Rạch đôi sơn hà
NĂM Canh tý (1540) một buổi sáng về mùa đông, trên con đường từ Chi lăng về Lạng sơn, hàng nghìn dân phu đang hì hục sửa chữa những đoạn đường hỏng. Mỗi người đội một chiếc nón lá cũ kỹ, quần áo bùn lấm be bét, lủng lẳng bên sườn một cái giỏ đựng cơm. Từng đoàn xe chở đầy đất ở mạn Bắc Giang đi lên nối đuôi nhau thành một dẫy dài. Non tuần lễ nay, suốt ngày đêm, họ như đàn sâu lũ kiến, khom lưng trên mặt đường gồ ghề khúc khuỷu, đào sới, lấp, đập, trong khi những tốp lính tay cầm roi mây, thỉnh thoảng lại quất túi bụi trên lưng họ, tiếp theo những câu nguyền rủa tục tằn. Đàn bà váy sắn quai cồng, súc đất ở xe đổ vào những chỗ thấp. Bọn đàn ông cầm cào san phẳng ra rồi lấy vồ nện cho chặt xuống.
Giời rét như cắt ruột mà mồ hôi vẫn tầm tã chảy trên màu da mặt đen sạm. Chốc chốc lại thấy một tên lính phi ngựa qua, rồi lẩn sau rặng cây. Đám dân phu vẫn hăng hái làm việc, những cánh tay tới tấp giơ lên hạ xuống, những tiếng vồ thình thịch vang lên trong cảnh âm thầm của núi rừng.
Trên chiếc chòi canh lập ở dia đường, quan Phòng ngự sử châu Quảng Nguyên là Hồ Thích đang cùng với quan chuyển vận sứ huyện Lạng giang là Nguyễn Trừng ngồi uống nước trà. Nguyễn Trừng cầm ấm nước rót ra chén mời:
- Bác uống đi, chè này mua ở Thái nguyên về pha được nước lắm.
Hồ Thích uống cạn chén, gật gù đáp:
- Kể cũng khá đấy, nhưng còn kém chè Hưng Hóa thơm và đậm nước hơn.
Hai người vừa uống chè vừa nhìn xuống đường. Một toán lính tuần đi qua, những chiếc roi mây lại vùn vụt quất lên lưng bọn dân quê khốn nạn. Hồ Thích động lòng thương thở dài:
- Ba hôm nữa liệu có xong không để cho dân đỡ khổ.
Nguyễn Trừng rầu rầu nét mặt:
- Nếu không làm ác thì công việc không chạy, chẵng qua cũng là sự bắt buộc cả.
Hồ Thích nói:
- Hạ tuần tháng này, Thượng hoàng sẽ khởi hành đi Lạng Sơn. Chúng ta còn phải vất vả nhiều về sự đón rước ở dọc đường.
Trừng sẽ hỏi:
- Thấy nói Thượng hoàng định theo Đô Đốc Cừu Loan về Kim Lăng, để xin hàng, liệu có đúng không?
- Về Kim Lăng thì không chắc nhưng xin hàng thì chắc rồi.
Trừng thở dài:
- Chưa đánh nhau trận nào mà đã hàng ngay, sao Thượng hoàng sợ quân Minh đến thế được?
Thích cười:
- Lấy gì mà đánh? bao nhiêu lực lượng đều rồn mạn trong để giữ Nguyễn Kim, còn ở ngoài này một ít quân ốm yếu trông thấy giặc đã run như cầy sấy thì làm gì được.
- Bác ở Quảng Nguyên có biết rõ tình hình Lạng sơn ra sao không?
- Quân Minh đóng ở Nam quan chỉ đợi lệnh là vượt biên thùy. Hiện nay dân chúng ở Lạng sơn đều di cư về Trung châu hết, chỉ trơ có cái thành nhỏ với nắm quân canh giữ mà thôi.
Đoạn Hồ Thích lấy ở trong túi ra một tờ giấy gập tư đưa cho Nguyễn Trừng:
- Bác xem tờ hịch của Cừu Loan thì biết.
