- IV -
SÁNG hôm sau, Đặng Thị đang sửa soạn ra về, thì thấy hai tên quân dẫn một chàng thanh niên đi vào, thưa với Vũ công Khanh:
- Bẩm tướng quân, chúng tôi đi tuần bắt được một tên dọ thám của họ Mạc, xin dẫn trình để tướng quân định đoạt.
Khanh nhìn chàng thanh niên trạc độ 21, 22 tuổi, mặt mũi khôi ngô, sức lực cường tráng, toàn thân lộ ra khí phách anh hùng, có ý ngờ là không phải gian tế liền hỏi:
- Tráng sĩ tên là gì?
Chàng thanh niên cúi đầu, thưa;
- Bẩm, tiểu dân họ Trịnh tên là Kiểm, người làng Sóc Sơn tỉnh Thanh Hóa.
- Tráng sĩ có phải là dọ thám của họ Mạc không? Cứ thực tình mà khai chớ để ta phải tra tấn.
Kiểm thản nhiên đáp:
- Tiểu dân vì không phục ngụy triều nên mới bỏ quê hương sang đây, sao lại gọi là dọ thám được?
- Tráng sĩ đã có lòng nhớ đến nhà Lê, thì cứ đường hoàng sang quy thuận, việc gì mà phải lén lút như thế?
- Sáng hôm nay, tiểu dân thả bè chuối vượt qua sông, đi được non nửa dậm đường thì bị bắt giải lên đồn. Tiểu dân đoán là có sự ngộ nhận của lính tuần nên không hề chống cự.
- Tráng sĩ định đi đâu?
- Tiểu dân định về Sầm Châu yết kiến An thành Hầu.
Đặng Thị thấy Trịnh Kiểm ứng đối nhanh nhẹn, trong bụng khen thầm, liền hỏi thử:
- Tráng sĩ bất tất phải về Sầm châu làm gì cứ ở đây giúp con ta giữ Khương Lang hễ lập được chiến công, ta sẽ nói với Nguyễn Hầu đề bạt cho. Trịnh Kiểm quay lưng toan đi. Khanh ngạc nhiên hỏi:
- Tráng sĩ đi đâu?
- Ở đây để mua lấy cái chết à?
Khanh giật mình, tiếp:
- Xin tráng sĩ dạy cho biết.
- Khương Lang chỉ cách địa phận Thanh Hóa có một con sông nhỏ, mà để một nắm quân canh gác thì còn đánh chác gì? Nếu giặc lấy số đông uy hiếp thì liệu có thoát chết không?
Khanh rút gươm đập xuống bàn, quát:
- Mày chính là do thám của giặc. Quân bay bắt nó lại.
Quân sĩ hai bèn đổ xô ra. Kiểm cười ầm lên khoan thai đáp:
- Nếu ta là do thám của giặc thì anh chết đã lâu rồi, còn đâu đến ngày nay mà làm oai nữa. Lúc bước chân sang đây, ta ngắm nhìn cách bố trí phòng thủ của anh, biết ngay anh không phải là viên tướng thông hiểu binh pháp. Khương Lang là một địa điểm quan trọng đứng làm bức bình phong cho Sầm châu mà canh phòng sơ sài như thế kia thì mất đến nơi rồi. Ở chỗ này, một là tập trung hẳn một lực lượng hùng hậu để phòng thủ, hai là cho đóng lẻ tẻ trong rừng làm kế nghi binh. Giặc nhiều thì ta cứ án binh bất động, xem chúng hành động thế nào rồi sẽ liệu. Giặc ít thì ta đánh. Giặc đóng ở đây thì ta dùng phục binh quấy rối và tỉa dần. Giặc lấy sức mạnh lan tràn mãi thì ta phải hủy đường xá rồi rút lui.
