← Quay lại trang sách

- IV -

Giống một con trâu kéo cày, con tàu với hai sợi dây cáp hai bên mạn cắm sâu trong nước hun hút, nhoai ra nặng nhọc bền bỉ tiến lên, một công việc mà bác Suất bảo là nó kéo lưới trả nợ ơn người. Chú Hùng bảo tàu đang dắt lưới ở rãnh nhưng nhìn chẳng thấy rãnh đâu mà vẫn là biển cả mênh mông. Chỉ một lần thuộc ca chú Hùng bỗng nhiên tàu mắc cạn mới biết trông thế thôi, chứ biển chỗ ấy cũng không sâu lắm. Con tàu không nhúc nhích được. Không thể cứ đỗ một chỗ chờ nước lên. Hôm nay nước ương nghĩa là không lên không xuống. Bác Sĩ bảo nước sinh con. Bố tôi vào buồng lái. Bác Suất nhanh nhẹn xuống buồng máy. Rẹt rẹt rẹt. Tay chuông kêu liên tục. Máy nổ rầm rầm. Chân vịt quạt nước về phía sau cuồn cuộn, cuồn cuộn đục ngầu. Tất cả đứng ngoài boong, nhìn về phía đuôi tàu lo lắng. Bố tôi quát: Thu lưới. Phải kéo lưới lên để giảm sức nặng cho tàu. Tơi lại hồng hộc hồng hộc cuốn cáp. Rồi đẽn dây đõi là thứ dây cáp được quấn lẫn với dây đay. Nước bùn từ dây đõi miết vào cái pu li bắt trên be tàu chảy xuống boong lái bẩn thỉu. Những chiếc lưới đã treo lủng lẳng ở móc cẩu chìa ra chênh chếch phía đuôi tàu. Nắng. Nắng rát mặt, rát vai. Biển mênh mông lóa mắt. Rẹt rẹt. Con tàu chỉ nhè nhẹ rung khi kéo lưới bỗng run lên bần bật. Tiếng máy gầm vang. Ầm ầm. Hộc hộc. Bàn chân đứng trên boong gần như nảy lên. Luồng nước bùn duỗi mạnh, đạp mạnh, thục vào biển xanh. Nhiều lần như vậy. Mọi người nhìn cả về một hướng theo luồng nước đục ngầu một vùng biển. Con tàu lắc mình quẫy đạp. Bố tôi đánh tay lái sang phải. Đánh tay lái sang trái. Tàu đã hơi nhúc nhắc quay đi quay lại cái mũi. Lùi không được. Tiến không được. Cứ ì ra một chỗ. Nó lại lắc. Lắc mạnh. Tiếng máy vẫn ầm ầm. Bỗng nó rùng mình mấy cái rồi nhoài đi. Tiếng vỗ tay reo hò. Tôi cũng vỗ tay. Con tàu lượn nghiêng nửa vòng và trườn đi, rướn đi, bỏ lại phía sau một vùng nước đục ngầu, một vùng nước cực kỳ nguy hiểm, đè lên những con sóng trong xanh đang uyển chuyển xô tới. Không chết gí một chỗ quẫy đạp nữa, nó duyên dáng lướt trên biển xanh. Tôi thở phào. Nét mặt bố vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Bố và chú Hùng lại lúi húi đo đo tính tính trên hải đồ. Hai người đánh dấu chỗ con tàu vừa mắc cạn.

Bố Tích rất thiêng. Vừa nhắc đến đã thấy hiện ra ở cổng chào, cái cổng chào ngăn đôi con đường bê tông dẫn ra cầu cảng, cái cổng chào mà anh thi đua Đỗ Trung Tín cứ có công có việc, ngày lễ lại căng lên đó một tấm khẩu hiệu đỏ tươi. Đó là một người đã có tuổi, gầy nhỏ, tóc hoa râm, cổ lộ hầu, có biệt danh là tay nái thân yêu. Hai tay hai làn nặng, bố Tích đi như chạy.

- Đi đâu mà bây giờ mới về, bố?

- Thì cũng phải đi bát ngát một tí chứ. Thế nào gọi là thủy thủ về bờ. Già cũng vẫn là thủy thủ chứ. Các thủ trưởng cứ yên trí. Xương ninh rồi. Cá nấu rồi. Bún đây. Luộc mực, rửa rau là xong. Cứ yên trí ở tay nái thân yêu này. Còn một tiếng nữa cơ mà.

Tích đã ngoài năm mươi, được cả tàu gọi bằng bố, kể cả thuyền trưởng. Làm việc không chê vào đâu được. Nếu có hội thi cấp dưỡng tàu toàn xí nghiệp, Tích đoạt giải nhất là cái chắc. Khác với phần lớn cấp dưỡng tàu thiên về chém to kho mặn, hoặc chỉ chú ý đến chất lượng cũng như số lượng, bố Tích tay nái thân yêu anh nuôi tàu 414 rất chú trọng đến cách trình bày hoa lá cành cho những món ăn, ví như mực xào bao giờ bố cũng khía những đường chéo nhau trên con mực đã làm sạch rồi mới thái, không thái nhỏ mà thái những miếng hình vuông, khi xào miếng mực cuộn thành những ống tròn, trông thật mê ly. Mỗi khi tàu sắp tách bến, bao giờ trong kho của bố cũng có từng can chíu chương, cả bao hành khô đủ dùng cho hai chuyến biển. Để phòng xa, như bố nói. Cho nên cái món mì tôm bố Tích ăn đứt các thứ phở toàn mì chính là mì chính trên phố. Ngon đến nỗi anh chàng Mai sợ tuột đụt phải són ra thơ: Tôm mì nấu với mì tôm / An vào một bát no luôn dạ dày... Mẻ lưới buổi hừng đông kéo lên, vừa giật đụt xong, bất kể mưa nắng cũng đều thấy bố Tích tay cầm cái rổ đủng đỉnh đi sau lưng anh em đang ngồi nhặt cá, nhòm nhòm ngó ngó, cặp mắt hau háu như quạ nhòm chuồng lợn. Nhiều ít thế nào bố cũng kiếm được khi dăm lạng, nhiều thì cân, hơn cân, đủ các chủng loại: tôm vàng, tôm bộp, tôm he, tôm sắt, tôm tít, bề bề, nhiều khi cả một con tôm hùm kềnh càng nữa. Riêng cái khoản tôm hùm này lúc được nhiều tôm nhỏ bố cũng chẳng tơ màng, bởi lắm khi tranh nhau xảy ra to tiếng, chỉ vì nó là món được nhiều thuyền viên ưa thích. Moi hết ruột, đánh quang dầu vỏ, con tôm hùm khô và rỗng ruột là một thứ trang trí trên tường nhà hấp dẫn, mang nặng đặc trưng nghề nghiệp. Bao nhiêu năm làm cấp dưỡng, bố Tích quen thân với nhiều cửa hàng mậu dịch, cần cái gì bố tay nái thân yêu được hết. Mỡ hiếm thế nhưng khi cần mua toàn mỡ cũng được. Vợ thuyền trưởng đẻ, bố mua chân giò cho thuyền trưởng mang về ninh để vợ ăn cho sẵn sữa cũng được. Không phải xếp hàng. Cứ thấy tay nái thân yêu là cắt thịt ngay. Bố còn bông đùa:

- Các cô ấy trẻ quá chứ không tao cũng tay nái thân yêu rồi.

Cánh thủy thủ trẻ thừa biết bố Tích đánh đĩ mồm. Bố là người chân chỉ hạt bột vào bậc nhất. Tất cả cho vợ con ở quê. Đi biển dài ngày, tiêu chuẩn bia, thuốc lá được cả cây cả két bố đem bán hết. (Bán cho anh em thôi. Đắt ngang giá ngoài, có rẻ cũng chỉ rẻ nửa giá, một giá là cùng). Tàu cập bến Vũng Tàu, anh em lên bờ ăn chơi xả láng, bồ bịch, nhà hàng, bia ôm, karaoke đến khuya, nhiều anh qua đêm, chỉ bố Tích ở nhà cùng với trực ban. Giáp bảo bố:

- Lên bờ đi. Các em Vũng Tàu hay lắm. Ki cóp làm gì. Vua Ngô ba sáu tàn vàng. Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa Chổm uống rượu tì tì. Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô.

Tích bảo:

- Tao già rồi.

Anh em nhâu nhâu:

- Bố cứ đi thử một lần xem nào. Càng già càng dẻo càng dai. Còn khối vị già hơn bố nhiều. Tóc bạc trắng hết, không một sợi đen cũng vẫn chiến đấu tốt. Có mà bố tiếc tiền thì có. Bố đi. Con bao.

