← Quay lại trang sách

- III -

Cao Minh ném một thanh củi vào đống lửa, rồi giục Khanh:

- Anh thử ra xem có gì không?

Khanh vuôn vai, ngáp mấy cái, thản nhiên đáp:

- Tôi đã bảo Đào Từ đứng đón trên núi, nếu có đã phi báo ngay.

Khanh cầm ấm chè tươi rót ra bát, uống hết; trong lúc ấy Minh cũng vớ lấy chiếc điếu cầy châm lửa hút, làm bật những tiếng sòng sọc, ròn rã, vui tai. Ngọn lửa hồng đang reo trong bếp, nhờ được sức gió ở ngoài lùa qua khe cửa vào bốc cháy ngùn ngụt khiến hai người bị nóng rát cả mặt phải ngồi lùi lại xa độ vài bước. Minh sòe bàn tay lẩm nhẩm đếm, rồi nói:

- Chúng ta ra đây là mồng 6 tháng 9, mà bây giờ đã 25 tháng 1 vị chi là được 2 tháng 20 ngày. Còn 10 hôm nữa là hết kỳ hạn, chả biết có được về không?

Khanh cười,đáp:

- Cứ là già đời ở cái đất Khương Lang này. Bao giờ An thành Hầu tiến quân ra Thanh, Nghệ, thì mới có hy vọng thoát..

Kể ra chúng ta chỉ phải đóng ở đây có 3 tháng thôi, rồi lại đến phiên tướng khác. An thành hầu quân lệnh rất nghiêm, có lẽ nào sai lời được mà sợ.

- Biết đâu mà dám chắc! Khương Lang là cổ họng của Sầm Châu, giáp giới với Thanh Hóa. Nếu quân Mạc úp được Khương Lang, thì Sầm Châu lâm vào thế có, quân lính như ở trong bị, chỉ còn một cách chạy sang Ai Lao mới thoát chết được.

Minh cầm cái que gẩy gẩy mấy hòn than hồng nói:

- Một nơi quan trọng như thế này mà cho có 500 quân để canh giữ, thì không biết chủ tướng nghĩ thế nào?

- Quân cốt giỏi chứ không cần nhiều. Chúng ta đóng binh ở một vị trí rất cao, có thể trông suốt được mấy dậm đường. Trước mặt có sông án ngữ, sau lưng rừng rậm bát ngát, quân Mạc bên kia hành động như thế nào ta đã biết rồi. Giặc có gan tầy trời cũng không dám mạo hiểm sang đây.

- Biết đâu! nó rồn cả lực lượng vây chặt đồn của ta, thì có chạy lên mây!

Khanh cười:

- Tướng Mạc là Dương chấp Nhất không phải là vô dụng đâu. Hắn cũng biết thừa là chúng ta đang hoạt động bên này, muốn đánh lắm nhưng không dám sang vì hai lẽ...

- Anh cứ nói hết đi.

- Lẽ thứ nhất là Khương Lang thuộc về địa phận Ai Lao. Chưa có lệnh của Mạc đăng Dung, hắn không dám dấy binh sợ đụng chạm đến quân lực của ngoại bang. Lẽ thứ hai, từ Khương Lang về Sầm châu, rừng núi trùng trùng điệp điệp, dân cư thưa thớt, tiến sâu quá sợ bị phục binh thì hết đường tháo lui. Hắn chủ trương ngăn cản không cho quân ta tiến ra, cốt để cho ta hết đường tiếp tế lương thực chịu bó tay ở só rừng.,.

Minh gật gù tiếp:

- Cứ kể ra thì lực Iượng của ta còn mỏng manh lắm khó lòng mà đương đầu với địch. Vài năm nữa, chính quyền của họ Mạc đã vững vàng, tư tưởng hoài Lê cũng tiêu trầm, dân chúng không chịu làm hậu thuẫn cho ta thì một nắm quân nhỏ ở Sầm châu này chẳng những không làm được trò trống gì mà rồi cũng chết dần chết mòn hết.

Khanh cau mặt đáp:

- Hiện nay số quân của An thành hầu cũng được hơn 5000 người và rất đông các tướng tá cũ, có thể tấn công ngay Thanh hóa. Nhưng mục tiêu chính của chủ tướng không phải là Tây Đô mà là Thăng long, vì có lấy được Thăng long thì chiến tranh mới kết liễu được. Quân Mạc đóng rải rác khắp miền Bắc, thế mạnh như hùm beo, lại liên minh với dân Mường Mán để tăng cường lực lượng, làm cho ta tiến thoái lưỡng nan, không hiểu rồi ra ai thắng ai bại?