Tờ hịch rất dài, trong có một đoạn lời lẽ vừa kiêu vừa nhũn, Trừng lẩm nhẩm đọc:
‘‘Kể từ khi Lê Hoàng (chỉ Lê-Lợi) thụ phong tước An Nam Quốc Vương nối ngôi nhà Trần, miền Nam vẫn được phồn thịnh đời đời thần phục Thiên triều. Trải qua 100 năm, các vua kế nghiệp đều giữ vẹn đạo thần tử đem luân lý phong tục của Trung quốc giáo hóa cho dân Nam, khiến cho uy đức của Thiên tử vang dội cả ở những nơi mọi dợ. Ngày nay Mạc đăng Dung thí quân tiếm vị, làm cho người Nam oán giận cầu cứu Minh triều sui nên Bản phiên vì công lý mà phải động binh, cũng không ngoài cái mục đích giúp Lê, diệt Mạc.
‘‘ Dân Nam nghe cho rõ: Bản phiên chỉ cốt bắt tên nghịch tặc Mạc đăng Dung mang về Kim Lăng làm tội, còn binh lính và lương dân vì sợ chết mà theo giặc thì tha cho hết. Quân của Thiên triều đi đến đâu, một hạt thóc, một lá rau không thèm tơ hào của dân. Nhưng kẻ nào bị giặc sui giục, dám chống cự lại thì sẽ bị chu di cả ba họ. Ai bắt được cha con Mạc đăng Dung sẽ được thưởng 2 vạn lượng bạc, nếu để chúng chạy thoát đi nơi khác thì Bản phiên sẽ san phẳng cả thành trì và làm cỏ cả nhân dân...’’
Trừng đọc xong, cười nhạt:
- Lời lẽ khoác lác tệ.
Thích đáp:
- Vì sợ quân Minh kéo sang thực nên Thượng hoàng phải dâng biểu xin hàng. Nay mai ngài sẽ thân chinh lên Nam quan gặp Cừu Loan để nộp sổ điền thổ và số
dân đinh...
Đang lúc ấy bỗng thấy tiếng người cười ầm ầm ở dưới đường. Hồ Thích ngó đầu ra xem, tiếng cười lại im bặt, nhưng ở đám đông đưa lên một giọng hát trong trẻo:
Tay anh cầm vồ
Anh giơ anh đập
Em cầm xẻng đất,
Em hất xuống đường.
Nắm cơm, hạt muối, chai tương,
Bên rừng con vượn đêm trường cầm canh.
Mọi người nhao nhao lên tiếng khen hay:
- Bên nữ xướng trước, bên nam họa lại đi.
- Phải rồi họa lại đi.
Một người đàn ông cất tiếng hát:
Đôi ta hì hục.
Lục cục lào cào
Anh đào, em lấp
Anh cất, em bưng
Măng tre, nước suối, lọ vừng
Gió khua hốc đá, chim rừng líu lo.
- Hay! Hay!
- Đối nhau chan chát.
Hồ Thích cau mặt thở dài:
- Tình cảnh dân quê nghĩ cũng đáng thương, Nguyễn Trừng hỏi:
- Nghe nói Nguyễn Kim hoạt động ở Thanh Hóa và lăm le muốn chiếm Tây Đô không biết Thượng Hoàng đối phó bằng cách nào?
- Dương chấp Nhất ở Tây Đô cũng đủ tài chế ngự nổi Nguyễn Kim, chỉ có mặt Bắc đáng lo ngại thì đã tạm yên rồi. Có điều khiến cho ta phải nghĩ ngợi, là một khi nước ta đã lệ thuộc vào Trung Quốc thì không biết Minh triều sẽ đối xử với dân ta ra sao? Một là Minh đế vẫn để nguyên cho họ Mạc cầm quyền chỉ đặt quan giám sát thì ta còn dễ thở đôi chút. Hai là người Minh lại bắt chước chính sách của Hoàng Phúc, Trương Phụ đặt quan Tàu cai trị ở các quận huyện thì thật là nhục nhã vô cùng.
