- IV -
NĂM Ất-Tỵ (1545) Nguyễn-Kim muốn tiến ra Bắc đánh chiếm Thăng Long, bèn sức giấy đi các phủ huyện kén thêm một vạn quân nữa giao cho Trịnh Kiểm luyện tập. Lại trưng dụng những thợ khéo đóng gấp chiến thuyền, mua ngựa, định do hai đường thủy, bộ đánh Sơn nam. Ông thấy mình đã già yếu, ý muốn trọn Nguyễn Hoàng để nối nghiệp mình, nhưng lại sợ mếch lòng Uông nên còn dùng dằng chưa dám quyết định ngay.
Nguyễn Uông thì từ khi vợ chết cũng chưa tục huyền, còn Hoàng thì mới thành hôn, được ít lâu. Một hôm, ông đem chuyện gia đình bàn với Dương chấp Nhất, và hỏi ý kiến. Nhất đáp:
- Nếu bỏ trưởng, lập thứ, thì khác nào tự mình gậy mầm loạn trong nhà. Vả lại Uông không có tội gì sao nỡ phế truất đi.
- Tài Hoàng gấp mười Uông, và rất được lòng quân sĩ. Ta cốt chọn người giỏi, chứ kể gì đến trưởng với thứ.
- Uông dẫu không tài bằng Hoàng nhưng cũng không phải là vô dụng, có thể nối nghiệp được.
Nguyễn Kim còn đang ngần ngừ thì Nhất lại nói:
- Nguyên soái còn nhớ chuyện vua Đinh tiên Hoàng bỏ Đinh Liễn mà lập Hạng Lang không?
Kim chợt nghĩ ra, cười:
- Nếu không may ta mất sớm, thì ông nên cố hết sức giúp con ta nhé!
Nhất gạt nước mắt đáp:
- Tôi như người sắp chết đuối, được ông cứu thoát, chỉ mong có dịp để báo đáp ơn sâu, lẽ nào có việc nhỏ mọn như thế mà chẳng hết lòng?
Kim cả mừng. Dương chấp Nhất đem chuyện đó nói với Uông. Uông chắc là thế nào cũng được lập, thường nói với các tướng:
- Các ông theo phụ thân tôi đã gần 20 năm nay, nằm gai nếm mật đã nhiều, đến lúc thành công thì cùng nhau chia hưởng phú quí. Tôi đối với các ông trước sau như một, thề không dám phụ lòng. Nhưng riêng đối với Trịnh Kiểm thì nhất định không chịu đội trời chung. Nếu hắn không chết thì tôi cũng khó sống yên ổn được.
Câu chuyện ấy đến tai vợ chồng Vũ công Khanh. Lưu Bích Lan thuật lại với Ngọc Bảo. Nàng chạy đến khóc với cha:
- Chồng con với em Uông vẫn bất bình với nhau, nếu cha giao binh quyền cho Uông thì chồng con nguy mất.
Nguyễn Kim đáp:
- Để ta liệu xem đã.
- Trước mặt tướng sĩ, Uông vẫn thường đe giết chồng con để trả thù. Nếu Kiểm biết ắt phải tính trước, thì tính mệnh em Uông cũng khó an toàn.
- Ai nói với con thế?
- Vợ chồng Vũ công Khanh.
Nguyễn Kim gọi Khanh hỏi, thì Khanh khai là câu chuyện có thực. Kim lặng yên không nói gì, cho nên lại đình chỉ việc kế nghiệp, và từ đấy lúc nào ông cũng lộ vẻ buồn bã.