- Việc tôn phù Đức ông Lê duy Ninh (tức Lê trang Tôn) có ảnh hưởng gì đến dân chúng không?

- Dân chúng hãy còn tưởng nhớ đến nhà Lê, thì ta cần phải bầu một người dòng dõi họ Lê làm minh chủ, mới đủ gây uy tín với mọi người. An thành Hầu làm việc này rất hợp với chính nghĩa, và do đó thu hút được rất nhiều người trong Hoàng phái.

Minh lạnh lùng, nói:

- Bọn quí tộc chỉ quen sống một đời ký sinh, ít năng lực làm việc, thì có ích gì cho ta?

- Anh nhầm lắm. Họ là phái thượng lưu trí thức, đã cầm quyền thống trị non một trăm năm nay, và là một lực lượng đáng sợ cho họ Mạc. Họ không những giàu tiền của, mà lại giàu cả kinh nghiệm về cách cai trị. Chả thế mà Mạc đăng Dung, lúc tiếm vị đã muốn thu dùng họ để làm vây cánh, vì họ Mạc phải dựa vào thế lực của giai cấp này để kiện toàn nên hành chính và gây thanh thế với dân. Họ bỏ nhà Mạc đem vàng bạc, châu báu theo An thành hầu, và cũng nhờ có số vàng này mà nuôi được quân sĩ, cát cứ một phương, nghiễm nhiên thành một đối thủ lợi hại của nhà Mạc.

Hai người đang mải nói chuyên, chợt thấy Đào Tứ chạy thình thịch vào reo ầm lên:

- Hai ông ra mà xem, lương thực đã tới nơi rồi.

Khanh và Minh vội đứng dậy, mở cửa ra ngoài nhìn xuống chân núi: Một đoàn xe độ mươi chiếc vừa Ió ra khỏi con đường cái lớn và tiến về phía đồn Khương Lang. Người lính kỵ mã đi đầu nhìn thấy một bọn lố nhố đứng trên núi, bèn thổi một hồi tù và báo hiệu. Minh tháo cái vỏ ốc đeo bên cạnh sườn để lên miệng thổi. Quân sĩ trong đồn nhận được hiệu lệnh kéo ùa ra, trông thấy xe lương reo ầm lên như bắt được của. Khanh đem ba chục lính xuống núi đón. Hai bên vừa gặp nhau, Khanh bỗng mừng rú lên, vì thấy trong đám quân tải lương có cả Đặng phu nhân, Lưu Bích Lan, Ngọc Bảo và anh em Uông, Hoàng, Đặng Thị gò cương ngựa, nói:

- Hôm nay mẹ ra thăm con, để xem xét công việc của con, nhân tiện để biết qua địa thế chỗ con đóng binh.

Khanh xuống ngựa lạy mẹ, đoạn thi lễ với mọi người. Uông cầm tay Khanh cười:

- Xem cách lập trại, đủ biết tài thao lược của đại huynh. Thật là may cho xã tắc.

Khanh đáp:

- Đệ ở Khương Lang, khác nào như đứng gần miệng hố, nên rút rát cũng không được. Lệnh nghiêm đường đã có lòng tin giao phó cho trọng trách án ngữ chỗ này, đệ cố hết sức làm đủ bổn phận đó thôi.

Đoạn chàng quay lại hỏi Lưu Bích Lan:

- Cô nương dạo này chắc võ nghệ tấn tới lắm thì phải!

Nguyễn Hoàng nhanh miệng đáp:

- Chị tôi tuy không trói nổi cọp, nhưng giá gặp những tay đối thủ nào có cái thân hình gầy gò như đại huynh thì đánh ngã như chơi.

Mọi người đều cười ầm lên. Bích Lan có vẻ bẽn lẽn. Ngọc Bảo quát em, rồi xin lỗi Khanh:

- Em nó còn ít tuổi, ăn nói chưa biết giữ gìn, xin công tử chớ để tâm.

Khanh nghiêng mình thưa:

- Bạn bè đùa bỡn nhau là thường, chúng tôi đâu dám bắt lỗi công tử.

Đặng Thị truyền quân lính đẩy xe lên núi, rồi tự mình thúc ngựa đi trước. Mọi người đều theo sau. Đến nơi Đặng Thị ngồi nghỉ dùng trà xong dắt các tướng đi xem dinh trại.

Một rẫy tường đất dầy độ hai gang tay chạy vòng quanh mỏm núi rộng hơn hai mẫu đất, ôm lấy một khu nhà xây theo hình bán nguyệt, ở giữa là một cái sân phẳng, dùng làm nơi luyện tập võ nghệ. Tường cao 5 thước, cứ cách một trượng lại đắp một cái chòi canh. Cách tường độ vài thước, những cọc tre nhọn hoắt cắm chi chít chung quanh trại chạy thoai thoải xuống gần chân núi trông như lưng con dím khổng lồ.