Trêu quá đà. Bố cáu:

- Tao mà bằng tuổi chúng mày, chúng mày phải gọi tao bằng cụ. Nói thật với các chú chứ lão này con rơi con vãi cũng kha khá đấy.

Tất cả cười ồ khen bố giỏi võ miệng, nhưng rồi sau đó đứng im phăng phắc há hốc mồm nghe. Nghe bố Tích kể chuyện thời gian còn ở bộ đội, thời gian “bằng tuổi chúng mày bây giờ”. Đập lúa giúp dân. Có một cô bé hay quá. Chúng mày biết gái Thủy Nguyên đập lúa rồi chứ gì. Khăn mỏ quạ bịt kín mặt chỉ để hở hai con mắt, chẳng biết già trẻ xấu tốt ra sao. Đập xong, tất cả ra về, chỉ còn tao và một cô ở lại quét dọn, về sau. Đến khi ra cầu ao, cô ấy cởi khăn ra giũ. Ôi trời! Đẹp quá. Má hồng rực, tóc mai dính bết, mắt bồ câu long lanh. Hai đứa xắn quần lội xuống bậc gạch bên dưới. Cô ấy cúi xuống. Tao cũng cúi xuống nhưng chưa vục nước ngay mà còn nhìn sang cô nàng. Hai bắp chân trắng như cá chép ngâm dưới nước. Cô ấy cũng nhìn lại tao cười, má cứ rực lên rồi lại cúi xuống ao, hai bàn tay khum khum định vốc nước lên mặt. Tao mới đưa tay sang xoa xoa vào mặt nước chỗ khuôn mặt cô ấy. Cô ấy cười tủm tỉm, rồi nắm lấy tay tao, giữ chặt không cho tao khỏa nước nữa. Lại còn đưa một tay sang xoa chỗ ao tao đang soi xuống. Trả miếng đấy. Có đi có lại đấy. Ăn chết rồi! Tao cũng nắm lấy tay cô ấy, giữ tay cô ấy lại, bóp một cái thật mạnh. Cô nàng nhăn nhó há miệng ra chiều đau. Chỉ há miệng chứ không kêu thành tiếng. Chà! Cái nhăn mặt ấy mới chết người.

- Thế rồi làm sao?

Cánh thủy thủ trẻ hồi hộp nín thở. Có anh nuốt nước bọt ừng ực.

- Công nhận bố giỏi phịa.

- Kể tiếp đi bố!

Bố Tích thủng thẳng:

- Rồi dắt nhau vào nhà kho ngay cạnh chứ còn làm sao nữa.

- Bố không sợ à?

- Sợ gì mà sợ. Cài then bên trong. Định bụng có ai đập cửa cũng không mở. Với lại cũng phải liều chứ còn biết làm thế nào.

- Bố nói cứ như thật.

- Công nhận bố tài bịa.

Bố Tích không thèm trả lời những kẻ hoài nghi chủ nghĩa. Bố nói tiếp một điều đầy sức thuyết phục với vẻ thản nhiên nhất trên đời:

- Tao còn vớ được ở đấy một hột thóc.

Tất cả reo hò. Đến nước này thì tất cả đều công nhận chuyện ấy đích thị là thật rồi! Mười phần đúng chín chín phần trăm rồi! Thật một trăm mười một phần trăm rồi! Không phải chuyện bịa nữa. Chẳng thể là chuyện bịa. Ngay các nhà văn nói láo nhà báo nói phét cũng không thể bịa được một chuyện như thế! Tuy vậy nhưng khi hết reo hò cũng có anh nói:

- Làm sao có hột thóc ở đấy được. Con không tin. Lời phản đối yếu ớt, càng chứng tỏ anh ta đã tin xái cổ, chẳng qua chỉ muốn bố khẳng định lại một lần nữa cái chuyện hạt thóc ấy. Nên bố Tích cười:

- Không tin thì thôi. Ừ. Chuyện tao bịa đấy mà. Cánh thanh niên nhìn khuôn mặt khinh bỉ của bố, liếm môi hồi hộp:

- Rồi sao nữa hở bố? Bố đóng quân ở đấy có lâu không?

- Sáng hôm sau đã phải hành quân rồi. Một năm sau mới có dịp quay về.

Bố cứ lửng khửng như vậy. Đúng đến chỗ hồi hộp nhất thì ngưng câu chuyện. Lại phải hỏi:

- Bố có gặp lại cô nàng không?

Bố Tích thủng thẳng:

- Có. Nhưng không phải về đóng quân ở đấy, mà chỉ là đi ngang qua thôi. Tranh thủ cuốc mười cây số, tạt vào gặp lại cô nàng thì cô nàng đã lấy chồng. Cô nàng khóc bảo em bây giờ ván đã đóng thuyền, hạt thóc đã nảy mầm rồi anh ơi!

Cả bọn lại cười, nhìn bậc tiền bối với con mắt kính nể. Hăng lên trước đám hậu sinh há hốc mồm chờ đợi, bố kể tiếp một câu chuyện tình khác. Với một cô gái khác cũng ở Thủy Nguyên trong đợt đóng quân lần thứ hai khi bố bị sốt rét phải nằm lại gần nửa tháng. Cô con gái bà chủ nhà mười bảy tuổi chăm sóc, cơm cháo, giặt giũ, nâng giấc...

- Chúng mày tính thời ấy khó khăn là thế, cơm độn rau má, mà tao muốn ăn củ cải xào, thế là cô nàng chỉ xào củ cải, bao nhiêu lá bỏ lại hết.

Một anh sốt ruột:

- Nhưng đã xơ múi gì chưa?

Bố lắc đầu:

- Người này tính nết đoan trang, mỏng mày hay hạt, tao chỉ ôm mỗi một lần. Rồi cầm tay nhau hứa hẹn thế thôi. Đến khi khỏe rồi thì về đơn vị, mấy tháng sau cô ấy lên thăm, mình đang phải đi tập trung học lớp cải tạo cho anh em xuất thân giai cấp bóc lột, tương lai mờ mịt. Chả ông bố tao trong cải cách bị quy oan là địa chủ. Thằng cha trợ lý chính trị nói với cô ấy là tao phải đi tù hai năm. Cô ấy khóc trở về. Thế mới thương chứ. Bây giờ tao vẫn gặp đấy. Cô ấy lấy chồng ngay Hải Triều này. Một đàn con rồi. Đạp xe qua nhà, cô ấy gọi mình mới biết. Cô ấy bảo: Em vẫn trông thấy anh nhưng hình như anh tránh mặt em hay sao. Có cả chồng ngồi đấy mà nói với các con: Lẽ ra đây mới là bố chúng mày. Các cậu bảo thế có kinh không. Tớ đoán chắc là cô ấy không muốn lấy anh chồng này, nhưng anh chàng cứ lăn vào bám riết. Thế rồi nướng mực khô. Rượu Tây ngày ấy quý lắm cũng đem ra mở. Rồi bảo: Anh uống đi. Mực khô đây. Ngày xưa mực tươi anh không ăn, bây giờ anh ăn mực khô vậy.

Tất cả cười ầm. Mai bảo:

- Bố nhỏ con thế này mà cũng nhiều sức quyến rũ gớm.

- Bố xấu dây tốt củ đấy các cậu ạ.

- Này, con mực tươi của cô ấy khoảng mấy lạng hở bố.

- Cô này bố đã làm ăn gì đâu mà biết mấy lạng. Phải là cô đập lúa chứ.

Thế rồi tranh luận sôi nổi. Người thích cô mực khô. Người chỉ cô đập lúa mới là nhất. Nhưng ai cũng công nhận gái Thủy Nguyên là vô địch.

Bố gật đầu:

- Gái Thủy Nguyên chúng mày đứa nào chưa biết coi như chưa biết gì hết.

Lại Giáp chuyện gì cũng sành điệu:

- Gái Vũng Tàu gọi gái Thủy Nguyên bằng cụ! Nhưng mà bố bịa rồi bố ạ. Làm sao có hột thóc ở đấy được! Con tính đường đi cũng quanh co, vòng vèo lắm chứ.

Anh nuôi Tích không tranh luận. Dường như cực chẳng đã phải cho các chú biết ta từng là người thế nào. Vẫn Giáp:

- Khiếp. Bố mất vệ sinh bỏ mẹ. Vừa đập lúa xong. Mồ hôi mồ kê. Chẳng tắm rửa gì.

Tích cười:

- Bộ đội ngày xưa đánh nhanh rút nhanh, lai vô ảnh khứ vô hình chứ đâu như các cậu bây giờ, thuê phòng rồi toa lét, lắm chuyện.

- Con tin bố. Nhưng chuyện hạt thóc nảy mầm con không tin. Bố có biết điều kiện nảy mầm là như thế nào không?

