- III -
NĂM Nhâm Dần (1512) Nguyễn Kim ở Sầm Châu thế lực đã mạnh, ý muốn cất quân về đánh Thanh, Nghệ. Bây giờ Đặng Thị đã qua đời, phàm có việc gì quan trọng, An thành Hầu đều bàn với con rể là Trịnh Kiểm. Nàng Ngọc Bảo trong mấy năm sinh liền hai trai, con trưởng là Trịnh Cối, con thứ là Trịnh Tùng. Kiểm mừng lắm thường khoe với mọi người:
- Thằng Cối có quí tướng thật, nhưng không bằng em. Sau này Tùng có thể nối nghiệp của cha được.
Nguyễn Uông vì có hiềm với anh rể, nên ít khi chịu giáp mặt, chỉ có Nguyễn Hoàng khôn khéo hơn, muốn giữ trọn vẹn tính hòa khí trong gia đình nên rất niềm nở với Trịnh Kiểm. Nguyễn Kim đã nhất quyết tiến binh, nên cuối năm ấy ông sai Trịnh Kiểm cùng bọn Vũ công Khanh, Cao Minh, Đào Tứ, đem 5000 quân đi lấy Thanh Hóa. Còn Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng. Ninh Chấp, Lý Vũ đánh Nghệ an, tự mình thống lĩnh đại binh cùng Hồ Thích rước vua Lê trang Tôn đi sau.
Trịnh Kiểm vâng lệnh kéo quân ra Khương Lang đóng tạm ở đây vài hôm, họp các tướng lại bàn, Vũ công Khanh nói:
- Nếu có ai chịu vào thành làm nội ứng thì lấy Tây Đô rất dễ
Trịnh Kiểm khen phải, sực nhớ đến Trương Hoằng Sử, liền viết một phong thư đưa cho Cao Minh sẽ dỉ tai dặn dò. Cao Minh thưa rằng:
- Xin cho Đào Tứ cùng đi với tôi cho có bạn.
Kiểm bằng lòng. Hai người trá hình là khách thương, thẳng đường về Tây Đô. Bấy giờ tiết trời đã sang đông, gió vàng hiu hắt lạnh buốt xương. Qua các đồn ải, hai người đều nhận xét kỹ lưỡng cách phòng thủ của quân Mạc, nhất nhất đều ghi nhớ hết. Đến Tây Đô, Cao Minh bàn rằng:
- Ở đây, chúng canh phòng cẩn mật lắm, anh phải cẩn thận, nhỡ một tý thì hỏng cả công việc.
Đào Tứ gật đầu. Hai người thủng thỉnh đi lẫn với dân chúng, lọt được vào thành.
Lần đầu tiên, Đào Tứ đặt chân đến nơi đô hội, mắt nhìn thấy nhà cửa san sát, cảnh tượng phố phường sầm uất, xe ngựa nhộn nhịp tưng bừng nên trong bụng vui thích lắm. Hai người đến chợ, tìm một hàng quán gọn ghẽ vào nghỉ ngơi, tắm rửa sạch sẽ, thay đổi quần áo, rồi ra chợ chơi. Đang lúc len lỏi giữa đám đông. Đào Tứ bỗng vấp phải một bà cụ già bán rau ở dia đường, làm bà cụ ngã gục đầu xuống chiếc thúng để trước mặt. Đào Tứ chưa kịp nâng bà cụ giậy thì bị ngay một câu mắng:
- Mắt mù hay sao mà khốn khổ thế?
Đào Tứ dịu giọng xin lỗi:
- Cháu chót nhỡ, xin cụ tha cho.
Bà cụ cứ sa sả mắng, rồi nắm chặt lấy áo của chàng:
- Mày đền bà đi.
- Ồ hay! đền thế nào?
- Mặc kệ, bà đã ế hàng, mày lại còn ếm mãi.
Đào Tứ toan cãi lại nữa, thì Cao Minh đã lấy trong túi ra một ít bạc vụn đưa cho bà lão:
- Đây! đồ khỉ già.
Bà lão cười ha hả, ngước mắt nhìn Cao Minh một lát, rồi bỗng kêu lên:
- Ai như ông Minh.