Một con đường đánh thẳng từ chân núi lên đến đỉnh, hai bên giồng toàn những cây ớt quá chín đỏ. Ở trong trại, những đường hầm sâu ngập đầu người chạy ngang dọc như mang nhện. Các nhà làm cho lính ở đều thấp hơn mặt tường, lúc nào cũng dự bị sẵn đồ cứu hỏa như gầu, câu liêm, chum nước, thang tre. Ở chòi canh lính gác luôn luôn để mắt đến dọc sông, hễ có sự gì khả nghi thì phải rúc tù và báo hiệu cho những toán lính đi tuần. Trên những ngọn núi đối diện với đồn Khương Lang, Vũ công Khanh đều đặt rất nhiều trạm gác, và cắt lính thường trực.

- Ở đây có bao nhiêu quân sĩ?

- Thưa mẹ, có 500 quân, và 30 tên hướng đạo người Lào vừa mới mộ được.

- Con dùng cách nào để liên lạc với các trạm gác ở đằng xa?

- Có hai cách dùng: Một là đốt lửa, hai là đánh trống. Trạm gần nhất nhận được tin đốt dinh liệu báo cho trạm bên cạnh, rồi cứ như thế mãi.

- Giặc đánh thì con làm thế nào?

- Con chỉ có 500 quân đã phải phân tán đi các nơi thì không đủ lực lượng để bầy mặt trận. Khi giặc đến, lính canh ở các trạm gác sẽ rút lui hết vào rừng để mai phục, còn quân ở đồn chính thì chia làm hai toán, một nửa xuống hầm chống cự, một nửa hợp lực với toán lính trạm dụ địch vào chổ hiểm để tiêu diệt dần. Đồng thời 5 tên lính kỵ mã phải cấp tốc về phi báo ở Sầm châu để lấy binh cứu viện.

Đặng Thị cười nhạt:

- Mày ngu lắm con ạ. Dương chấp Nhất là một vìên tướng giỏi nhất của ngụy triều, không khi nào lại dại dột rồn hết cả lực lượng để đánh một cái đồn nhỏ síu này làm gì. Nó chỉ cho vài trăm quân đánh cầm chừng ở đây thôi, còn đại binh kéo tuột về Sầm châu thì quân tế tác dẫu có về phi báo cũng không kịp sửa soạn. Cách tổ chức, sự phòng thủ như thế này chỉ có hiệu lực đối với đám cướp nhỏ, chứ đối với quân Mạc thì là cái trò chơi của trẻ con.

Khanh cả sợ hỏi:

- Xin mẹ dạy bảo cho.

- Con đào hầm, đắp lũy muốn kháng cự với giặc chứ gi? Chớ dại dột như vậy. Đó không phải là cái ‘‘dũng’’ của vìên tướng tài mà là cái ‘‘liều’’ của kẻ vô mưu. Con định đem một nắm quân đối chọi với bầy lang thì chỉ đưa nhau đến cái chết vô ích, rút cục vẫn không lợi gì cho chiến lược và chiến thuật cả. Từ đây về Sầm Châu không hơn một ngày đường, con chỉ nên cho đặt những trạm gác liên lạc, cách nhau nửa dậm một để dễ truyền tin tức. Khi giặc vượt qua sông, con cho quân rút lui dần dần, cắm cờ và đốt lửa để làm nghi binh. Giặc hoang mang chưa biết rõ lực lượng của ta, một là dừng tiến, hai là rút lui về. Thời gian đó cũng đủ cho ta tập trung được quân đội và mở cuộc tấn công rồi.

Khanh mồ hôi toát ra như tắm, nói:

- Tí nữa thì con làm hỏng cả vìệc quân cơ.

Tối hôm ấy, Đặng thị để cho mọi người ngủ yên cả rồi gọi Khanh dậy, giắt ra ngoài trại. Mặt trăng đã lêp cao, cả bầu trời sáng rực không tí gợn mây đen. Dăm ba người lính tuần đi qua mặt hai người, dừng lại chào rồi lặng lẽ bước thẳng. Nhìn sang ngọn núi đằng trước, cây cối mọc chi chít, cành lá rì rào lả lướt trước gió, hiện ra một cảnh tượng âm u tịch mịch. Dưới chân núi, con sông lượn khúc quanh co, mặt nước phẳng lặng phản chiếu những tia sáng trắng bạc.