Bố Tích không trả lời. Cánh trẻ lại cãi nhau, người bảo không được, người bảo được vì nó cũng hội tụ đủ các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm. Người bảo đấy là cô gái nói theo nghĩa bóng chứ không phải nghĩa đen, nghĩa là cô ta đã có mang rồi. Đồ ngu. Ai để hạt thóc ở đấy lâu thế mà cũng nói. Rặm. Ngứa chịu sao nổi. Người khẳng định để ở đấy nửa năm thì nó mọc mầm, lên cây, trổ bông ra hạt thật, hạt mẩy thật ấy chứ. Ớ đấy nhiều chất dinh dưỡng lắm chứ. Chỉ không biết nó bắt rễ vào đâu thôi...

Từ ấy mỗi khi trú gió, nằm ngồi ê ẩm, cánh trẻ lại có anh đem bút giấy đến buồng bố Tích bảo bố:

- Bố vẽ cho con đường đi của hột thóc đến đấy xem nào, con thấy nó cũng ngoắt ngoéo lắm chứ.

Tất nhiên Tích không thể biết được bằng cách nào hột thóc lại nằm ở đấy, nên chẳng thể vẽ được. Còn cánh thanh niên mỗi người vẽ một cách, lúc nó đi từ trên xuống, lúc từ dưới lên, lúc lại đi tạt ngang, rồi đem bản vẽ trình bố Tích, cách nào bố Tích cũng công nhận đúng. Có anh còn vẽ một cây lúa trĩu hạt mọc trên một gò đồi cỏ mọc um tùm mang đến Kính tặng bố Tích một kỷ niệm xưa như chữ đề dưới bức tranh. Bố Tích cười không nhận. Anh ta dán bức tranh lên bảng đen treo ở câu lạc bộ khiến ai đi qua cũng phải dừng lại xem. Lại có anh đang ngồi nhặt cá trên boong, thấy bố Tích cắp rổ vè vè đi quanh kiếm tôm nấu mì liền quăng cho bố một con mực nang to bằng cái quạt nan, bảo bố:

- Mực tươi của bố đây. To khủng khiếp luôn. Mực thế mới là mực. Bố ăn không hết thì cho anh em mỗi người mấy miếng. Đừng cố, bội thực đấy. Ăn tham một mình không được đâu.

Bố Tích chỉ cười, xách con mực vào bếp xào cho cả tàu.

Hôm nay đặt hai cái làn thức ăn vừa mua về, anh nuôi Tích chân năm tay mười và đúng như Tích nói: Xong ngay. Vẫn còn đủ thời gian lên căng tin tay nái thân yêu chai rượu mùi dù khi đi chợ về, trong chiếc làn Tích xách đã có một can cuốc lủi.

Cabin buồng lái được dùng làm nơi tiếp khách ăn trưa. (Ớ dưới phòng ăn nhếch nhác quá, vừa gần hầm cá, lại người ra người vào). Đó là một khoảng không gian mà chiều dài vừa bằng chiều ngang của thân tàu, trừ đi hai hành lang hai bên, chiều rộng chừng hai mét, ở giữa buồng một cái vô lăng to bằng gỗ, bên trái một cái rađa, một cái tay chuông hoen rỉ vì gần như không được sử dụng, còn bên phải là cái tay chuông khác giống hệt tay chuông bên trái cũng bằng đồng thau nhưng sáng bóng lên khiến nó hơi có sắc xanh vì luôn được tay người nắm đến. Một thau men canh chua cá song. Một khay mực ống luộc, một thau men rau sống. Một bát chíu chương. Chanh. Và ớt. (Bố Tích không có thời gian tỉa tót, bày biện các món ăn. Với lại bố biết rằng với các ông trên bờ quanh năm đói, quanh năm thèm, thì cứ làm sao thật chất, thật nhiều là được. Ăn kiểu thủy thủ thô mộc như thế này họ lại thích. Mà đúng thế thật. Chỉ trông cũng đã chảy nước miếng rồi. Chất lừ). Chậu cá song nấu chua, cá nhiều hơn nước, mà nước cũng đặc sệt, những tảng cá song nổi lên, lớp da xám ôm lấy lớp thịt trắng nõn giữa những miếng cà chua đỏ hồng thái lát. Cái khay tráng men tròn vẫn dùng để đựng ấm chén uống nước đầy lùm lùm những con mực luộc hồng hồng, tròn xoe, hai vi chạy dọc hai bên lườn, xòe ra đều đặn rất giống những quả tên lửa xòe cánh trên bệ phóng, phía đuôi múp nhọn, phía đầu bung ra những cái chân và hai cái râu rất dài, dụng cụ săn mồi của chúng khi còn sống. Tất cả nghi ngút khói.

Tàu vẫn sản xuất quanh vùng biển Trà Sơn. Mười mấy mẻ lưới không mẻ nào giống mẻ nào. Trong nhật ký khai thác, chú Hùng chỉ ghi vắn tắt:

- Mắc rạn, đứt xích, phát hiện được.

- Quấn đụt. Tôm không vào.

- Rách lưới.

- Vục bùn. Đứt xích.

- Hai lưới bên phải quấn nhau. Không được gì.

- Lưới bên trái toàn ốc.

- Bị gãy số tám xoay. Mất hai ván hai lưới.

Sản lượng thật bấp bênh. Mẻ năm mươi kí, mẻ bảy mươi kí, mẻ kí rưỡi, mẻ không được kí tôm nào.

Bác Sĩ bảo: Nghề này là người dương gian làm việc âm phủ. Chẳng biết thế nào mà chắc.

Một con chim bói cá không biết từ đâu bay tới gần tàu. Không hiểu sao nó bay đi xa thế. Từ ngày đi biển tôi cứ mong gặp chim hải âu mà không thấy. Thứ chim đặc trưng của biển mà tôi khao khát. Mong chim hải âu lại thấy chim bói cá. Chỉ có một con. Nó chao đi lượn lại gần tàu như thử sức với biển. Trên biển mênh mông không một cánh chim, trừ nó. Nó bay tít xa, hút tầm mắt rồi lại bay lại. Bỗng nhiên nó chắp cánh lao nhanh xuống biển rồi bay lên, mỏ ngậm một cái gì trăng trắng vút qua thân tàu, thẳng hướng về phía tây in hình một vệt cây cối xanh đen. Phía ấy là tổ ấm, là đàn con đang mong. Không biết đây là con chim bố hay con chim mẹ. Quê tôi cũng có nhiều chim bói cá. Không to như con chim này và cũng không bay như con chim ở đây. Chim bói cá quê tôi cứ đỗ im lìm như ngủ lịm trên một cành vối mọc chìa ra ao. Thế rồi từ cành cây nó lao vút xuống nước rồi bay lên, trên mỏ thế nào cũng ngậm một con cả nhỏ. Con chim bói cả ở đây kiẽm ăn vất vả quá. Còn đang suy nghĩ vẩn vơ thì con bói cá lại bay đến gần tàu. Nó đã về tổ, cho con ăn xong rồi sao? Hay một con chim khác. Lần cuối cùng nhìn thấy con chim bói cá là lúc mặt trời đã lặn. Nó ngậm con cá mới bắt được từ biển khơi bay mải miết về phía tây. ơ đó một góc trời mù mịt tối sầm. Bay nhanh chim ơi không lại gặp mưa giữa đường. Tôi nhìn về đằng tây, nơi con chim bói cá bay tới, một cơn mưa đang lập. Chớp càng làm rõ hơn những màn nước đang trút xuống và những đám mây đen hình thù kì dị đầy vẻ hung dữ hăm dọa. Nơi ấy là mưa, là dông, là làng. Không biết quê tôi có mưa không. Mẹ đang nấu cơm đây. Cái Ngàn chắc đang quét sân. Tự nhiên tôi nhớ nó quá. Tôi nhớ cả con lợn giờ này chắc đang hộc lên đòi ăn. Mẹ lúc nào cũng vất vả. Tôi thương mẹ và yêu mẹ vô cùng. Còn mẹ lại thương chúng tôi. Và mẹ thương bố lặn lội sông nước biển cả vì ba mẹ con tôi. Giống con chim bói cá ngậm con cá nhỏ vừa bay từ biển vào bờ.

- Nào. Xin mời ở như các cụ.

Anh chàng Đỗ Trung Tín thi đua dường như không thể chờ đợi lâu hơn được nữa. Anh ta rót rượu và cầm lấy đũa.

- Ăn đi. Các bác ăn đi.

Cương và Bôn cùng giục. Ngồi quanh mâm hôm ấy chỉ có bốn khách và hai chủ. Khách gồm trưởng phòng khai thác, phó tiến sĩ Trần Văn Dưỡng, trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Minh Thưởng, trưởng phòng điều độ Phạm Đức và anh thi đua Đỗ Trung Tín. Chủ là Bôn và Cương.