Hai chàng sợ tái người, tưởng bị bại lộ hình tích bấm nhau toan lảng đi, thì bà lão đã nắm lấy Đào Tứ:
- Tưởng ai, té ra thằng ôn vật.
Đào Tứ ngắm nhìn bà lão một lúc mới nhận được bà mẹ yêu quí, mà chàng đã cách biệt gần 15 năm nay. Chàng khì khì cười nói:
- U già đi nhiều quá, thay đổi cả nét mặt, thoáng nhìn thì chịu không nhận được là ai.
- Khốn nạn, gần 20 năm giời, còn gì mà chẳng già.
- Sao u lại lạc lõng vào đây? Thầy con bây giờ ở đâu?
- Câu chuyện còn dài lắm, thôi về nhà sẽ hay.
Đoạn Chu Thị một tay cắp thúng rau, một tay đẩy Đào Tứ đi trước. Thấy Cao Minh có vẻ ngần ngại, Chu Thị sẽ nói:
- Ông không sợ, chúng tôi không phải là người bất lương đâu.
Cao Minh cũng liều bước theo, định bụng nếu Chu Thị dở mặt thì sẽ cho nếm một mũi dao rồi trốn cũng vừa. Ba người rẽ đám đông ra khỏi chợ rồi lần theo bờ ruộng đi. Dọc đường, Chu Thị hỏi con:
- Mày đi đâu mà mất tăm, mất tích 13 năm nay, chả nghĩ gì đến bố mẹ cả?
Thấy chung quanh vắng vẻ, Đào Tứ đáp:
- Cũng muốn về thăm thầy u nhưng sợ bị bắt.
Chu Thị chép miệng:
- Đang lúc cơn đen, vận túng nên mới nghĩ bậy như thế, chứ bây giờ thì chả khi nào.
- Có lẽ u giàu lắm rồi thì phải.
- Chả giàu, nhưng cũng đủ ăn. Tao chừa sóc dĩa rồi.
- Có thật không?
- Đứa nào nói dối thì trời chu đất giệt.
- Lại thề!
- Rõ khổ lắm! Mày vẫn chưa tin.
Đào Tứ khì khì cười:
- Ừ thì tin vậy.
- Mày làm nghề gì kiếm ăn?
- Làm nghề đánh nhau!
- Có nghề gì là nghề đánh nhau?
- Con theo ông Nguyễn Kim để đánh nhau với giặc Mạc chứ sao?
- Thế mày vào đây làm gì?
- Con vào làm nội ứng cho quân Lê. U có muốn đi tố cáo thì đi.
Chu thị rụng rời cả tay chân, lắp bắp nói:
- Trời ơi...! thế thì chết cả lũ.
Đào Tứ thản nhiên đáp:
- Chết thế nào được. Quân Lê sắp kéo đến nơi rồi.
Chu Thị rẽ vào đám nhà lá, dừng chân trước cái cổng tán gọi. Có tiếng thưa ở trong nhà, rồi thấy một ông cụ già ra dựng cổng lên. Đào Tứ chạy vào nắm lấy tay bố:
- Thầy còn nhớ con không?
Đào Hòa nheo cặp mắt nhìn chàng thanh niên đoạn reo lên:
- Đào Tứ, cả ông Minh nữa.
Đào Tứ đem hết sự tình nói với cha, rồi móc túi lấy một nén vàng dúi vào tay:
- Nếu thầy u giữ kín cho, thì sau này sẽ có vô khối vàng bạc mà tiêu. Bằng manh tâm làm phản thì ông Minh chẳng để yên cho đâu!
Đào Hòa thở dài:
- Ví túng bẩn nên phải tính bậy, người chứ có phải giống vật đâu mà táng tận lương tâm thế được.
Cao Minh cười hỏi:
- Mấy năm nay ông làm nghề gì để sinh nhai?
- Từ khi ông bỏ đi vợ chồng tôi hối hận mãi, nhưng sự đã rồi, biết làm thế nào? Sau đấy vài tháng, chúng tôi dọn về Thăng Long ở được ít lâu thấy khó kiếm ăn, lại lần mò về Thanh, định tìm thằng Tứ nhưng không thấy. Bốn bàn tay trắng ở nơi khách địa, chúng tôi đành phải gồng thuê gánh mướn để kiếm ăn, sau dư dật đồng tiền mới dựng được gian nhà và làm nghề hàng rau.
