- IV -
Bà Phương đi cơ sở, hay đi liên đoàn, hay vào nhà trẻ... hoặc đi đâu đó, hoặc khi ngồi bàn làm việc, bao giờ trên bàn cũng có một quyển sổ bà tự đóng, để nguyên cỡ thếp giấy học trò có dòng kẻ. Quyển sổ ấy lúc nào cũng để mở, bà đã kẻ thành biểu với những mục: Số thứ tự, họ và tên, đơn vị với những tiêu đề SKSS (Sức Khỏe Sinh Sản) mà anh em xuyên tạc là Sau Khi Sung Sướng, và KHHGĐ (Kế Hoạch Hóa Gia Đình) được mọi người đọc thành Không Hối Hận Gì Đâu. Trang ghi tên chị em đăng ký hoãn đẻ con thứ hai, trang ghi danh sách nữ công nhân là lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, những tổ viên tổ lao động xã hội chủ nghĩa toàn nữ (do Toàn cung cấp, một năm vài lần nhà thi đua được bà mời sang làm việc về những danh sách này để báo cáo lên cấp trên hoặc chuẩn bị cho các hội nghị công đoàn, nữ công - chính vì vậy mà Toàn luôn có tên trong số ít những người được thưởng mạng lưới của công đoàn, phần thưởng là những cái khay sắt tráng men tròn đựng chén tách, vợ Toàn tích lại được một chồng, đem đựng bún, đựng rau sống những hôm ăn tươi, nhưng cũng có một lần mạng lưới được thưởng mỗi người một cái cặp lồng, vợ Toàn dùng mang cơm đi ăn trưa ở chỗ làm, bỏ được cái ca sắt tráng men ở nhà, trong thời văn hóa cặp lồng thật là giá trị).
Thường thường biểu được điền trên dưới chục dòng gì đó và rất ít khi kết thúc, rất ít khi cộng biểu. Cũng như bao giờ biểu cũng được để mở giữa bàn, khi bà đi vắng có một cái thước to chặn ngang. Nắng nóng lâu ngày, những tờ giấy mở dù có thước chặn vẫn quăn cả lại.
Còn trên bàn Xuân trố chỉ có một chồng báo. Đủ các loại. Hàng ngày. Hàng tuần. Chuyên san chủ nhật. Nhân Dân. Quân Đội. Lao Động. Tiền Phong. Tuần tin tức. Thể thao Văn hóa. Bảo thành phố. Bảo An Ninh. Xuân đi đặt báo và xin cho mình một tiêu chuẩn. Xuân coi đây như một thắng lợi to lớn về mặt chính trị. Được tiêu chuẩn báo riêng đầy đủ như thế có thể đếm trên đầu ngón tay: Tổng giám đốc, các phó tổng, bí thư đảng ủy, chủ tịch, phó chủ tịch công đoàn, chánh văn phòng. Toàn phụ trách thi đua tuyên truyền cũng chỉ được hai tờ báo hàng ngày: Tờ Nhân Dân và tờ báo địa phương.
Chồng báo ấy nâng cao uy tín của Xuân trước anh em đi tàu. Anh em gọi Xuân là trưởng ban tuyên giảo và xin báo về tàu đọc. (Mỗi tàu chỉ được một tờ Nhân Dân thôi. Tờ báo về tới tàu là biến đi đâu mất tăm, có khi chưa ai kịp đọc đã đem đi gói. Mà dưới tàu có nhiều thứ cần gói lắm. Thấp nhất là con cá. Rồi đến bộ quần áo. Loại cao cấp hơn là bánh xà phòng thơm, chiếc xích xe đạp, quả táo tây, thứ quả ở Việt Nam ít người được trông thấy, được sờ vào, thứ quả hình dáng màu sắc hương thơm thật kỳ diệu như quả táo ở thiên đường mà ông Adam và bà Eva nhìn thấy mà cầm lòng chẳng đậu).
Số báo cũ này khiến Xuân được anh em dưới tàu mến, có lợi cho Xuân trong đại hội công đoàn tới nếu Xuân được các sếp coi là cán bộ kế cận, giới thiệu cơ cấu chấp hành. (Xuân rất hiểu tầm quan trọng của cơ cấu và hay lẩm nhẩm một danh ngôn: “Cả đời phấn đấu không bằng cơ cấu một giây”). Đó là chưa kể có báo, anh em không quên Xuân. Tàu về thế nào cũng có tí quà. Có cán bộ tàu thuộc loại chiến hữu của Xuân còn được Xuân cho hàng ki lô báo về gói cá, gói quà nữa cơ mà. Đấy là cả một kho báo cũ của chủ tịch công đoàn mà tình cờ mở tủ tài liệu của đồng chí chủ tịch, Xuân đã phát hiện được. Thì ra đồng chí chủ tịch không đọc một tờ báo nào. Chính tay Xuân đưa báo cho sếp, Xuân biết. Trên cùng là tờ Nhân Dân, rồi tờ Quân Đội, thứ ba là tờ báo địa phương. Ba tờ báo hàng ngày Xuân xếp đúng thứ tự như vậy. Rồi đến những báo định kỳ cũng theo thứ tự: Lao Động, Thể Thao Văn Hóa, Tuần Tin Tức, An Ninh. Té ra cụ không đọc. Cũng không giở ra. Gấp đưa cho cụ thế nào vẫn cứ y xì thế ấy. Đúng thứ tự thế ấy.