- Nâng cốc chúc thuyền trưởng, đại phó.

Tất cả đều cạn chén. Tín múc một bát nước canh chua, thứ nước cánh trên bờ vẫn bảo nhau bổ hơn bất cứ một thứ nước sâm nào, làm một hơi, chép chép mồm:

- Món này được lắm các vị ạ. Tỉnh người.

Rồi múc tiếp bát thứ hai. Đó là kinh nghiệm của Tín. Uống nhiều canh chua. Rồi hãy uống rượu. Sẽ uống được nhiều rượu hơn.

Mỗi người khách múc vào bát mình một muôi nước canh chua và xắn một miếng cá song phần nạc nhất, thịt trắng như lườn gà. Thuyền trưởng gắp một miếng đầu cá song bổ tư, được chặt rất khéo bằng những nhát dao điêu luyện của Tích:

- Bọn tôi đi biển ăn nhiều cá nên chỉ thích mút mát cái đầu. Ăn đầu ăn được nhiều. Ăn thịt nó xác, chóng chán, cố lắm cũng không nổi nửa khúc.

Câu chuyện xuất khẩu cá đá vẫn là đề tài trong lúc ăn. Ai cũng thấy đó là một hướng đi tuyệt vời. Tuy nhiên trưởng phòng kỹ thuật Nguyễn Minh Thưởng vẫn dè dặt:

- Không đơn giản đâu. Trên lý thuyết, trên tính toán thôi. Còn nhiều khó khăn lắm.

Dưỡng cũng thấy như vậy. Đó chỉ là một thử nghiệm, hơn thế, anh còn biết những gì ẩn đằng sau chủ trương ấy của tổng giám đốc. Nhưng anh im lặng. Mấy năm gần đây anh đã tập được thói quen im lặng như Mơ dặn anh. Thưởng là người anh tin. Đức thì không. Tín lại càng không. Im lặng là vàng. Im lặng sẽ tạo điều kiện cho anh thay đổi chỗ đứng, nghĩa là thay đổi cuộc sống hiện nay.

Thi đua Tín đúng là người động viên thi đua:

- Khối tàu 600 (mã lực) mà đi nước ngoài thì dễ đến non nửa thuyền viên được đi nước ngoài còn gì nữa. Quyền huynh thế huỵch. Mấy ông anh ngồi đây toàn trưởng phòng thế nào chẳng được đi.

Đức bảo:

- Ông là người trước tiên phải đi. Tôi nói phải đi chứ không nói được đi đâu nhé. Ông phải đi để động viên thi đua, động viên phong trào.

Dưỡng định nói bên ấy không có thi đua đâu, nói đùa vui thôi vì ai chẳng biết như vậy, nhưng anh đã kìm lại được. Tín cười:

- Thì các ông anh quyền huynh thế huỵch giúp đỡ thằng em...

Cương ngồi ngoài, giáp với cửa ra vào, đứng lên ngồi xuống. Anh vẫn không quên nhiệm vụ trực ban, luôn phải đảo ra phía sau, nhìn xuống miệng hầm cá lúc này khá đông người. Trưa rồi. Đã đến giờ cao điểm của công việc xin cá, của những đội phượng hoàng bay, nghĩa là dân ở địa bàn quanh xí nghiệp, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con người lớn. Tiếng đồng chí bảo vệ quát:

- Lui. Ai không có nhiệm vụ lên bờ.

- Cương ơi. Ra xem tí đi.

Cương chạy ra lan can. Quanh miệng hầm là mấy cô công nhân phân xưởng lưới và rất đông dân Cầu Đỏ. Anh tụt xuống chiếc thang dốc đứng được hàn liền vào thành cabin, bước tới miệng hầm, nói với mấy chị công nhân quen:

- Thôi. Các chị ơi. Để khi khác. Bốc cá xong đã. Tàu có dành riêng một ít bồi dưỡng chị em phân xưởng.

Anh nói như van nài. Bởi anh rất hiểu cuộc sống khó khăn của chị em. Rồi anh cao giọng:

- Tất cả mọi người ai không có nhiệm vụ lên hết!

Không ai nhúc nhích. Cương cũng biết trước tác dụng của những câu nói như vậy. Nói để mà nói. Và khi có ai nhặt dăm con nục hay hai con bạc má hoặc vài con phèn, con sơn mỡ chỉ vàng cho vào thùng đồ nghề cờ lê mỏ lết hoặc gói vào giấy báo, vào ni lông, vào nắm giẻ lau đầy dầu mỡ cầm trong tay, anh cũng làm như không biết. Chẳng riêng anh. Cả đồng chí bảo vệ cũng làm như không biết. Miễn là người bảo vệ có lương tâm.

Người bảo vệ ca sáng trên tàu 414 là một người có lương tâm.

Trong buồng lái bữa ăn vẫn tiếp tục. Trưởng phòng khai thác Trần Văn Dưỡng là người đầu tiên tấn công vào món mực ống luộc. Dưỡng còn được gọi là Trần Văn Bơm - phụ danh của thằng con trai anh. Trong thời gian chiến tranh bắn phá, anh về thăm vợ ở nơi sơ tán và không thể nào gần vợ được vì ông bà chủ nhà vợ anh ở thuộc loại phong kiến đặc sệt, hai vợ chồng đành phải rủ nhau ra ngoài trạm bơm với danh nghĩa chúng con đi chơi mát một tí, trong này nóng quả và yêu nhau ở đấy. Kết quả cuộc làm tình vụng trộm chớp nhoáng bên những ống bơm nước bằng gang uốn cong cắm thẳng xuống bờ sông và nơm nớp sợ dân quân du kích hoặc ai đó bắt gặp đòi làm biên bản, muốn kéo dài nhưng lại phải kết thúc cho nhanh ấy là một đứa con trai. Anh đặt tên con là Trần Văn Sinh nhưng mọi người đều gọi nó và gọi luôn cả anh là Trần Văn Bơm.

Ba ông khách còn lại cũng nhanh không kém. Cầm con mực hồng hồng bốc khói lên. Xé hai cái vi hai bên lườn nó như hai cánh tên lửa đi. Rút những đầu những mắt những râu những chân xòe như một bông hoa đi. Chú ý bọc mực - thứ vũ khí thoát hiểm của nó khi còn sống - đen sì giữa những tua lòng ruột. Rồi rút cái lá mỏng như lá lúa trong suốt dọc sống lưng nó ra. Xương của nó đấy. Mai của nó đấy. (Giống mực ống không như mực nang mai dày và xốp). Cuối cùng là bóc lượt da mỏng hồng hồng nâu nâu của nó. Con mực giờ đây là một cái ống trắng nõn mịn màng, ấm nóng, cứng cứng mềm mềm. Nom thật hấp dẫn, thật mê li. Quệt con mực vào bát chíu chương. Đưa lên miệng cắn. Sựt. Đẫy mồm đẫy miệng. Nước luộc đọng trong bụng mực trào ra. Bỏng cả mồm. Nhai cho cái vị ngòn ngọt thơm thơm dẻo dẻo của miếng mực dập ra nhuyễn ra áp vào hàm, cho vị cay của tương ớt ngấm vào lưỡi, vào chân răng cho ấm lưỡi ấm chân răng. Rồi nhặt ngọn ngổ, ngọn húng đưa lên miệng cho tất cả hòa quyện vào nhau trôi tọt xuống cổ. Xong đâu đấy chiêu một ngụm rượu. Không. Rượu chanh quốc doanh không ngon. Phải là cuốc lủi cơ.

- Trương Xá chính cống đấy các cụ ạ. Rượu này đốt cháy đấy.