- Nước ta từ khi Ngô Quyền gây được nền tự chủ đến nay có dư 600 năm. Chúng ta quen sống tự do, không may bị trói buộc vào vòng nô lệ thì chỉ có chết mới thoát được cảnh thống khổ. Họ sang thì ta đánh chứ sợ gì. Trong những cuộc tranh chấp của hai dân tộc, người Nam chúng ta chưa hề chịu nhường bước người Trung Quốc, có lẽ nào vì tờ hịch nhảm nhí kia mà Thượng-hoàng đã vội đem giang sơn gấm vóc này hiến cho ngoại bang? Cái nhục của mười thế kỷ bị đô hộ tưởng đã gột rửa sạch rồi, ai ngờ chỉ vì sự nhu nhược của một người mà mấy triệu dân phải sa đọa vào vòng nô lệ.
Hồ Tớich vội bịt miệng bạn lại:
- Ấy chết tai vách mạch rừng, bác phải thận trọng lời nói đôi chút, kẻo mất đầu bây giờ.
Nguyễn Trừng tức giận nói:
- Thà rằng chết đi còn hơn sống để nhìn Tổ quốc bị quân Minh giày séo mà không dám hành động gì. Chúng ta là người có học sao lại chịu uốn lưng thờ giặc để kiếm ngày hai bữa cơm, chả đáng hổ thẹn với tiền nhân lắm ru.
Đang lúc ấy thì bỗng có 3 tiếng trống điểm, mọi người reo ầm lên thu xếp sẻng cuốc vào một chỗ rồi đi ăn cơm. Nguyễn Trừng lặng lẽ nhìn đám dân phu biến dần sau rặng cây...
Trưa hôm sau, giữa lúc Hồ Thích đang vẩn vơ ngồi nhìn đàn chim bay lượn trên chòi chợt thấy một tên lính kỵ mã phi đến thét to:
- Thượng hoàng sắp tới, dân chúng phải lui hết.
Bọn phu không ai bảo ai, vác sẻng cuốc ù té chạy vào trong rừng. Chớp mắt quãng đường vắng tanh, không một bóng người qua lại. Hồ Thích sợ toát mồ hôi, hỏi một tên lính kỵ mã:
- Trong công văn nói cuối tháng Thượng hoàng mới khởi hành, sao lại sớm quá thế?
Tên lính cau có đáp:
- Có tin quân Minh đã vượt biên thùy, nên Thượng hoàng phải cấp tốc đi ngay. Ngài không sửa soạn nghênh tiếp lại còn dềnh dàng lý sự mãi.
- Ở giữa rừng thì lấy đâu được hương án để bầy đồ bái vọng?
- Cái đó tùy ngài, chúng tôi không biết.
Đoạn hắn phóng ngựa đi thẳng. Hồ Thích luống cuống gọi mãi Nguyễn Trừng không thấy đâu, vội quay về trạm thay mặc phẩm phục cầm hốt đứng đợi bên đường. Một lúc lâu mới thấy Trừng lù lù đến, Thích gắt ầm lên:
- Bác đi đâu mà để tôi gọi hết hơi chẳng thấy? Thượng hoàng sắp đến nơi rồi, còn dẫn điệu mãi.
Trừng cười:
- Tôi đang bận thảo một bài biểu nên đến chậm.
Thích ngạc nhiên hỏi:
- Bài biểu gì?
- Tôi can Thượng hoàng đừng hàng quân Minh nữa.
Thích lạnh toát cả người, lắp bắp nói:
- Bác muốn mất đầu chắc?
Trừng khẳng khái đáp:
- Đầu tôi có thể mất được, nhưng lòng ái quốc của tôi không mất được. Bác cứ mặc tôi, đằng nào cũng một lần chết. Tôi muốn chết lắm để khỏi trông thấy quân Minh đặt chân lên giải đất này.
