hôm ấy chàng gánh củi ra chợ bán, gặp người làng gọi đến đọc hộ tờ cáo thị xong, chàng vội đi đong ít gạo rồi về?.

Trịnh Kiểm tới nhà thì trời hãy còn sớm chạy vào buồng hỏi thăm mẹ. Trịnh mẫu nằm trên giường thấy con về mừng quá hỏi:

- Con có bán được khá tiền không?

Kiểm vâng, rồi kể cho mẹ biết Mạc triều sắp mở khoa thi, rồi tiếp:

- Con có chút học thức cũng muốn một phen xuất đầu lộ diện, nhưng quyết không chịu làm quan với họ Mạc.

Trịnh mẫu ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại thế?

- Họ Mạc làm việc thoán nghịch, sĩ phu trong nước đều căm giận, con là người đọc sách há lại không biết lẽ phải hay sao?

- Cha con mất đi để cho hai mẹ con ta phải lâm vào cảnh bần hàn. Ngày nay con đã khôn lớn, cũng nên tìm cách tiến thân, chớ có a dua theo đòi người ta mà làm mai một tài ba đi. Vả lại sự thay đổi triều chính là thường; họ nào làm vua thì ta cũng là thần tử, cũng phải đóng thuế, đi phu có khác chút gì đâu? Mẹ nay đã già, tính mệnh như ngọn đèn trước gió, chỉ mong sao con sớm thành gia thất và có công danh là mãn nguyện rồi. Con nên nghe lời mẹ ôn nhuần kinh sử để góp mặt với đời, có được như thế, thì mẹ dẫu nhắm mắt cũng không oán hận gì.

Kiểm vốn là người con có hiếu, không dám trái lời mẹ, liền đáp:

- Ba năm nữa mới có khoa thi, đã vội gì. Con sẽ làm cho mẹ được hài lòng.

Nhìn thấy trời đã sắp tối. Kiểm đứng dậy:

- Con đi thổi cơm để mẹ sơi nhé!

Trịnh mẫu sẽ nói:

- Mẹ thấy người khó ở, không ăn cơm.

Kiểm sờ vào trán mẹ thấy hâm hấp sốt thì cả sợ:

- Mẹ sốt sao không nói cho con biết.

- Con đừng ngại, mẹ chỉ mệt qua loa rồi sẽ khỏi.

Kiểm xuống bếp thổi cơm ăn xong, đến tối thì bà mẹ lại lên cơn sốt li bì. Kiểm vô kế khả thi, chỉ ngồi cạnh giường mà khóc. Suốt đêm Trịnh mẫu rạo rực, vật vã trên chiếu, gần sáng thì chợp mắt rồi ngủ mãi đến gần trưa mới tỉnh giậy. Kiểm sờ đầu mẹ thấy mát, cả mừng hỏi:

- Mẹ có ăn cháo không?

Trịnh mẫu phều phào nói:

- Mẹ thèm... thịt gà... con... con...

Kiểm đờ người, ngồi lặng yên. Trong lưng không có lấy mội đồng một chữ nào thì tìm đâu ra gà? Tình thương mẹ rào rạt cỏi lòng chàng đứng dậy sẽ mở cửa, chạy sang người hàng xóm là Trương Còm hỏi vay một con gà. Trương Còm lạnh lùng giả nhời:

- Có con gà mái đang ấp không cho vay được.

Kiểm trông thấy ba bốn con gà dò đang ăn thóc ở ngoài sân, cố năn nỉ:

- Bác cho vay một con gà dò, mai tôi đền cho bác một gánh củi.

Trương Còm lừ mắt:

- Bé quá ăn làm sao được, anh sang bác Lâm hỏi may ra được.

Kiểm nhảy ba bước sang nhà bác Lâm ngập ngừng nói giữa hai giọt lệ:

- U em mệt muốn ăn cháo gà, bác cho em vay một con, tính bao nhiêu tiền mai em bán được củi sẽ giả.

Bác Lâm giai đã rõ tình cảnh của Kiểm, nghĩ ái ngại toan cho vay, thì bác gái đã le te ở dưới bếp lên, lắc đầu quầy quậy, đáp:

- Gà nhà tôi phải dùng có việc, nếu có tiền ngay thì tôi bán cho.

Kiểm cố van lạy:

- Mai em giả, bác làm ơn...