Tín nói vẻ thành thạo. Bữa ăn nào dưới tàu Tín cũng có vẻ thành thạo ấy. Thành thạo, tự nhiên và thân mật, như giữa mình và chủ nhân có một mối quan hệ đặc biệt thân thiết, còn những người kia chỉ là khách lạ. Ây cũng bởi Tín biết rõ vị trí của mình trong đám khách. Bao giờ ngồi quanh bữa rượu do thuyền trưởng các tàu vừa cập bến tổ chức như thế này cũng là các trưởng phó phòng, khi phòng này khi phòng khác tạt ngang qua, chỉ có Tín là nhân viên trơn, đã thế lại còn rất ít khi vắng mặt. Tín biết nhiều người đã nói về chuyện ấy, chuyện “không tuần chay nào không có nước mắt” của anh, nhưng anh không thể nào cưỡng lại được khi nghĩ đến những đĩa mực xào, mực luộc, những khay tôm, những chậu men cá nấu chua nghi ngút khói. Và rượu. Nhất là rượu. Rượu trắng đựng trong can. Rượu Vân, rượu Trương Xá chai nọ tới chai kia. Rượu quốc doanh xanh nhạt, hồng tươi trong vắt. Uống vô tư. Uống thả sức. Uống không phải nghĩ chén này là chén thứ mấy. Uống không cần nhìn chỗ còn lại trong chai. Uống không phải nghĩ đến đồng lương bị lẹm vào, đến đồng tiền phải bỏ ra. Cả nhà anh nghiện rượu và anh cũng nghiện. Nghiện từ khi còn đi học. Đã có những buổi anh đấu rượu với cánh dưới tàu. Càng uống nhiều càng được vỗ tay hoan hô tán thưởng... Để bù lại những ngày nhịn thèm nhịn nhạt, ra quán nước ngã ba một nghìn hai chén rượu lờ lờ nhạt thếch chua loét. Cứ chèm chẹp cái mồm mà không dám uống thêm vì đồng lương có hạn.

Bôn nhặt cái đầu râu mực các vị khách bỏ lại trên khay cho vào bát của mình:

- Ăn cái này ngon. Ăn được nhiều. Không chán. Ăn mình mực chẳng mấy chốc mà ngán. Không ăn được nhiều đâu.

Bôn vừa nói vừa cười. Anh cố gạt đi hình ảnh vợ đang cúi cúi tìm cái gì đó, eo thắt lại, mông tẽ đôi ra dưới lượt vải xa tanh. Bôn hỏi mấy vị thực khách: “Được không? Được không?” Và hướng dẫn các ông khách một chỗ ngon nữa của con mực: Cái đuôi của nó. Cái đuôi nhòn nhọn hình đầu tên lửa của nó. “Nó giòn. Ăn không ngán”.

Tín cắn cái đuôi. Giòn thật. Nhưng có cát. Tín thành thật:

- Tôi là cứ ăn mình. Ăn mình cũng ăn được nhiều. Còn lâu mới ngán.

Rồi tay bốc một con mực khác, miệng công bố một nguyên tắc:

- Ăn mực ống luộc dứt khoát phải năm binh mới ngon các thủ trưởng ạ.

Đó cũng là một chân lý đã được thừa nhận lâu rồi. Tất cả đều lấy tay mà bốc, mà bóc mà chấm chíu chương rồi đưa lên miệng. Chẳng mấy chốc mười đầu ngón tay đen sì, môi đen mép đen, hai hàm răng cũng đen. Lắm khi má cũng đen. Nước đen nóng hổi chảy xuống đến tận khuỷu rỏ giọt làm ố cả tay áo sơ mi. Đó là những bọng mực bị vỡ, đọng trong bụng con mực.

Tín lại làm ra vẻ thạo:

- Ăn mực phải có tí bọng mực đen đen vỡ ra mới ngon mới ngọt. Mực làm kỹ, trắng phau, ăn nhạt thếch.

Cái vẻ quá thân mật, thành thạo của Tín làm Dưỡng nhăn mặt. Anh cố giấu vẻ khó chịu, quay sang hỏi Bôn về tình hình khai thác, và thông báo cho Bôn biết năng suất của các tàu đang đánh cá ở các khu ô khác nhau. Ngồi ăn với Tín là một điều anh không muốn. Nói thẳng ra, anh luôn coi khinh anh cán bộ thi đua xuất thân từ một anh giã giò này. Anh luôn ý thức được sự khác nhau giữa anh và Tín. Một bên là phó tiến sĩ tốt nghiệp loại ưu ở Liên Xô, đã có những bài in trong sách giáo khoa ở trường đại học với một bên là một người viết cái tin trên bảng đen chưa xong, sự khác nhau giữa một trưởng phòng khai thác hàng hải và một anh nhân viên có cũng được, không có cũng xong, làm toàn những việc vô bổ, giữa một người nói năng bỗ bã nhưng được coi là thành phần cơ bản, hơn nữa còn là đảng viên, với một phó giáo sư phó tiến sĩ xuất thân quan lại (ông nội anh là tri phủ) ngoài bốn mươi vẫn còn bạch vệ. Cái áo len dài tay quý thì quý thật nhưng anh bật cười khi thấy Tín mặc nó trên người lại nói thêm về người đan ra nó với một giọng đầy vẻ tự hào:

- Cái áo này do một bà cỡ trưởng phòng sở đan cho đây.

Không. Phải nghe chính Tín nói câu ấy cơ. Chữ cd và chữ sở được nhấn mạnh, được kéo dài với cái cằm dưới đưa ra, nghe như cddd, sssở.

Trước đây Dưỡng không có một ý niệm gì về Tín. Anh bắt đầu làm cái việc so sánh giữa hai người khi Tín phản đối việc kết nạp anh vào Đảng. Tín là đảng viên sinh hoạt trong chi bộ khối cơ quan. Là đối tượng phát triển Đảng, Dưỡng đã được đưa ra lấy ý kiến biểu quyết trong chi bộ để kết nạp, nhưng cái câu phát biểu của anh về kế hoạch năm, về sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ trong lúc trà dư tửu hậu đã làm hỏng tất cả:

- Một vạn tấn cá năm là không thể đạt được. Tôi lấy đầu ra cược với bất kỳ ai kể cả bộ trưởng. Giám đốc cứ bảo sản lượng cá Vịnh Bắc Bộ là một triệu tấn. Có be bờ tát cạn bắt từ con cá ót liệt bắt đi thì may ra được!

Mơ cho anh biết chính Tín là người nêu ra câu nói của anh trong hội nghị chi bộ, một phiếu phản đối của Tín đã khiến anh phải kéo dài thời gian thử thách, để đến đợt sau.

Đã mấy lần có sự thuyên chuyển đề bạt trong hàng ngũ giám đốc, phó giám đốc, nhưng cấp trên không nghĩ đến anh. Chính anh cũng không nghĩ đến anh. Bởi một lẽ giản đơn: Anh chưa phải đảng viên. Anh đã hiểu được sai lầm của mình. Anh hiểu cái tác hại ghê gớm của việc nói sự thật cũng như hiểu sức mạnh của một đảng viên như Tín. Và anh thực hiện triệt để nguyên tắc “Im lặng là vàng”. Càng thi hành triệt để hơn khi anh thấy tất cả bạn bè, cả những em út của anh đều đã là những vụ vị, những tổng giám đốc, bét nhất cũng là chủ nhiệm, không ai còn là một trưởng phòng quèn như anh, nghèo như anh. Anh im lặng trước tất cả, lại càng im lặng trước Tín. Anh thận trọng với tất cả. Với Tín lại càng cẩn trọng. Nhất là đang trong thời gian thử thách thêm.

Sau một thôi một hồi giáp chiến, hăng hái, nhiệt tình và đã cảm thấy lưng lửng dạ dày cũng như đầy ắp chất bổ trong người, không ai bảo ai, tốc độ cùng chững lại. Bây giờ mới là lúc vừa ăn vừa bày ra những trò vui cho ngon miệng. Trưởng phòng điều độ Đức, chọn một con mực, cẩn thận rút râu, xé vây, bóc da, nhòm vào bên trong con mực một lần nữa rồi đưa mời Tín:

- Mời trưởng ban thi đua. Con này ngon lắm.

Cảnh giác, Tín cũng nhìn phía trong con mực trắng nõn:

- Cái gì thế này?

Anh nói và bóp mạnh con mực, một thỏi mềm mềm, trắng ngà trào ra. Anh nặn cho nó ra hết. Đức cười:

- Cái này tốt lắm, sao không ăn. Tinh trùng mực đấy bố ạ.

Ăn chứ. Nhưng chỉ ăn mực, không ăn tinh trùng mực. Và vẫn uống. Mực ngon như thế bổ như thế làm sao không ăn. Rượu ngon như thế nhiều như thế làm sao không uống. Vừa uống rượu vừa uống nước canh chua cá song. Rượu nóng và cay trôi qua họng khiến thèm một chút nước chua chua ngòn ngọt. Nước canh vừa chua vừa ngọt lại làm thèm một chút nóng nóng cay cay. Lại ăn. Ăn cá. Ăn mực. Ăn một bữa cho cả tuần, cho cả tháng. Tín đã ăn hết con mực Đức đưa. Vừa xong, Đức đã chuẩn bị sẵn sàng và chìa cho Tín một con mực khác, cũng đã rút đầu, bóc da. Vẫn còn đủ tỉnh táo, Tín lại nặn, lại bóp con mực. Từ bên trong con mực lại trào ra một thứ đằng đặc vàng vàng như lòng đỏ trứng, quanh quánh chứ không nhũn như lần trước. Đó là trứng mực.