Nói đoạn, Trừng ngoắt ngay đi, mặc cho Hồ Thích đứng tần ngần bên vệ đường. Gần về chiều thì Mạc đăng Dung tới nơi. Một toán lính cung thủ cưỡi ngựa đi đầu mở đường, rồi đến kiệu của Mạc đăng Dung, các quan tùy tùng cưỡi ngựa đi chung quanh đông có tới vài trăm người. Đến trạm canh, Mạc đăng Dung nhìn qua rèm ngự thấy một người mặc triều phục, đầu trần quỳ ở bên đường, hai tay dâng biểu, thì ngạc nhiên hỏi:
- Tên kia có việc gì?
Nguyễn Trừng rập đầu nói:
- Thần là Nguyễn Trừng, chức Chuyển vận sứ huyện Lạng giang, có tờ biểu dâng trình ngự lãm.
Quan giám sát ngự sử là Vũ như Quế, cầm tờ biểu, vén rèm ngự đưa vào. Mạc đăng Dung xem xong cả giận, mắng:
- Nhà ngươi là một viên quan nhỏ sao dám phê bình công việc của Triều đình? Quân sĩ đâu, trói nó lại giải về kinh định tội.
Trừng kêu ầm lên:
- Thần tuy chức nhỏ, phận hèn, nhưng cũng là mệnh quan của Triều đình; vả lại đang lúc Quốc gia lâm nạn, kẻ thất phu còn phải lo mưu giải cứu, huống hồ người có học thức? Xin thượng hoàng nghe lời hạ thần, trở về Kinh đô sắp sửa binh mã để quyết chiến với giặc. Hạ thần nguyện sẽ làm tên quân dắt ngựa hầu Thượng Hoàng, dẫu có chết cũng cam lòng.
Mạc đăng Dung ném tờ biểu xuống đất quát:
- Tên hủ nho ăn nói càn rỡ tội đáng chết. Quân bay đâu, đem nó ra chặt đầu đi.
Quân sĩ xúm vào lôi Trừng ra. Trừng không kháng cự cười nhạt:
- Mày cướp ngôi nhà Lê, lại bán rẻ đất nước cho quân Minh. Sau này, dân chúng sẽ moi gan, lôi ruột mày.
Đoạn, Trừng cắn lưỡi chết. Mạc đăng Dung sai vứt thây ở bên đường rồi thúc quân đi.
Hồ Thích nấp ở gần đấy, đợi cho quân sĩ đi hết mới dám ra, chôn cất cho Trừng cẩn thận, rồi thay đổi thường phục tìm đường vào Thanh Hóa...
Mạc đăng Dung đi suốt đêm tới Lạng Sơn, đến sáng, tự trói mình cùng với các quan sang Nam Quan yết kiến Cừu Loan. Quân Minh dẫn mọi người vào dinh. Đô đốc Cừu Loan thấy Mạc đăng Dung xin hàng mừng lắm, nhưng cũng giả vờ làm mặt giận quát:
- Bản phiên đóng binh ở Nam Quan từ năm Đinh dậu (1537) nghĩa là cách đây đã 3 năm, sao bây giờ nhà ngươi mới chịu ra hàng?
Đăng Dung rập đầu kêu:
- Bẩm Đô Đốc, năm Đinh dậu, chúng tôi đã cho Nguyễn văn Thái sang dâng biểu xin hàng rồi, và Thiên triều đã ưng thuận.
Cừu Loan cau mặt đáp:
- Nhà người nói vô lý quá. Nếu Hoàng đế thuận cho hàng thì đã giáng chiếu cho ta biết, và sai sứ thần sang phong chức, chứ sao lại im lặng thế được? chẳng qua, nhà ngươi coi thường binh lực của Thiên triều nên mới có cái thái độ úp mở như vậy,
Mac đăng Dung run sợ, thưa:
- Chúng tôi ở nước mọi rợ, xưa nay không hiểu vương Iễ, xin Đô đốc chấm chước cho.