Nếu ta xây đồn, đắp lũy ra mặt chống nhau với địch mà chỉ có một nắm quân ốm yếu thế kia thì chỉ mua lấy cái chết mà không có ích gì cho chiến sự cả. Anh cầm trong tay vận mệnh hàng nghìn con người mà lại dại dột hớ hênh như vậy thì còn mưu đồ đại sự sao được. Anh nên biết rằng Dương chấp Nhất không phải là người hèn đâu? Hắn chưa thèm ra tay đó thôi nếu sơ ý để mất Khương Lang thì Sầm châu như cá nằm trong rọ, sớm chiều cũng đều mất nốt mà thôi.
Vũ công Khanh cả sợ vội cúi đầu xin lỗi:
- Chúng tôi ngu dại, chót phạm đến túc hạ. xin túc hạ dạy bảo cho.
Kiểm nhũn nhặn đáp:
- Cái ‘‘dại’’ của tướng quân đã gián tiếp giúp An Thành Hầu được ngồi vững vàng ở Sầm Châu đó. Dương chấp Nhất đã biết rõ mọi hành động của tướng quân bên này, nhưng khinh thường nên không thèm đọ sức. Nếu tướng quân lại khôn khéo biết cách tổ chức sự phòng thủ, thì có lẽ hắn sợ mà tiến binh trước rồi.
Đặng Thị cũng hỏi:
- Vậy theo ý tráng sĩ thì ta có nên phá hủy đồn Khương Lang mà rút vào rừng không?
- Rất không nên. Nếu phá hủy đồn mà rút lui vào rừng thì giặc biết ngay là mình ít quân phải bỏ Khương Lang, chúng tràn sang thì nguy mất. Bất nhược ta cứ để nguyên như cũ nhưng quân sĩ trong đồn thì cho đóng ở trong rừng, bỏ trống đồn, cốt nhất là phải tổ chức ngay một hệ thống liên lạc chặt chẽ với Sầm Châu, để khi hữu sự thì truyền thông tin tức cho nhanh chóng. Nếu giặc sang thấy đồn bỏ trống, mà ở trong rừng phấp phới có bóng cờ chưa rõ lực lượng của ta thế nào, không dám tiến ngay. Ta lợi dụng lúc giặc hoang mang, ngày đêm đốt lửa làm nghi binh, giặc tất phải rút lui.
Đặng Thị khen thầm:
- Người này hơn con ta nhiều lắm.
Nguyễn Uông thấy Trịnh Kiểm còn ít tuổi, ăn mặc rách rưới, có ý không phục, cười nhạt:
- Nói thì giỏi lắm, chẳng biết có đúng không.
Kiểm thản nhiên đáp:
- Đúng hay không đúng lúc lâm sự mới rõ. Trong bụng tôi đã xếp sẵn kế hoạch dụng binh hiềm vì chưa có cơ hội thi thố đó thôi.
Nếu tôi cầm quân thì lấy Tây Đô như trở bàn tay, không việc gì phải dụt dè ở só rừng.
Uông cả giận rút gươm quát:
- Mày là thằng dân ốm đói mà dám mở miệng khoác lác à?
Kiểm cười:
- Trong rừng cây cối tuy nhiều, nhưng lim gu thì hiếm. Người sống nhan nhản khắp đồng núi nhưng toàn là hạng người ‘‘ngợm’’ cả. Ta đi đã nhiều chưa gặp được ai đáng gọi là hào kiệt mà chỉ thấy đại đa số là hạng kiêu bạc dớ dẫn mà thôi,
Uông vung gươm chém. Kiểm tránh được, nói:
- Ta ngưỡng mộ chí hướng cao cả của Nguyễn Kim nên không ngại đường xa, lần mò tìm vào. Ta chưa được tiếp xúc với chủ tướng, nhưng xem tính tình bọn thủ hạ thì đủ biết các ngươi không có hy vọng làm được sự nghiệp lớn lao, rồi đến chết già ở só rừng này.
Uông càng tức, cứ lăn sả vào đâm, Kiểm chỉ lẫn tránh không thèm đánh giả lại. Mọi người đổ xô vào lôi Uông ra, rồi xin lỗi Kiểm. Đặng Thị cũng quát mắng Uông. Ngọc Bảo kéo em ra ngoài sẽ dỉ tai:
- Lúc này đang cần người, em phải nhũn nhặn, biệt đãi người anh tài mới hòng thu được nhân tâm. Nếu việc này đến tai thân phụ, thì em khó tránh khỏi tội.