- Cái này ngon lắm sao không ăn. Bổ âm. Bổ dương. Món kia khỏe lắm đấy. Ăn xong về Thủy Nguyên cho bà ấy biết thế nào là sức mạnh.

- Thôi để phần ông. Ăn cái này đẻ con trai đấy. Nhà ông ba vịt giời, ông ăn đi. Nhà tôi hai thằng mũ gậy rồi.

Chỉ là những câu đùa vui nhưng không khí đã có vẻ hơi căng. Bôn hiểu những gì ẩn sau câu nói của hai vị thực khách. Bôn biết, mấy vị khách ngồi đây không thích Tín, nhưng anh hiểu tầm quan trọng của Tín, cũng như tầm quan trọng của bất kỳ người nào thuộc khối phòng ban. Đừng để một ai ác cảm với tàu mình, trong hoàn cảnh sản xuất gặp rất nhiều trục trặc khó khăn này.

Bôn đỡ con mực trong tay Tín, đưa lên miệng nhai rất ngon lành. Tín lại múc một muôi nước canh chua, cái thứ nước ngon hơn bất cứ một thứ nước dùng phở nguyên chất nào, thứ nước có thể làm cho người ốm sắp chết tỉnh lại. Anh uống cạn một chén rượu, chiêu một bát nước canh. Và tự chọn cho mình một con mực khác. Cũng rút đầu, lột da, xé vây và nhòm vào bên trong con mực. Rồi đưa lên miệng cắn. Ngon. Bình thường như những miếng mực khác. Nhưng đến miếng thứ hai thì cắn mãi mới đứt. Sao thế nhỉ. Con mực này có xương à?

Nhai. Ráp rô cả miệng. Nhè ra lòng bàn tay: Bên trong khoanh mực anh cắn là một khúc cá phèn với cả đầu, cả xương và vảy cứng, kết quả của cơn hoảng loạn khi chúng sa đụt lưới.

Tín bước ra cửa cabin, vất cái thứ ở lòng bàn tay xuống sông và trông thấy Cương đang đứng cạnh miệng hầm.

- Đại phó. Vào đây làm với anh em tôi một chén.

Rồi trở vào rót từ can ra một chén rượu đầy. Nâng chén rượu đầy tràn lên ngang mày, chân bước những bước chậm chạp, hơi chéo bên nọ chéo bên kia như trong những buổi tế tửu ở sân đình, Tín đi ra phía cửa buồng lái, nơi anh vừa từ đấy đi vào và cất tiếng gọi Cương. Từ miệng hầm cá, thấy vậy, Cương leo thoăn thoắt lên boong và bước tới đỡ chén rượu trong tay Tín. Anh thò đầu vào:

- Mời các anh. Em xin phép còn phải trực ban ở ngoài này.

- Em ăn rồi. Tranh thủ lùa bát bún với chúng nó ở dưới kia rồi. Đã có thuyền trưởng tiếp các anh. Em xin phép.

Cương cạn chén rượu và đưa trả chén cho Tín. Suốt lúc Cương đưa chén rượu lên miệng và từ từ uống cạn, Tín cứ đứng ngây ra nhìn Cương uống từng hơi, cổ họng Tín đưa lên đưa xuống nhịp nhàng theo từng ngụm rượu Cương nuốt như rượu đang chảy qua họng Tín. Và khi Cương kết thúc chén rượu bằng một tiếng khà, Tín cũng khà một tiếng rõ dài.

... Tất cả đã say. Trừ Bôn. Đức nhìn Bôn rồi lại nhìn Dưỡng:

- Ăn thế này mà không gặp nhau ở máy bơm thì gay đấy ông Dưỡng ạ.

Dưỡng gật gù:

- Một mình mình còn đỡ. Hắn mà cũng được ăn thế này mới gay. Cam đoan hắn không cho mình dẫn ra đến trạm bơm ven đê. Mà cũng chẳng có thằng Bơm. Chỉ có thằng Sân thôi. Trần Văn Sân. Ớ ngay sân. Chẳng thể bước quá sân nhà chủ.

Bôn cười nghĩ đến cái khao khát của mình được gần vợ. Anh nhớ tới kết luận có tính chất khoa học của anh em dưới tàu về cái thói ấy của những chàng nhải biển: Ăn uống toàn những thứ chất lừ thế này thì phải vậy chứ. Cứ xem các bố dân chài, có bố nào ít con không?

Đức chép chép miệng “ngon” và ghé vào tai Tín:

- Chủ tịch hội đồng thi đua ăn có ngon không?

- Đừng có cho thằng này đi tàu bay giấy. Chủ tịch hội đồng thi đua là giám đốc. Ử... ử...

- Thế thường trực hội đồng thi đua ăn có ngon không?

- Thường trực hội đồng thi đua là chủ tịch công đoàn. Ử Ử Tôi chỉ là thằng thi đua chuyên trách. U ử...

Những tiếng ử ử gầm gừ trong họng vọng ra khi Tín mím chặt môi nghĩa là Tín đã say lắm rồi. Dưỡng, Đức, Thưởng cùng phá lên cười. Dưỡng nói thêm:

- Tưởng là thường trực hội đồng thi đua, hóa ra chỉ là thi đua chuyên trách thôi à?

Chắc chắn Dưỡng say, nên anh đã không “im lặng là vàng được”. Nhưng vừa nói xong, lập tức anh tỉnh rượu. Trí óc trở lại mẫn tiệp và hiểu ngay rằng mình vừa phạm sai lầm. Một sai lầm nguy hiểm có thể biến tất cả những cố gắng im lặng trước đây thành công dã tràng. Anh vội cầm can rượu rót cho Tín một chén đầy. Một trăm phần trăm. Phải là một trăm phần trăm phiếu ủng hộ. Anh nghĩ vậy và chạm cốc với mọi người:

- Một trăm phần trăm!

Đức vẫn tiếp tục câu chuyện với Tín:

- Nhưng mà tôi hỏi thi đua chuyên trách ăn có ngon không?

- Ử ử... ngon.

- Có ngon hơn giò không?

- Ử ử ngon hơn giò.

- Giò bộ đội cơ mà.

Tất cả cười. Dưỡng cũng cười nhưng đã kịp mím chặt môi lại. Tín trừng mắt:

- Tức là giò Tìu chứ gì?

- Đúng rồi! Giò Tìu!

- Giò thằng này giã chứ gì. Ngon hơn làm sao được. Giò Tìu nổi tiếng cả Bộ Tư lệnh. Tư lệnh xuống thăm đơn vị nào là trưởng phòng hậu cần cử thằng này ử ử đi trước. Ử ử xuống trước. Cho nên cứ thấy giò Tìu xuống ử ử hôm trước là y như rằng hôm sau tư lệnh xuống thăm đơn vị. Mình xuống nhưng không được ử ử ló mặt ra để tư lệnh thấy. Tư lệnh nhìn thấy là cắt suất, là kỷ luật ử ử là đi chiến trường đấy bố ạ.

Tín cười bè nhè. Khi say, việc quan trọng cũng biến thành bình thường. Khi say Tín đã nói toạc ra tất cả những điều ai cũng biết mà Tín vẫn còn giấu dầu cũng ngờ ngợ có lẽ mọi người đều biết cả rồi.

- Giò Tìu chính là thằng này. Tìu là tên bố mẹ đặt cho. Chẳng có gì xấu...

Tất cả reo hò trừ Dưỡng. (Anh đã hoàn toàn tỉnh rượu và biết mình phải làm gì). Bây giờ họ đã được nghe chính mồm Tín nói ra điều bí mật ấy. Nhà Tìu ba đời làm nghề mổ lợn. Mổ lợn và làm giò chả. Học xong cấp 2, Tìu đi nghĩa vụ quân sự. Huấn luyện ba tháng. Chuẩn bị đi B. Trước khi đi, đơn vị mổ lợn liên hoan, có cả bộ tư lệnh xuống dự. Tìu trổ tài giã giò. Món giò lụa ngày ấy người ta chỉ nói đến chứ ít khi nhìn thấy, lại càng ít khi được ăn. Mâm cỗ có giò. Một khoanh giò lụa mịn màng, phía ngoài xanh, phía trong phơn phớt hồng, chỉ trông cũng đã xuýt xoa:

- Ớ đâu ra giò thế này?

Tư lệnh hỏi. Tham mưu hỏi. Chủ nhiệm hậu cần hỏi. Sau bữa ăn chủ nhiệm hậu cần trực tiếp gặp Tìu. Và bàn bạc với ban chỉ huy đơn vị. Một quyết định vào giờ chót Tìu không ngờ đến. Chẳng riêng Tìu. Tất cả đều không ngờ. Tìu được điều về bộ tư lệnh. Danh sách đi B năm ấy và những năm sau không có Đỗ Văn Tìu.