Đặng Thị vịn vào vai con thủng thỉnh đi. Khanh sẽ hỏi mẹ:

- Mẹ xem An thành hầu, có thành công không?

- Nếu tình trạng hiện tại của hai phe đối lập cứ kéo dài mãi, thì chỉ vài năm nữa họ Nguyễn sẽ nắm phần ưu thế.

- Mẹ nói rõ cho con được hiểu?

- Muốn có một ý niệm rõ rệt về sự thắng bại sau này của hai tay đối thủ, thì ta phải xét xem lòng dân theo bên nào, bỏ bên nào. Nước ta dưới triều vua Lê uy Mục và Lê tương Đực, dân chúng bị đàn áp, bóc lột đến xương tủy, làm cho lòng người công phẩn, giặc cướp nỗi lên như ong, đồng ruộng bỏ hoang, nhà cửa tàn phá, cơ sở nông nghiệp vì thế mà bị lung lay, nền thương mại cũng bị ảnh hưởng lây và kém phần hoạt động. Ngoài ra nông dân còn bị một thế lực nữa kìm hãm lại; thế lực của giai tầng thống trị. Quan lại ở các địa phương đã không thông cảm nỗi đau khổ của dân chúng, lại liên minh với bọn quí tộc để cũng cố địa vị và để tự do thi hành chính sách bóc lột. Trạng thái hỗn độn ấy đã trực tiếp giúp Mạc đăng Dung thành công. Mạc đăng Dung xuất thân ở đám nông dân, nên được giai cấp này triệt để ủng hộ. Ở một vài nơi, cũng có ít nhiều phản ứng, nhưng lại bị rập tắt ngay vì quần chúng được giác ngộ không ủng hộ giai tầng quí tộc nữa và muốn cho đế chế phải xụp đổ dưới bàn tay của họ Mạc. Nhưng Mạc đăng Dung lại đi ngược với nguyện vọng của nông dân, nên một khi cướp được ngôi của nhà Lê rồi, thì bắt đầu mơn trớn bọn quí tộc, thu dùng các quan cố thần triều Lê tức là bọn khoa mục, ý muốn khôi phục cho họ cái địa vị cũ để làm tay sai cho mình trong công cuộc củng cố ngai vàng.

Cử chỉ ‘‘phản bội’’ của họ Mạc đã làm cho nông dân thất vọng, nên lại muốn bỏ Mạc đăng Dung để theo nhà Lê. Nguyễn Kim đã đi sát với tư trào của mọi người bằng cách tôn phù Vua Lê trang Tôn, và do đó, lôi cuốn được khá đông dân chúng. Ta chắc rằng nếu Nguyễn Kim động binh thì giải đất Tây Đô không cần phải khó nhọc mà chiếm được.

Khanh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Chỉ sợ họ Mạc thua lại saug cầu cứu Trung quốc thì khó khăn cho ta lắm.

Đặng Thị gật đầu:

- Con nói phải lắm.

Đang mãi nói chuyện, Đặng Thị chợt nhìn sang bên kia sông thấy xa xa ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt sáng rực một góc trời, liền hỏi:

- Chúng đốt lửa để làm gì thế?

- Thưa mẹ, chúng theo lệnh của Dương chấp Nhất đốt rừng làm nương. Ban ngày chúng vỡ đồi giồng giọt, ý muốn lập nghiệp lâu dài.

Ngọn lửa mỗi lúc một cao, thoáng có tiếng nổ lép bép, lại nhờ sức gió, lem lém cháy lan rộng mãi. Mới đầu chỉ thấy có một chỗ, sau dần dần nổi lên nhiều đám cháy nhỏ. Từng làn khói đen tỏa lên không trung lẩn trong bóng tối. Thấy đêm đã khuya, Đặng Thị bảo con đưa về. Qua cổng trại, phu nhân chợt nghĩ đến một việc tươi cười bảo Khanh:

- Con đã lớn, mẹ muốn tính việc hôn nhân cho con vậy có nên không?

Khanh cúi đầu không đáp. Đặng Thị lại hỏi:

- Trong hai người Ngọc Bảo, Bích Lan, con bằng lòng ai? Theo ý của mẹ thì Bích Lan nhu mì, hiền hậu hơn. Ngọc Bảo có qui tướng thật, nhưng tính tình nghiêm khắc quá, mẹ đã ngỏ lời với Bích Lan và nàng đã bằng lòng.

Khanh không phản đối và cũng không tỏ vẻ ưng thuận. Vừa lúc ấy, ba tiếng trống cầm canh rõng rạc rơi đều đều trong cảnh đêm khuya âm thầm.