Bác gái cong cớn:

- Chịu thôi, tiền trao, cháo múc. Đưa tiền đây thì có ngay.

- Em thề với bác là mai em sẽ giả,

- Bánh đúc thì đổ lên sàng.. Thuận thiếp, thiếp bán, thuận chàng, chàng mua. Đưa tiền đây, thích con nào tha hồ mà bắt.

Kiểm lủi thủi ra về, cố lục lọi xem trong nhà có cái gì có thể đem bán được, nhưng khốn thay! Ngoài mấy chiếc chiếu rách ra và vài cái nồi đất thì không còn tìm đâu ra thứ đáng lấy một đồng kẽm. Đang lúc phân vân, chàng chợt nhớ đến thanh kiếm rỉ của thầy học làm quà cho, mà chàng vẫn dùng để chẻ củi, vội cầm phắt đi sang nhà bác Lâm.

- Em gửi tạm bác thanh kiếm này lấy con gà, mai em có tiền xin chuộc.

Bác Lâm gái bĩu môi rẫy nẩy nói:

- Ối eo ôi! tôi mang cái khỉ gió này về để đâm cổ mổ hầu ai?

- Gọi là của làm tin thôi mà! chả có bác để chẻ củi cũng được.

- Tôi lạy bố trẻ là hết, bố định sui chồng tôi đi ăn cướp chắc? Thôi, mời bố đi chỗ khác.

Kiểm biết không sao được, buồn rầu đi sang mấy nhà bên cạnh. Đến đâu chàng cũng bị sua đuổi hất hủi, và nhận được những lời mỉa mai chua chát.

Chàng về nhà giương cặp mắt ai oán nhìn thân hình gầy còm cọ quậy trong chiếc chiếu rách, rồi nghĩ đến cái nhục vừa qua, chàng vừa thương mẹ, vừa thương mình, ôm mặt nức nở khóc. Chàng cất tiếng khóc não nùng, ai oán không phải đi gợi lòng thương cảm của người đời, vì chàng đã nhận thấy người đời phần nhiều là ích kỷ và bạc ác, mà để cho bao nỗi căm hờn được theo nước mắt trút ra ngoài. Trời tối dần... xa xa còi mục đồng rộn rã trong cảnh hoàng hôn. Tiếng võng kẽo kẹt ở hàng xóm vọng sang; điểm theo mấy câu hát ru con, làm chàng nín khóc. Chàng thấy bụng đói như cào vì suốt cả ngày còn mãi đi vay gà, chưa được hột cơm nào. Chàng lấy bùi nhùi tuổi lửa châm đèn. Trịnh mẫu ngủ thiếp đi một lúc rồi tỉnh giậy cựa mình gọi:

- Con cho mẹ xin hớp nước.

Kiểm ra múc một bát nước lã mang vào đỡ đầu cho mẹ uống. Bà cụ uống xong lại hỏi:

- Con có vay được gà không? Mẹ thèm quá.

Kiểm bất đắc dĩ phải nói dối:

- Con vay được rồi, định để làm thịt cho mẹ xơi.

Trịnh mẫu cười:

- Người la thường nói: hễ người ốm thèm thức gì mà được ăn thì khỏi bệnh. Mẹ thèm thịt gà muốn dùng thử xem có nghiệm không.

Kiểm xuống bếp, ngồi thừ mặt ra ngẫm nghĩ.

Một cơn bão lòng đang tàn phá tâm hồn trong sạch của người thiếu niên. Lúc này chàng không thể ghìm nổi một hành động bất lương vì tình mẫu tử quá mạnh. Chàng vùng đứng giậy bước ra ngoài sân, trời tối đen như mực. Nhà nào cùng đóng cửa kín mít, thấp thoáng một ánh đèn ở sau bụi cây ném ra, nhợt nhạt như sắp tắt. Chàng co chân toan đi, thì chợt có tiếng chó sủa bên cạnh, làm chàng dật mình nép sau bức tường. Đợi một lúc không thấy gì khác, chàng ngó đầu nhìn trước nhìn sau như sợ có người rình, rồi yên chí, chàng nhảy vụt qua bức tường đất vào trong sân nhà bác Lâm. Có tiếng gà vỗ cánh phành phạch trong chuồng vài cái rồi im. Vài phút sau chàng nhẩy qua tường ra, chạy biến về nhà ném con gà đã bi bóp chết vào bếp...