Từ ấy, các sĩ quan trong bộ tư lệnh và cả các sĩ quan các quân chủng bạn đóng gần đấy đều được thưởng thức món giò lụa Tìu làm. Trong những buổi liên hoan hoặc hội nghị, người ta hỏi nhau: “Có giò Tìu đấy hở?” Cái tên giò Tìu bắt đầu từ đấy. Giã giò, liên tục giã giò, Tìu đã được kết nạp Đảng và đeo tới quân hàm chuẩn úy. Chuẩn úy giã giò là kịch cỡ rồi. Tìu xin chuyển ngành. Trong bộ tư lệnh có nhiều cán bộ quen biết ngoại giao rất rộng. Họ thích món giò Tìu nghĩa là có cảm tình với Tìu. Vài lần đi về xí nghiệp của một đại tá, việc chuyển ngành của Tìu đã được giải quyết. Mặc dù học lớp 7 dở dang, viết một cái văn bản không nên thân, Tìu được Quốc doanh đánh cá Biển Đông nhận về làm thi đua, khi anh cán bộ thi đua cũ, đã tốt nghiệp trung cấp đánh cá nhất định nằng nặc đòi xuống tàu, để được thực hành những kiến thức đã học trong suốt ba năm mài đũng quần trên ghế nhà trường. Trong quyết định chuyển Tìu về quốc doanh đánh cá, Tìu không còn là Tìu nữa. Không phải Đỗ Văn Tìu mà Đỗ Văn Tín. Nhưng trong các văn bản Tìu viết trình giám đốc, Tìu ký tên là Đỗ Trung Tín.

Tín lại xắn một miếng cá song. Tất cả có vẻ uể oải rồi. Mực không ngọt nữa. Cá song thì bã. Rượu thì ơn ớn. Nhưng vẫn cố ăn. Gắp miếng cá vào bát, Tín lờ đờ cặp mắt nhìn mọi người:

- Xin mời ở như các cụ...

Chiều nay trời đẹp. Mặt trời đang lặn, hắt ảnh sảng vào cảnh cửa cabin chếch lên đình màn gió rung bần bật. Cái chỏm bên trên như bị cắt ra bằng một vệt sẫm. Một con thuyền với hai cảnh buồm nhọn hoắt phía xa nằm gọn trong lòng mặt trời to lớn đỏ rực nhưng không chói mắt. Tôi nom rõ mặt trời chìm từng phần xuống biển. Từ chỗ mặt trời đang chìm dần, một vệt vàng lấp lảnh chạy tới thân tàu. Rồi khi mặt trời lặn hẳn, không còn một chút ảnh sảng nào nữa, mặt biển vụt thay đổi hoàn toàn. Không vàng rực lấp lóa nhức mắt mà bốn phía mênh mông mềm mại. Chỉ còn những mảng hồng, da cam và xanh thẫm nhấp nhô.

Trăng sảng. Tàu dắt lưới. Biển tròn, mờ nhạt. Những gợn sóng vàng và nhữnggợn sóng lân tinh xanh. Gió nhẹ. Những hàng đèn lưới vây ảnh sảng khiến một vùng biển và trời sảng rực lên. Biển nuôi người cả ban đêm. Con người lao động cả ngày đêm. Như thầy Tuyền dạy: Mọi thứ trên đời đều do lao động. Không chỉ của cải vật chất mà cả tư duy, trí tuệ. Tôi yêu quý và kính trọng bố, bảc Suất, chú Hùng lùn, chú Hồng, bảc Sĩ. Tôi yêu quý và kính trọng những người đảnh cả đang đảnh lưới đèn trên vùng biển sảng như một đám chảy. Nằm trên boong thượng với bảc Sĩ nghe bảc kể chuyện. Ngoài bố tôi ra, người trên tàu thân nhất với tôi là bảc Sĩ. Bảc đã về nhà tôi nhiều lần. Bảc thân với bố tôi. Bảc gọi tôi là thằng Ba Đùi. Mới đầu tôi không hiểu ra sao, nhưng rồi tôi đỏ mặt. Bảc Sĩ nói cứ thản nhiên như không, như đó là một cái tên chính hiệu chẳng bao hàm một ý nghĩa nào khảc. Bảc Sĩ sinh ra trên biển, lớn lên bên biển. Không như bố tôi, sinh ra ở một làng vùng Yên Thế, có những con sông mảng và những đồi dẻ um tùm. Khi còn bé đã một lần bảc Sĩ được đi biển với bố. Biển mịt mù với những kẹp câu, với nghề giã tôm, những “dậu”, những con sứa bơi dưới nước trong suốt như thủy tinh hả cái miệng rộng ra hớp nước, kéo theo từng bát tép biển đỏ tươi vào miệng. (Kể đến đây, bác cũng ngửa mặt lên, tròn mồm hớp hớp trông rất buổn cười). Chiều chiều bác lang thang trên bãi biển săn đuổi những con dã tràng với lũ trẻ con cùng xóm và đón bố trở về. Trong những đêm nằm gối đầu lên tay bố, bác đã được nghe bố kể chuyện vùng biển quê bác. Vùng biển ấy xa lắm. Xa không nhìn thấy đất liền. Vùng biển ấy sôi sục đỏ máu. Cá xà và cá Ong Voi đánh nhau. Cá Ồng đi như một ông vua, quan quân đằng trước đằng sau uy nghi bệ vệ. Đằng trước cá Ồng là những con “cá nạng’ chỉ biết tiến chứ không bao giờ biết quay trở lại. Đó là những võ quan. Những lưỡi kiếm sắc như dao của các võ quan này xòe ra giống như cái nạng, khi bơi nó cắt đứt dây neo thuyền cũng không quay lại. Cứ lừng lững thẳng một lèo dắt thuyền đi mãi đi mãi. Rồi đến những con cá heo tinh khôn đạp nước nhào lộn để cá Ồng vui, những con mực to bằng cái nón đi thành hàng hai bên, bơm mực làm nước biển đen ngòm đánh lạc hướng cá xà. Tôm cua, bạch tuộc, cá khế, cá song... lội tung tăng phía trước phía sau. Cá Ồng hiền lắm. Cá Ồng đội thuyền đưa người bị nạn vào bờ. Còn cá xà thì khác. Nó có thể cắn ẳứt ẳôi những con mập hung dữ nhất. Bác Sĩ bảo chính bố bác trông thấy trận ẳánh nhau ròng rã tám ngày tám ẳêm giữa cá Ồng và cá xà. Cả một vùng biển không có gió mà sôi sục. Thuyền bè không ra khơi được. Cá xà đánh nhau với cá kiếm cá nạng cá Ồng mấy ngày ẳêm rồi. Máu đỏ loang cả một vùng biển. Nếu đôi bên cứ đánh nhau mãi thì cá Ồng chết mất. Một người thợ rèn lấy sắt đánh tám cái lưỡi câu, giết thịt một con lợn tám mươi cân, đóng một cái bè tám mươi cây tre lớn, móc con lợn vào lưỡi câu và cột vào bè, lựa nước, lựa gió thả xuôi bè vào vùng biển chiến trường. Tất cả đứng nhìn theo cái bè nhỏ xíu ở phía xa, trên bè có cắm một lá cờ đại vuông gió bay phần phật. Bỗng dưng bè chìm nghỉm. Lá cờ đại chìm nghỉm. Cá xà cắn câu rồi!Mặt biển trở lại yên tĩnh và xanh lại dần dần. Đến chiều, một cột nước vút thẳng lên trời và tỏa xuống thành một cái cầu vồng. Cột nước của cá Ông báo hiệu thanh bình đã trở lại. Cá heo lại nhào lộn. Cá nạng lại vác kiếm đi tiên phong, cá song, bạch tuộc, cua bể, tôm hùm lại nhảy múa chung quanh cá Ông hiền lành đường bệ. Con cá dữ, con cá ác đã bị giết. Nhưng nó chết ở đâu? Hai ngày sau cái bè tre nổi lên ở chỗ cũ. “Mày ạ. Con cá to nào cũng quay về chết ở nơi nó đã ra đi. Nó về chết ở nhà của nó”.