- Ông có quen ai ở trong thành không?
- Trước kia tôi cũng có gá bạc một dạo nên quen rất nhiều lính tráng. Tôi được nhiều lần vào dinh quan Tổng trấn là Dương chấp Nhất nên biết rõ đường đất lắm.
- Ai trông nom việc tuần phòng?
- Nghe đâu là Trương hoằng Sử thì phải, ông này trước làm tri huyện Vĩnh Lộc vừa mới đổi về đây được 4, 5 tháng.
- Nhà ông ta ở đâu?
- Tôi cũng chưa biết rõ.
Thấy trời đã trở về chiều, Cao Minh đứng giậy cáo từ, Đào Hòa hỏi:
- Ông đi đâu bây giờ?
- Tôi về nhà trọ...
- Ông nên ở đây với chúng tôi thì hơn, ở nhà trọ dễ bị lộ lắm,
Chu Thị cùng nói:
- Đêm hôm họ khám xét kỹ lắm. Ông ở đây thì không sợ, vì chúng tôi quen hết cả.
Cao Minh bằng lòng sai Đào Tứ về nhà trọ lấy hành lý. Nghỉ ngơi vài hôm, Cao Minh định đi tìm Hoằng Sử nên ăn mặc rất lịch sự, thủng thỉnh ra phố, hỏi thăm được đến dinh nhờ lính vào thông báo. Một lúc có viên thơ lại ra dần vào. Cao Minh vái Hoằng sử nói:
- Chúng tôi trước ở huyện Vĩnh lộc được đại nhân làm ơn cho một việc, nay vào mừng đại nhân vừa được thăng chức.
Hoằng Sử ngạc nhiên nói:
- Nhà thầy chịu ơn gì của bản chức?
- Bẩm, chúng tôi được đại nhân tặng vàng bạc về phụng dưỡng mẹ già, lại gỡ cho khỏi phải tội, nên vẫn nhớ ơn mãi.
Hoằng Sử hiểu ngay là người của Trịnh Kiểm sai đến, bèn mỉm cười nói:
- Xin mời túc hạ ngồi chơi.
Cao Minh dâng phong thơ lên Hoàng Sử xem xong, châm lửa đốt, rồi sẽ bảo Cao Minh:
- Khi nào đại binh vây được Tây đô, thì ta sẽ dâng thành cho.
Cao Minh cả mừng, chào đi ra, dặn dò Đào Tứ cẩn thận, rồi tức tốc về Khương lang báo tin, Trịnh Kiểm yên trí, đêm hôm ấy bí mật cho quân sĩ vượt qua sông, lợi dụng đối phương chưa kịp phòng bị, chia quân đánh các quận huyện, thế mạnh như vũ bão. Khắp nơi quân Mạc chống giữ rất hăng hái, nhưng vì các con đường liên lạc với Tây Đô đều bị cắt đứt nhiều chỗ, sự tiếp tế rất khó khăn, nên chỉ non một tháng, mà vòng vây dần dần thu hẹp lại, quân Lê còn cách Tây đô vài dậm đường. Dương chấp Nhất mấy lần dâng sớ về Thăng Long xin được quân cứu viện đến thì lại bị Nguyễn Kim đón đánh.
Đang lúc Tây Đô lâm vào thế cô thì tình hình Nghệ An cũng không được sáng sủa lắm. Khắp nơi dân chúng nỗi lên hậu thuẫn cho nhà Lê rủ nhau đi lùng bắt lính Mạc. Tháng chạp năm ấy, Nghệ An thất thủ, Nguyễn Kim mừng lắm, đưa giấy cho Trịnh Kiểm bắt phải lấy Tây đô trước tết Nguyên Đán. Kiểm nhận được tướng lệnh, thúc quân đánh thành rút gấp. Nhưng vì Tây Đô phòng thủ chắc chắn lắm nên quân Lê không làm gì được. Trịnh Kiểm nghĩ được một mẹo, liền cho quân đi phao tin là quân tiếp viện của Mạc phúc Hải sắp kéo đến giải vây Tây đô, rồi chàng rút hết quân sĩ đi nơi khác. Dương chấp Nhất thấy vậy, họp các tướng lại bàn, Trương Hoằng Sử nói:
- Tôi xin đem một toán quân ra thám thính phòng xa địch đánh lửa.