Cừu Loan toan mắng nữa, nhưng thấy quan Tán lý quân vụ là Mao bá Ân đưa mắt làm hiệu, thì dịu dọng nói:
- Nhà ngươi có thực bụng hàng không?
Mạc đăng Dung khóc, đáp:
- Chúng tôi cai trị đất mọi rợ, sống chết là ở trong tay Đô đốc, khi nào dám man trá để mang tội với Thiên triều.
- Vậy nhà ngươi muốn kêu gì?
- Chúng tôi xin dâng năm động là Tê phù, Kim lạc, Cổ xung, Liễu cát, La-phù và đất Khâm- chàn, để chuộc tội. Ngoài* fa lại vàng, bực, châu báu, cùng các sô đinh điền.
Cừu Loan đưa mắt nhìn 5 mâm vàng bầy ở trên sập, sẽ nói:
- Đây là đồ cống hiến đưa về Kim lăng phải không?
Mạc đăng Dung lê dần hai đầu gối đến gần chỗ sập của Cừu Loan ngồi, thưa rằng:
- Bẩm Đô đốc, chúng tôi cắt năm động dâng Thiên triều, còn chỗ vàng này là của riêng chúng tôi biếu Đô đốc.
Cừu Loan toét miệng cười:
- Nam chúa có lòng tốt, bản phiên rất cám ơn. Xin tạm lui về, đợi khi nào có chiếu chỉ của Hoàng thượng sẽ hay.
Mạc đăng Dung vâng vâng dạ dạ lui ra.
Cừu Loan bàn với Mao bá Ôn:
- Họ Mạc hèn nhát lắm, hay ta thôn tính phăng nước Nam làm quận huyện, để đỡ lo ngại về sau.
Ôn gạt đi:
- Người Nam không phải là giống hèn, vốn sẵn có tinh thần thượng võ và trí óc lớn lao không chịu ép mình làm nô lệ mãi đâu. Ta không tốn một mũi tên, mà thu được năm động là may lắm rồi, nếu ta làm quá, họ chổi cả dậy, thì nguy hiểm vô cùng.
- Mạc đăng Dung đã ở trong tay ta rồi, thì còn lũ dân đen kia, bảo thế nào mà chả phải nghe. Cơ hội này rất tốt, nếu ta bỏ lỡ e hối hận về sau.
- Mạc đăng Dung hèn nhát đã đành, nhưng ở nước Nam có một mình Mạc đăng Dung đâu? Tôi nghe nói Nguyễn Kim cũng không phải là tay vừa, đang hoạt động ở Sầm châu, và chỉ rình ra Bắc. Nếu ta không khéo, nhỡ để dân chúng hợp tác với Nguyễn Kim đánh lại ta, thì rồi lại chịu cái số phận như Vương Thông, Mã Kỳ mà thôi.
Cừu Loan khen phải, dâng biểu về Kim lăng. Minh đế sắc phong cho Mạc đăng Dung chức Đô Thống sứ, hàm nhị phẩn, và ban thưởng cho Cừu Loan. Mạc đăng Dung cả mừng sang cảm ơn Cừu Loan, rồi về Thăng Long. Đến nửa đường Mạc đăng Dung nghe tin Nguyễn Kim đang đánh phá ở Nghệ An, cả sợ vội thúc quân gấp đường về. Gần tới Thăng long, lại được tin quân Lê đã rút lui rồi.
* **
*
Lại nói Nguyễn Kim ở Sầm Châu vẫn thường cho quân do thám về Thăng long xem xét tình hình nên việc Mạc đăng Dung định hàng nhà Minh đều biết rõ cả. Khi Mạc phúc Hải nối ngôi cha là Mạc đăng Doanh (năm Canh-Tí 1540) được mấy tháng thì ở Nam Quan, quân Minh rục rịch muốn vượt biên thùy. Mạc đăng Dung ở Cố Chai được tin ấy cấp tốc về Thăng long thu xếp các sổ đinh điền, vàng bạc châu báu, cùng với các quan lên Lạng Sơn, tự trói mình chịu tội. Nguyễn Kim nóng muốn biết tin tức, thì vừa hay Hồ Thích về tới Sầm châu xin vào yết kiến, thưa rằng:
- Nước sắp bị quân Minh đô hộ rồi, Tướng quân đã biết chưa?