Uông vùng vằng đáp:
- Nhưng em ghét cái tính khinh người của nó lắm.
Ngọc Bảo dịu dàng tiếp:
- Con ngựa hay thì bất kham. Người anh tài vẫn ngang tàng bướng bỉnh. Vua Văn Vương đời xưa muốn cầu hiền phải trai giới ba ngày, lặn lội mấy lần đến sông Vị mới gặp được mặt Khương tử Nha. Thân phụ chúng ta đang mưu đồ đại sự, mong hào kiệt như người khát nước mong được uống, người đói mong được ăn. Một tên quân dễ kiếm, một tướng giỏi khó tìm. Nếu em muốn nối nghiệp thân phụ thì phải bắt đầu từ
bây giờ lấy tình thân thiết đối đãi với các tướng sĩ sử dụng lòng nhân để thu nạp hiền tài sao lại dại dột gây sự thù oán với mọi người để mang tiếng là hẹp lượng như vây!
Uông nể lời chị đành phải thôi. Đặng Thị truyền quân sĩ sửa soạn lên đường, và bảo Trinh Kiểm:
- Tráng sĩ theo ta về Sầm châu, yết kiến An thành Hầu.
Kiểm vâng lời. Dọc đường Kiểm hỏi dò quân sĩ mới biết chàng thiếu niên cãi nhau với mình là Nguyễn Uông, trưởng nam của Nguyễn Kim, trong bụng hối hận vì chót lỡ lời.
Bấy giờ đang về đầu thu, lá vàng lác đác rụng, ánh nắng dịu dàng buông xuống vạn vật một hơi nóng ấm áp dễ chịu.
Đoàn xe chậm chạp lăn bánh trên con đường gồ ghề, khúc khuỷu, người ngựa chen chúc nhau giữa hai rặng lau sậy um tùm, uể oải, phờ phạc như một toán quân bại trận đang bị lạc lõng trong rừng. Vừa qua khỏi khúc suối, họ bắt đầu leo sườn núi, đi nối đuôi nhau thành một dẫy dài, mỗi lúc một lên cao, dần dần lên tới đỉnh núi. Trông xuống dưới, cây cối mọc chi chít, phong cảnh tịch mịch âm u. Từ đỉnh núi, đoàn người lại theo con đường nhỏ đổ xuống. Gần tới chân núi, con ngựa của Ngọc Bảo đang cưỡi bỗng tự nhiên kêu rống lên co chân phóng. Ngọc Bảo cố sức ghìm lại không được, ngựa theo đà xuống dốc lao nhanh như tên. Cả bọn hoảng sợ kêu rầm lên. Kiểm thấy vậy, liền chạy vụt theo, hai chân thoăn thoắt lướt trên cỏ, một chốc đuổi kịp, chàng nắm lấy đuôi ngựa lại. Ngọc Bảo lúc bây giờ đã mệt lả đi sắp sửa ngã
thì Kiểm đến đỡ lấy nàng. Cái thân hình mềm mại vừa rơi vào hai cánh tay ấy thì một cảm giác lạ lùng vụt xâm chiếm tâm hồn chàng làm cho mặt chàng nóng bừng, hai chân run rẩy quả tim rồn rập đập mạnh, cõi lòng rối loạn, hoang mang. Lần đầu tiên, chàng đuợc gần gụi một sắc đẹp, bản năng tình dục bỗng chỗi giậy với một sức mãnh liệt và cố lôi kéo chàng vào vòng tội lỗi. Nhưng Trịnh Kiểm chế ngự ngay được ngọn lửa lòng, chàng đã vượt khỏi cái thế giới tầm thường của dục tình để vươn tới lĩnh vực cao cả của lý trí. Tâm hồn chàng đã kết tinh bằng những cái tinh hoa của ‘‘con người’’ nên bất cứ ở trường hợp nào, chàng cùng biểu dương được một tinh thần cao cả, một hành động siêu việt một ý tưởng thấm nhuần luân lý Khổng Mạnh.