Chấp Nhất bằng lòng. Hoằng Sử đem 300 quân ra khỏi thành được hơn một dậm thì bị Cao Minh đem quân đến vây bắt sống cả, rồi đổi lấy 300 quân Lê cho mặc quần ảo giả quân Mạc.
Hoằng Sử dặn rằng:
- Đêm nay cứ đốt lửa làm hiệu, ta sẽ mở cửa Bắc cho vào.
Đoạn kéo quân trở về. Cao Minh giả vờ đuổi theo, hai bên đánh nhau lộn bậy mãi, đến nhá nhem tối thì rút lui. Hoẳng Sử về đến thành, Dương chấp Nhất hỏi ngay:
- Tình hình quân giặc thế nào?
- Chúng chưa đi hết. Sáng mai ta kéo cả ra đánh một trận ắt được toàn thắng.
Đêm hôm ấy, Hoằng Sử đem 300 quân Lê đi tuần phòng. Đến cửa Bắc, chèo lên mặt thành nhìn ra ngoài thấy có đốt lửa, liền hô lên một tiếng, quân Lê xông vào giết chết toán lính canh cổng, rồi mở toang cửa ra. Cao Minh, Vũ công Khanh ở ngoài liền cho nổi hiệu trống thúc quân tiến vào thế mạnh như nước vỡ bờ. Chớp mắt lửa trong thành bốc cháy ngùn ngụt tiếng reo hò ầm ĩ Hoằng Sử dẫn các tướng, Lê đánh tràn vào dinh Trấn thủ. Đào Tứ đang chập chờn nửa ngủ nửa thức, thoáng nghe có tiếng quân reo, chàng thức giậy, nhìn ra ngoài lửa cháy ngất trời, biết là thành đã vỡ, liền cầm lấy thanh gươm bảo mẹ:
- U cứ đóng kín cửa kia lại, con đi bắt giặc đây. Đoạn chạy vụt ra ngoài. Khắp các ngả đường dân chúng nhớn nhác, bồng con bế cái chạy như vịt dẫm lên nhau chết vô kể. Đào Tứ đến dinh Trấn thủ, chèo qua tường vào lùng bắt Dương chấp Nhất. Lúc bấy giờ quân Mạc cũng vất cả binh khí đi lẫn với dân chúng về phía cửa Đông, thoát được ra ngoài rất nhiều. Dương chấp Nhất cởi bỏ nhung phục, thu xếp ít vàng bạc dắt vợ con toan trốn đi, thì sực Đào Tứ xông đến thét to:
- Đứng lại.
Chàng hoa gươm đâm thẳng một mũi. Chấp Nhất bất đắc dĩ phải nghênh chiến, được mươi hiệp thì quân Lê hằng hà sa số kéo đến vây kín xung quanh. Chấp Nhất biết đánh mãi cũng vô ích liền xin hàng. Đào Tứ xông vào dằng lấy gươm trói lại. Vừa hay, Hoằng Sử thúc ngựa đến. Nhất mỉa mai nói:
- Không ngờ ông lại phụ tôi.
Hoằng Sử đáp:
- Tôi rắp tâm hàng Lê đã lâu, bây giờ mới có dịp. Ông là danh tướng nhà Mạc, không đến nỗi phải chịu nhục hình đâu!
Trịnh Kiểm chiếm xong Tây đô, một mặt phái người đi báo tin cho Nguyễn Kim biết, một mặt treo bảng, an dân, và sai Cao Minh đem quân đi tróc nã những lính Mạc đào tẩu. Mấy hôm sau, chợt có tin kinh thành Nghệ An lại bị quân Mạc chiếm mất rồi, Trịnh Kiểm dật mình hỏi nguyên do, thì lên lính thưa rằng:
- Công tử Nguyễn Uông sơ ý để Vương Cẩm lẻn vào chiếm thành, đốt kho lương thực, đánh bật được quận Lê ra ngoài.