Kim thản nhiên hỏi:
- Nhà ngươi làm quan chức gì với ngụy triều?
- Bẩm chúng tôi là Hồ Thích chức Phòng ngự sử châu Quảng Nguyên.
Kim cười nhạt:
- À ra quan Phòng ngự sử, vậy ngài vừa nói nước nào bị quân Minh đô hộ?
Họ Thích biết là nói mai mỉa, ung dung đáp:
- Nước Đại Vìệt ta, chứ nước nào? Mạc đăng Dung định đem giang sơn dâng cho Minh Triều và nhờ thế lực quân Minh để chế ngự tướng quân. Nếu tướng quân không nhân dịp lúc này mà chiếm lấy Thanh, Nghệ thì cũng khó lòng mà yên thân ở Sầm châu được.
- Ông đang làm quan của nhà Mạc, lại vào đây làm gì?
- Họ Mac hèn nhát, đến đứa trẻ lên ba cũng nổi lòng công phẫn huống chi là kẻ thức giả
- Nếu Mạc đăng Dung chưa hàng quân Minh thì có lẽ ông vẫn quên nhà Lê. ông khéo léo biết lợi dựng thời cơ để tiến thân như thế mới đáng gọi là kẻ thức giả.
Hồ Thích khoan thai đáp:
- Lúc họ Mạc tiếm vị, các bầy tôi trung thành với nhà Lê, người thì lấy nghiên mực đập vào mặt nghịch thần, người thì chửi mắng gian tặc, thẩy đều bị chết cả. Duy có tướng quân chịu nhẫn nhục, thoả hiệp với triều Mạc để rồi tìm cách trốn đi, mưu sự khôi phục nhà Lê. Hồi bấy giờ, thiên hạ không hiểu cho là tướng quân biến tiết đổi lòng, cam tâm thờ giặc. Thanh Hóa là đất của lệnh nghiêm đường, tướng tá còn nhiều, tướng quân chỉ hô một tiếng là hàng vạn người theo, thế mà ở chốn Triều đường phải chịu khoanh tay nhìn Mạc đăng Dung lộng hành, vì tướng quân tự biết bị cô lập giữa bọn người khát máu. Trường hợp ‘‘đợi thời’’ của tướng quân hồi ấy, có khác gì của chúng tôi bây giờ.
Hạng nho giả có khí tiết, nhưng ít tinh thần tranh đấu, thì chỉ biết phản động lại thời cuộc bằng một thái độ tiêu cực, nghĩa là ẩn dật một nơi, rồi ký thác tâm sự hoài Lê vào câu thơ chén rượu. Còn như chúng tôi vì sinh kế quẩn bách, nên bất đắc dĩ phải ra làm quan với ngụy triều nhưng vẫn không quên được cố chủ, chỉ mong có dịp được quay về Lam sơn mà thôi. Tướng quân cùng vì nhà Lê mà chịu nhẫn nhục thờ họ Mạc ít lâu, đã không thấu rõ cái hoài bão của chúng tôi, lại lớn tiếng trách móc, thì ra tướng quân chỉ biết mình chứ không biết người. Đến như Nguyễn bỉnh Khiêm là một tay cự phách trong làng nho, khí tiết cao cả, thiên hạ trọng vọng như thần thánh, mà còn uốn lưng thờ họ Mạc thì còn nói chi kẻ tài trí dung thường này, đã nặng tình với gia đình lại mờ mắt vì danh lợi.
Nguyễn Kim cười ầm lên, đứng dậy xin lỗi:
- Tôi vui đùa một chốc, xin túc hạ chớ giận.
Đoạn mời Hồ Thích ngồi, rồi hỏi:
- Tình hình dân chúng miền Bắc thế nào? xin túc hạ cho biết.