Dương chấp Nhất tuy bắt buộc phải hàng nhà Lê, nhưng trong bụng lúc nào cũng tưởng nhớ đến chủ cũ, chỉ rình có dịp là trốn về Thăng long. Trong thời gian lưu trú ở Tây Đô, hắn tìm hết cách gây sự mâu thuẩn giữa các tướng sĩ, và nhất là trong gia đình An thành Hầu, cốt để nội bộ lủng củng, ngờ vực lẫn nhau. Các tướng nửa về phe Uông, nửa về phe Kiểm. Những người thân tín của Kim như Ninh Chấp, Vũ công Khanh thấy tình hình như vậy cố tìm cách dãn hòa nhưng không xong, đành chịu khoanh tay, nhìn hai phe đảng tranh giành quyền lợi. Một hôm Dương chấp Nhất đang ngồi ở thư phòng đọc sách bỗng thấy lính đưa một người vào, nhìn ra thì là Dương Chung, tên gia nhân cũ của mình.
Nhất cho lính lui ra, đóng chặt cửa lại, hỏi:
- Mày ở đâu đến?
- Bẩm con ở ngoài Bắc vào.
- Vợ con ta hiện nay ở đâu?
- Bẩm, ở cả Thăng long.
- Thượng Hoàng có được bình an không?
- Bẩm, Thượng Hoàng mất rồi.
Dương chấp Nhất ứa nước mắt than rằng:
- Ta theo Thượng Hoàng từ thuở hàn vi, được Thượng Hoàng coi như ruột thịt. Ngày nay ngài mất, ta không được nhìn mặt, thật ân hận suốt đời.
Đoạn lại hỏi Dương Chung:
- Vợ con ta có được bình an không?
- Bẩm, phu nhân và các công tử vẫn được Thánh Thượng trọng đãi và nhắc nhở đến tướng công luôn.
Hắn dở học lấy một phong thư đưa cho chủ:
- Thánh thượng ngự bút viết phong thư này bảo con đưa cho tướng công.
Chấp Nhất gạt nước mắt, mở thư thấy vỏn vẹn có mấy dòng:
‘‘Trẫm ở ngoài này cũng biết Á phụ bắt buộc phải hàng giặc, nên ngày đêm chỉ nhìn về phương Nam mà nuốt lệ thở dài. Nếu Á phụ còn nhớ đến đất cũ mà trở về, thì Thượng Hoàng ở dưới suối vàng cũng được vui lòng...’’
Nhất đọc thơ xong gục đầu xuống bàn khóc mãi. Dương Chung khuyên giải:
- Tướng công liệu trả lời cho Thánh thượng được yên lòng, chứ khóc mãi cũng chẳng ích gì.
Nhất nín khóc, lấy giấy viết thơ phúc đáp:
‘‘Lão thần xấu hổ vì phải hàng giặc, chỉ mong có dịp là về tạ tội trước bệ ngọc. Khi nào có tin giặc tràn đến Sơn Nam là lúc lão thần được thoát cũi sổ lòng. Vắn tắt mấy lời, kính chúc Thánh Hoàng muôn tuổi…’’
Dương Chung cất kỹ lưỡng vào bọc, ngủ lại một đêm, rồi sáng hôm sau từ biệt đi. Đến hôm thứ ba bỗng thấy Nguyễn Kim cho lính đến gọi phải đến ngay, Dương chấp Nhất giật mình, tưởng việc đã bại lộ, nhưng cũng liều đi. Tới nơi, thấy Nguyễn Kim đang đứng ở trên thềm, vẻ mặt hầm hầm. Nhất đã chột dạ, vái chào:
- Tướng công cho đòi tôi có việc gì?
Nguyễn Kim gắt:
- Tôi tin ông nên hỏng cả việc.
Nhất tái người, nhưng vẫn cố giữ cho tinh thần khỏi rối loạn:
- Tướng công trách tôi việc gì đó!
Kim dắt tay bạn lên thềm, buồn rầu nói:
- Ông có thực bụng với tôi không?
Nhất cho rằng sự bí mật của mình đã bị phát giác rồi, nhưng vẫn cứng cỏi đáp:
- Tôi xin thề? không dám ở hai lòng.