Chàng đặt Ngọc Bảo nằm trên bãi cỏ xanh bên vệ đường. Dần dần nàng phục hồi được sinh khí, hơi thở đều đều, cặp mí mắt động đậy rồi hé mở, nàng tỉnh hẳn. Nhớ lại phút nguy hiểm vừa qua, nàng rùng mình, và khi nhìn thấy Trịnh Kiểm đứng bên cạnh, nàng hiểu ngay là chính chàng thiếu niên đó đã cứu nàng thoát chết. Nàng sửa soạn lại xiêm áo cho gọn gàng, rồi quì xuống nói:
- Thiếp muôn vàn cảm tạ tráng sĩ,
Kiểm giơ tay đỡ nàng giậy. Ngọc Bảo vừa vuốt lại làn tóc sõa bên vai, vừa đưa mắt nhìn Trịnh Kiểm. Chàng có một bộ mặt dắn dỏi, một thân hình vững chắc đầy sinh lực, một vẻ đẹp hùng tráng của con người được tắm gội trong sương gió, một sức mạnh bền bĩ của kẻ biết dùng hai bàn tay gân guốc để mưu sinh.
Sống bên cạnh chàng, một tâm hồn dù bạc nhược đến đâu cũng trở nên mạnh mẽ, một trí óc đen tối cũng thành ra sáng suốt thông minh, và trên địa hạt tư tưởng cũng như trong cách hành vi, người ta đều rập theo khuôn mẫu của chàng để có thể đối phó một cách hiệu quả với tất cả cái gì đã cản trở mọi hoạt động trên đường đời gai góc. Ngọc Bảo có cảm tưởng như cần phải sống bên cạnh một người như thế để cầu lấy sự che chở. Nàng đã một lần được cứu sống và tự thấy ghê sợ khi nghĩ đến tấm thân yếu ớt bị trơ trọi trước một hiểm tượng hay một sự dọa nạt của thần chết. Cả hai người đều im lặng không ai nói với ai một lời nào. Trịnh Kiểm hình như đang say sưa với cái đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, nên lãnh đạm với cái đẹp dịu dàng của người thiếu nử. Lòng chàng thiếu niên đã mở tung ra để đón lấy hương vị của rừng núi; trong khi ấy lòng của nàng thiếu nữ cũng sao xuyến trước cử chỉ lạnh lùng của chàng thiếu niên...
Đoàn xe cọc cạch tiến gần đến nơi, Uông nhẩy xuống ngựa hỏi thăm chị, và không hề ngỏ một lời cảm ơn Trịnh Kiểm. Đặng Thị thấy Ngọc Bảo vô sự, cả mừng, luôn luôn khen Kiểm. Mọi người lại bắt đầu đi, đến tối thì tới Sầm châu. Đặng Thị đưa Kiểm vào ra mắt An thành Hầu và kể lại câu chuyện ở dọc đường. Nguyễn Kim vỗ vai Kiểm:
- Tráng sĩ đã cứu được con ta, cái ơn to ấy không bao giờ dám quên.
Kiểm lạy tạ lui ra. Kim bàn với Đặng Thị muốn dùng Kiểm làm tướng thủ túc, Uông gạt đi nói:
- Người ấy mới đến, tâm địa chưa biết thể nào. Nhỡ phải quân do thám của họ Mạc thì nguy.
Đặng thị cười:
- Ta đoán chắc Kiểm không phải người do thám của đối phương. Hắn có tài, tướng công nên trọng dụng để khuyến khích kẻ khác.
Nguyễn Kim đang phân vân thì Hoàng đã tiếp:
- Nếu phụ thân phong ngay cho hắn làm tướng sợ ba quân không phục, hãy cho hắn cai quản bọn mã phu xem tài cán thế nào rồi sẽ định công phong thưởng,
Nguyễn Kim khen phải.