- Dân chúng tuy bắt buộc phải theo nhà Mạc nhưng vẫn tưởng nhớ đến nhà Lê. Một chứng cớ hiển nhiên là năm Đinh dậu (1537) dân chúng thấy Mạc đăng Dung cho Nguyễn văn Thái sang Kim lăng xin hàng Minh đế, thì nổi lòng công phẫn rủ nhau vào Nghệ an sinh cơ lập nghiệp, rõ ràng là phản đối thái độ của Ngụy triều. Hồi ấy ở dân gian, bỗng thấy trẻ con nhao nhao lên hát câu này để chế riễu Mạc đăng Dung:
Có một ông to,
Vừa bò vừa khóc,
Theo anh vác bọc,
Hồng hộc chạy quàng.
Chạy từ đất Việt chạy sang,
Chạy từ cửa Ải Nam quan chạy về.
Chạy đi chạy lại ê chề.
Chạy qua đất Sở, chạy về đất Ngô.
Nghìn năm gây dựng cơ đồ,
Nỡ xô thành phách, nở vò non sông.
Rồi đây cát lở bụi tung,
Ùn ùn chật đất đầy đồng quân Minh.
Quán chợ đầu đình,
Rập rình người ngựa,
Còn đầy cái vựa,
Thóc chửa xay xong.
Con dắt, con bé, con bồng,
Một đoàn cha mẹ vợ chồng cùng đi.
Lam sơn đất cũ còn ghi,
Mây dùn cửa ải, tinh kỳ xa xa.
Nguyễn Kim lạ hỏi:
- Còn triều đình thì thế nào?
- Chốn triều đình gian đảng thi nhau khuynh loát các quan, bầy ra một cảnh tượng vô cùng hỗn độn. Quan Trạng Nguyên Nguyễn bỉnh Khiêm vốn được Mạc đăng Doanh coi như bậc Á phụ, nhiều lần dâng sớ xin chém mấy tên gian nịnh mà không được, nên tỏ vẻ chán nản, trầm muộn, cáo quan về nơi cố lý. Mạc đăng Doanh mất đi, đến Mạc phúc Hải thì càng đồi bại nữa.
- Lúc này đã nên xuất quân chưa?
- Nên lắm. Thời cơ đã đến, ta làm ngay đi. Trước chiếm Thanh, Nghệ làm căn bản, đợi khi thế lực đầy đủ, sẽ tiến ta Bắc thì đại sự tất thành,
Nguyễn Kim gật đầu. Sáng hôm sau, Kim hợp các tướng lại bàn cách tiến binh. Ninh Chấp đứng lên thưa:
- Tôi xin đem 500 quân đi tiên phong do đường Khương Lang ra lấy Thanh Hóa.
Lý Vũ cũng xin đi. Trịnh Kiểm bàn rằng:
- Dương chấp Nhất ở Tây Đô dùng quân rất giỏi, mẹo mực như thần. Mặt Thanh Hóa ắt được phòng thủ kỹ lưỡng lắm, nếu ta đi đường Khương Lang sẽ vấp phải sức kháng chiến rất mạnh của đối phương.
Con xin bầy mẹo này: một đằng nhạc phụ sức giấy cho vợ chồng Vũ công Khanh ở Khương Lang sắp sửa thuyền bè, làm như sắp qua sông, để đánh lừa giặc; một đằng con xin mang 500 quân luồn rừng ra chiếm Nghệ An, nhạc phụ mang đại binh đi sau. Nghệ An mất rồi thì Thanh Hóa thế cô, sớm muộn cũng đến mất nốt.
Nguyễn Kim ngảnh nhìn Hồ Thích hỏi:
Hồ Thích gật đầu:
- Thật là diệu kế.
Nguyễn Kim lập tức cho thi hành mưu kế. Vũ công Khanh ở Khương Lang, một hôm cùng với Lưu bích Lan, Cao minh, Đào Tứ ngồi nói chuyện xuông, thì nhận được mật lệnh phải sắp sửa thuyền bè, để cho quân sĩ vượt qua sông.