Kim thở dài, đem chuyện gia đình ra kể cho bạn nghe rồi tiếp:
- Nếu lập Uông sợ Kiểm không bằng lòng, mà lập Hoàng thì Uông bất mãn. Ông là người đa mưu, có tìm được cách gì giải quyết giúp tôi không?
Dương chấp Nhất bấy giờ mới hết sợ đáp:
- Có khó gì việc ấy. Tướng công sai Kiểm đi đánh Sơn nam, hễ chiếm được thì cho trấn thủ ở đó, còn Uông thì giao cho cai trị Tây Đô. Hai người xa nhau thì khác thôi không hục hặc nhau nữa,
Kim gật đầu:
- Ông bàn rất hợp ý tôi.
Sang thu năm ấy, Nguyễn Kim cho Trịnh Kiểm mang 3000 quân cùng với Cao Minh, Đào Tứ đi đánh Sơn nam, lại cử Trương hoằng Sử làm mưu sĩ. Trịnh Kiểm lĩnh mệnh điểm quân đi. Ông gọi Nguyễn Hoàng và Ninh Chấp đến dặn:
- Nghệ An là nơi hiểm trở các ngươi ra đấy phải cẩn thận, nếu sơ xuất thì cứ theo quân pháp mà chịu tội.
Hoàng vâng lời. Đoạn ông cởi thanh gươm đeo bên mình đưa cho Uông, nói:
- Tây Đô là huyết mạch của ta, mày nên coi việc nước là trọng, chớ có khinh thị mà mang họa.
Uông lạy, rồi đáp:
- Một mình con sợ không đủ tài điều khiển công việc, xin cha cử vợ chồng Vũ công Khanh giúp con.
Kim bằng lòng. Hôm Kim lên đường, Uông làm tiệc tiễn hành. Đang lúc uống rượu vui vẻ Uông bỗng sụt sùi khóc. Nhất ngạc nhiên hỏi:
- Công tử có việc gì mà âu sầu thế?
Uông đáp:
- Trước kia, cha tôi đi đâu cũng mang tôi đi theo. Từ chén nước đến bát cơm, tôi đều trông nom cẩn thận, không dám giao phó cho đầy tớ. Ngày nay, cha tôi tuổi tác mỗi ngày một cao, gân cốt suy nhược, lại phải vất vả ở chốn sa trường, thì sự ăn uống cũng chả được điều hòa như khi dồi dào sức lực. Rau muối sơ sài thế nào xong thôi, nhưng phải tinh khiết, tươm tất mới có thể dùng được. Tôi lo không có ai trông nom việc bếp nước trong lúc vắng tôi, nên buồn rầu mà khóc.
- Công tử chớ ngại, đã có tôi lo liệu giúp.
- Trăm sự xin nhờ bá phụ.
Tan tiệc, Nguyễn Kim vào triều từ biệt vua và các quan. Vua Lê trang Tôn phán hỏi:
- Nguyên Soái định bao giờ thì trở về?
- Tâu bệ hạ, lão thần đi chuyến này, nhất quyết diệt bằng được họ Mạc và chiếm Thăng Long. Nhanh ra thì 5, 7 tháng, không thì 2, 3 năm, còn ngày về chưa thể định trước được.
- Đêm qua trẫm nằm mơ thấy đánh nhau với Mạc đăng Dung bị hắn chém gẫy một cánh tay. Lúc tỉnh giậy, mình mẩy đau ê ẩm, chả biết điềm lành hay dữ?
- Tâu, mộng mị huyền hoặc, tin làm sao được.
- Hay Nguyên soái để sang năm hãy tiến quân.
- Tâu, lão thần đời ăn lộc của nhà Lê; chỉ mong có dịp là xả thân để đền nợ nước, có lẽ nào lại sợ chết mà làm lỡ cả việc quân.
Vua Lê trang Tôn thấy Kim đã nhất quyết không dám cản ngăn, liền bước xuống ngai vàng cùng các quan ra khỏi Hoàng thành tiễn chân.