- Nguyên soái đi đâu?
- Bẩm, Nguyên soái phải hộ giá Hoàng Thượng đi các châu, huyện để phụ dụ dân chúng.
- Hiện nay tình hình thế nào?
- Tướng Mạc phòng thủ chu đáo lắm, quân Lê đánh mãi không được.
Vì còn mấy ngày nữa thì đến tết Nguyên Đán, nên Trịnh Kiểm cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn Tết, đợi ra giêng sẽ cử binh vào Nghệ An.
Năm Quý mão (1543) thì thành Nghệ An lại lọt vào quân Lê, các phủ huyện dần dần lại thu phục được hết. Cả giải đất Thanh Hóa cũng bình định xong, Nguyễn Kim rước vua Lê trang Tôn về đóng ở Tây Đô, cho các tướng vào lạy mừng rồi định công phong thưởng. Nguyễn Kim toan bắt tội Uông, thì Hoàng can rằng:
- Trịnh Kiểm chiếm công đầu, thế cũng đủ cho anh Uông ghen tức rồi. Nếu cha trị tội Uông tức là khơi sâu thêm cái hố ác cảm giữa hai người. Cha lờ đi là hơn.
Nguyễn Kim họp các tướng sĩ lại, bày tiệc ăn mừng. Rượu đến nửa chừng, vua Lê trang Tôn truyền đem Dương chấp Nhất ra chém đầu. Hồ Thích quỳ xuống tâu:
- Dương chấp Nhất là danh tướng của nhà Mạc, giết đi thì tiếc, xin để hắn lập công chuộc tội.
Trịnh Kiểm nói:
- Chấp Nhất ngoài mặt trông có vẻ hiền lành nhưng trong bụng độc ác như hổ lang. Giết hắn đi, tức là chặt được một cánh tay của Mạc phúc Hải, và trừ được một đối thủ lợi hại của ta.
Nguyễn Uông phản đối lại:
- Xưa nay có ai giết hàng tướng bao giờ, đang lúc tranh bá đồ vương, thì người nào cũng vì chủ người ấy, chém tướng cướp cờ là bổn phận của kẻ làm trai sao lại nỡ vì chữ ‘‘tài’’ mà thù ghét nhau như thế được? Khi Dương chấp Nhất thờ Ngụy triều thì chỉ biết có họ Mạc đáng khen là bậc trung thần. Đến lúc biết cải tà quy chính, bỏ chỗ tối ra chỗ sáng, thì ta nên trọng dụng để tưởng lệ người hào kiệt mới phải, chứ giết đi chả hóa ra hẹp lượng lắm ru!
Ninh Chấp không bằng lòng, nói:
- Dương chấp Nhất theo Mạc đăng Dung từ thuở nhỏ, ngoài thì là nghĩa vua tôi, nhưng trong tình thân như ruột thịt. Hắn bất đắc dĩ mà phải hàng, chứ tư tưởng lúc nào cùng hướng về Mạc thị. Nên giết đi cho khỏi lo về sau.
Các tướng mỗi người bàn một phách, kẻ thì bảo ‘‘nên giết’‘ người thì bảo ‘‘nên tha’’, tranh biện nhau mãi. Vua Lê trang Tôn cũng không dám tự mình quyết định, bèn hỏi ý kiến An thành Hầu. Nguyễn Kim tâu rằng:
- Hồi Mạc đăng Dung thoán nghịch, muốn giết các người trong hoàng tộc, nhưng Dương chấp Nhất can mãi Dung mới chịu nghe. Hạ thần cũng nhờ có hắn che chở nên mới sống sót đến ngày nay. Kể ra hắn đối với nhà Lê thì ân nhiều mà tội ít, xin bệ hạ khoan dung cho một lần để thiên hạ hiểu rõ độ đức cao cả của vị thánh quân.
Vua Lê trang Tôn liền ân xá cho Dương chấp Nhất và cho giữ nguyên chức cũ, tước Lạc trung hầu. Chấp Nhất lạy tạ ơn. Trịnh Kiểm nét mặt có vẻ buồn rầu.
Từ đấy, hai tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, nằm trong thế lực nhà Lê.