Nằm trên boong thượng con tàu đang dắt lưới quành đi quành lại, quầng sáng lưới đèn khi gần khi xa, khi ở bên phải khi ở bên trái, bác Sĩ đã kể cho tôi câu chuyện cổ tích thật hay về biển. Biết là chuyện không có thật mà sao cũng cứ mê đi. Cũng hay như thế, bác giảng cho tôi nghe về các loài cá. Chỉ nghe tên cá thôi đã rối tinh lên rồi. Cái con cá bé tí như con cá ngạnh có dọc xanh ở thân ấy là con cá ngác. Mày phải cận thận đừng để gai nó cắm vào chân. Không chết người nhưng thối thịt ra đấy. Nhức chịu không nổi đâu. Con cá lá tre lép kẹp như cái lá tre, có một lượt áo trắng như ni lông ép dẹt chẳng được tích sự gì. Muối chượp làm mắm không xong. Con cá nóc phồng hơi tròn như quả bóng. Rất ít loài cá dám ăn thịt nó. Không phải vì cái gai đâu mà nó rất độc. An vào là chết. Người ăn cũng chết. Thịt trắng như thịt gà nhưng mổ không cẩn thận vỡ gan mật là toi đấy. Nó độc ở cái gan. Rồi bác nói về con cá bã trầu, con cá khế, cá hiên. Chiều nay kéo lưới được hai con cá hiên. Cá hiên trông rất hiền và đẹp. Mình tròn, vảy nhỏ trắng, gần giống cá chim trắng. Đầu nhỏ và miệng rất nhỏ. Chú Hồng vừa nướng một con. Giống cá ít xương và rất nhiều nạc. Thịt thơm và ngon. “Mấy lần kéo lưới được cá hiên, mày có để ý thấy gì không?” Bác hỏi tôi. “Không. Để ý cái gì cơ?” “Không bao giờ đánh được một con. Cá hiên không bao giờ vào lưới một con. Bao giờ cũng một đôi. Cá vợ cá chồng. Giống cá hiên đi đâu cũng có đôi”. Đến lúc ấy tôi mới biết có giống cá đáng yêu như thế. Thật là thủy chung. Sống cùng nhau và chết cùng nhau. Một giống cá đáng để con người học tập.

Chuyến biển cuối cùng trước khi vào sửa chữa định kỳ của tàu VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng cách đây có dễ hơn một năm. Đúng rồi. Mười bốn tháng. Tuần đầu con nước lớn tháng mười một dương. Trú gió liên miên, sản lượng thấp, đá tan, dầu tiêu hao nhiều. Vừa không dám bán cá, lương sản phẩm lại chẳng được là bao, phải nợ tiền xí nghiệp (nói vậy thôi, đó chỉ là tàu nợ xí nghiệp chứ còn khoản tiền cho thuyền viên hàng tháng, thuyền trưởng và quỹ công đoàn tàu bao giờ cũng phải bảo đảm). Trú gió, anh em thuyền viên vui cười quanh ván bài, còn thuyền trưởng Lê Mây thì buồn. Anh lại lẩm bẩm một mình câu tổng kết của anh: “Đái bãi đái xái chuyến buôn”. Lẽ ra anh có thể hoàn thành kế hoạch chuyến biển, bước vào sửa chữa từ chuyến trước. Không phải đi chuyến này để chịu gió mùa suốt chuyến. Sẩy một chút xíu, thế là nó cứ dồn, dồn mãi. Nếu ba chuyến trước, tàu anh được bốc cá ngay thì đã có thể đi sau ba ngày đỗ bến đúng như quy trình giữa hai chuyến biển, như vậy không bị trú gió mất bốn ngày, và chuyến biển ấy sẽ được nhận dầu trước khi kho dầu của xí nghiệp cạn, phải chờ hơn tuần xin bổ sung chỉ tiêu rồi chờ xà lan nhận dầu về bến... Đấy, đại loại là như thế. Mỗi thứ một tí một tí, việc nọ dồn việc kia, chuyến biển bị lùi lại hơn một tháng. Chuyến biển kết thúc trước khi trung tu (kế hoạch trung tu là sáu tháng nhưng bao giờ cũng kéo dài vô hạn định, bởi biết bao nhiêu nguyên nhân không thể lường hết được) trước khi anh em ở bờ dài dài, anh muốn sao cho mỗi người có một khoản tiền kha khá nhưng thế là hỏng rồi. Anh đã uống hết chai rượu Vân thứ hai. Chỉ còn một chai nữa. Anh ngắm nhìn nó rồi mở nút lá chuối rót ra lưng chén làm một tợp, bụng nghĩ: Sắp gay rồi đây. Phải uống dè thôi. Cả đời đi biển mình chưa thấy bao giờ biển động liên miên thế này. Nhìn chân trời đằng đông hừng hừng đỏ đọc như có ngọn lửa cháy hắt lên từ bên kia đường chân trời, biết biển chưa thể êm ngay nhưng anh vẫn dặn Sơn VTĐ (vô tuyến điện): Nghe cả thời tiết bên Trung Quốc xem sao nhé. Chẳng qua không có việc gì, không biết đi đâu thì vào phòng VTĐ nói vậy thôi. Với lại cũng là bấu víu vào một hy vọng mỏng manh: Biết đâu quy luật thời tiết khác rồi.

Mây đi biển từ nhỏ. Cả nhà Mây đi biển. Bố Mây, anh Mây và Mây. Hai anh em theo cha đi câu. Cha dạy hai anh em nghề câu vì đó là nghề khó khăn nhất trong tất cả mọi nghề đi biển khi ấy. Ba cha con cùng câu thuê. Rồi cha một thuyền, mỗi con một thuyền - cũng vẫn của chủ - cứ sáng sáng nhổ neo tách bến. Mây yêu mặt biển buổi sáng nắng tràn, gió về ào ạt. Một vệt sóng vàng lóa mắt như gang chảy trong lò, nhỏ dần ở mãi phía chân trời, càng gần càng to, loang loáng băng băng về phía mũi thuyền. Nó giống một dòng sông vàng rực rỡ giữa mặt biển xanh sẫm gần như tím lại. Vượt qua những vàng lưới dùng, những vàng mành dắt hình bán nguyệt, anh cho thuyền đi mãi đi mãi. Đến Cù lao Chàm vẫn dóng thẳng một lèo cho tới khi “dầm lao”(1), mặt trời đã ngả về phía tây, chiếu xiên khoai rát lưng, anh mới neo thuyền lại, bắt đầu thả câu.

Vùng biển đó sâu trên trăm sải, rất nhiều cá mập. Thả xong vài dàn câu, anh nằm ngủ chờ tới sáng hôm sau thu cá. Cũng có khi trở về tay không, nhưng chỉ là hãn hữu. Còn nhiều ngày, rất nhiều ngày, với một dàn câu, anh vớt được hai, ba con mập. Một lần anh đã câu được một con cá mập dài hơn cả chiếc thuyền câu. Vừa động dây câu, con cá đã nổi lên mặt nước. Con cá mập dính câu đột ngột nhô lên như một chiếc tàu ngầm, làm mặt biển như dềnh lên cách anh vài chục sải, cái lưng màu xám xanh, cong lên ở phía giữa. Hai vi bụng quạt nước sôi sục ào ào. Nó xé nước mà đi, sung sức mềm mại, lúc ngoan ngoãn, khi tức giận làm mặt biển khi êm ả, khi cộn lên trắng xóa. Như một chiếc thủy phi cơ màu xám, nó kéo thuyền anh đi. Hẳn là nó mới dính câu, còn đang tràn trề sức lực, chiếc vi lưng cong cong khổng lồ hình lưỡi hái dựng đứng, in trên nền trời đang ửng hồng mãi lên. Nước chảy trên làn da xám bóng trơn nhẫy của nó ròng ròng. Con cá còn rất khỏe và anh đã phải thả dần số dây giềng dự trữ để trên sạp thuyền. Khi chỉ còn một đoạn ngắn, anh quyết bắt con cá dừng lại ở đó. Con cá chạy quanh thuyền vẽ một vòng tròn trắng xóa, bán kính có tới non trăm sải. Anh quấn một vòng sợi dây giềng vào cọc lái để san sẻ bớt sức nặng vào đó đồng thời vẫn có thể thả thêm dây khi con cá bỗng đột ngột tức giận phóng nhanh, hai chân đạp vào mạn thuyền, ngả hẳn người về phía sau. Bàn tay anh như xé làm hai, chân anh dội lên sống lưng một cảm giác đau nhói xối tới sọ não. Anh vận hết sức lực trong người ghì chặt, giữ chặt đoạn dây mà lúc đó anh coi như tất cả sinh mệnh của mình, quyết không thả thêm cho con cá một li một tấc. Mắt anh lồi ra (khoảng ít phút sau anh sờ lên mắt mình và ngạc nhiên: Nó phồng phồng mềm như mắt nhái). Mặt anh phù đỏ. Nhưng con cá đã không bơi ra phía khơi nữa. Nó đã quay đầu lại. Suốt một ngày hôm ấy, anh đấu trí, đấu sức với con cá. Cho đến khi th?