Cao Minh vỗ tay reo ầm lên:
- Phen này tất được trông thấy Thăng Long.
Vũ công Khanh cũng mừng rỡ nói:
- Chả nhẽ lại chịu chết già ở só rừng!
Đoạn, truyền cho quân sĩ đốt cả dinh trại ở trong rừng, lấp hết hầm hố, rồi kéo nhau lên đóng ở đồn đã bỏ trống mấy năm nay. Suốt mấy hôm, quân Lê ghép bè chuối, thả thuyền xuống sông, cắm cờ hiệu nhà Lê lên mui, tới tấp rộn rịp sửa soạn cuộc đổ bộ. Ở bên kia quân xích hậu dò thấy, vội về Tây Đô phi báo, Dương chấp Nhất họp các tướng lại bàn kế cự địch. Phó tướng là Ngô Cát nói:
- Nếu để giặc xâm nhập Thanh Hóa thì mất ảnh hưởng với dân chúng. Bất nhược ta đánh trước thì hơn.
Dương chấp Nhất nghe lời, sai Ngô Cát đem 1000 quân đi trước, còn tự mình thống lĩnh đại binh kéo sau. Suốt từ Tây Đô đến bờ sông giáp giới Khương Lang, cứ cách vài dặm lại lập một dinh trại, ngày đêm đốt lửa làm hiệu. Tiền quân Mạc đóng cách sông vài dặm đã được non một tuần lễ mà vẫn chưa thấy quân Lê hành động gì, liền báo tin cho chủ tướng biết. Dương chấp Nhất sinh nghi, cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi gọi một viên tướng thủ tức là Triệu Đại đến dặn rằng:
- Nhà người đi gấp đường vào Nghệ an nói với quan trấn thủ là Vương Cẩm phải đề phòng quân Lê đánh úp. Nhanh lên kẻo không kịp.
Triệu Đại vâng lệnh lên ngựa đi, chiều hôm sau đã về, mặt tái mét cắt không được hột máu, đứng thở một lúc, rồi nói ;
- Nghệ an mất rồi,
Dương chấp Nhất rụng rời chân tay hỏi:
- Mất bao giờ?
- Bẩm mất đã hai hôm nay. Quan trấn thủ là Vương Cẩm trốn mất tích. Thành trì đã lọt vào tay tướng Lê là Trịnh Kiểm.
Quân Mạc nghe được tin ấy, nháo nhác cả lên. Ngô Cát bàn rằng:
- Nếu để mất Nghệ an thì Tây Đô cũng nguy đến nơi rồi. Tướng quân phải đánh chiếm ngay lại mới được.
Tổng quản là Phùng Ích nói:
- Nếu ta rút quân đi, thì bên kia quân Lê tất tràn sang đuổi theo. Giặc ở Nghệ An đánh thốc về, ta bị kẹp ở giữa thì hết lối chạy.
Dương chấp Nhất đang phân vân chưa biết tính sao chợt thấy quân sĩ đưa một người vào. Nhất nhìn ra thì là Nguyễn Áng, vội đứng dậy mời ngồi. Áng nói:
- Thượng hoàng đã dâng 5 động cho Minh đế xin hàng, thế là mặt Bắc tạm yên. Tôi đến đây được tin Nghệ an đã bị quân Lê chiếm rồi, đại huynh nghĩ thế nào?
Dương chấp Nhất mừng rỡ, đáp:
- Thật là may cho Mạc triều.
- May thế nào?
- Sở dĩ quân Lê dám hoạt động mạnh như vậy là do sự rắc rối ở biên thùy Hoa Việt. Đến nay tình thế đã ổn định, quân Lê có gan tày trời cũng không dám ở Nghệ an. Đại huynh hãy nán ở lại đây vài hôm nữa, xem lời tôi nói có đúng không?
Nguyễn Áng bán tín, bán nghi, đành phải ở chơi vài hôm để nghe tin tức.