Triệt để phát huy thế mạnh của mình là báo, Xuân chịu khó đọc và nhớ (Xuân có trí nhớ tốt) những mục Chuyện lạ đó đây, những con chó Ăng lê được thừa hưởng một gia sản kếch sù hàng chục triệu bảng, những cuộc thi ăn ở Mỹ, những tin tức thời sự về Ceausescu, về Gorbachev, Yeltsin và Liên Xô đang khôi phục chủ nghĩa tư bản. Anh em tàu, những người vốn rất lạc hậu với tình hình chỉ biết há mồm nghe.
Kế hoạch lọt vào hàng ngũ kế cận của Xuân còn một việc nữa: Xuân không quên khối trên bờ. Dăm bữa nửa tháng một lần, Xuân lên sở văn hóa mượn những phim bị tịch thu, bị cấm về chiếu hẹp cho cán bộ chủ chốt đơn vị xem. Ngày ấy những phim xếch nặng xếch nhẹ đều là của lạ, của độc. Và việc được nằm trong số ít người đóng cửa lại xem những phim cấm, tạo cho người ta một cảm giác được tin cậy, một sự hơn người và có cảm tình với Xuân.
Ngoài ra Xuân còn có một quyển sổ dày. Bây giờ người ta toàn dùng sổ lịch, bìa ni lông in ảnh tuyệt vời, Xuân vẫn dùng quyển sổ thời nảo thời nào, bìa các tông cứng dày đã sờn mòn, trong đó Xuân ghi những dòng chữ nhỏ li ti và họa hoằn Xuân giở quyển sổ ra tra cứu rồi lại gấp vội cho vào tủ, khóa kêu canh cách. Không ai biết Xuân ghi những gì. Quyển sổ ấy Xuân giữ kín như đàn bà thấy tháng vậy.
Hôm nay Toàn lại lảng vảng qua văn phòng công đoàn. Liếc nhìn vào, chỉ có một mình Vân. Thế thì phải rẽ vào thôi. Ngồi với Vân còn có cái yên tâm khi các thủ trưởng đi qua, cứ như mình đang trao đổi công việc vậy. Ai chả biết giám đốc là chủ tịch hội đồng thi đua, còn công đoàn là phó. Cùng cánh phong trào ngồi với nhau, trao đổi, xin ý kiến, ai dám bảo mình ngồi chơi, ai dám bảo mình không phải là làm việc! Chưa ngồi ghế vội, hãy đứng xem cái bảng Đi bảo việc về báo công treo trên tường cái đã. Rồi quay lại hỏi Vân:
- Lên Liên đoàn lao động thật đấy à?
Vân biết Toàn nói tới ai và chỉ tay về phía cầu cảng:
- Về rồi. Nhưng xuống tàu ngay. Tàu 19 về hôm qua. Phải xuống để hỏi xem chủ nghĩa tư bản giãy chết như thế nào chứ.
Rồi cười. Lại lắc đầu:
- Sắp về đấy. “Lên Liên đoàn lao động” lâu rồi.
Quả nhiên một lúc sau Xuân trố xuất hiện ở một đầu hành lang. Tay phía trong giáp bờ tường, nơi trổ một dãy cửa sổ của các phòng làm việc lúc nào cũng có những cặp mắt lơ đãng hau háu nhìn ra, cánh tay phía trong ấy vung vẩy hơi mạnh, hơi quá mức bình thường để che đi cánh tay phía ngoài thõng xuống xách cái túi ni lông màu hồng in hoa rất đẹp, vai phía ngoài cũng lệch đi để hạ thấp túi xuống dưới bậu cửa sổ, dưới tầm quan sát của những người đang nhìn ra cửa sổ. Bình thường Xuân trố có dáng đi rất đặc biệt. Nhanh. Tay vung vẩy. Bàn chân sệt sệt đất hơi đá ra phía trước, nghe rõ tiếng dép lê quét đất sệt, sệt, sệt, sệt. Và mắt bao giờ cũng nhìn thẳng. Rất thẳng. Như đang có việc rất gấp. Rất bận.
Lúc này Xuân càng đi nhanh hơn. Tới cửa sổ phòng mình, Xuân liếc nhìn, chuyển cái túi về tay giáp tường, để nó ở vòng cua phía trong kín đáo hơn, lượn qua cửa và đi thẳng tới chiếc tủ đứng của Xuân. Toàn và Vân cúi đầu như đang chăm chú vào chén trà, không để ý gì đến chung quanh. Xuân móc túi quần, lấy chìa khóa xoay hai vòng cách cách, mở tủ vất túi vào, rồi xoay hai vòng cách cách khóa lại và tất bật ra đi không nói một lời. Sệt, sệt, sệt, sệt.
Vân và Toàn rời chén nước trà nhìn thẳng vào mắt nhau. Cười. Khẽ thôi. Nhưng thành tiếng. Vân bảo:
- Thế là biết tư bản giãy chết thế nào rồi đấy.
Ai cũng biết cái túi Xuân xách về là quà của tàu HL19. Ngoài túi quà chung cho từng đơn vị mà cô Phòng cực lực lên án là bình quân chủ nghĩa, còn có những suất quà riêng như vậy. Có thể của tàu. Có thể của một người nào đó quen mình, thông cảm với khó khăn của mình. Cũng có thể là một món bố thí để tống khứ những vị khách không mời mà đến cứ ngồi ám suốt cả buổi trong khi mình còn không biết bao nhiêu hàng phải bồng lên, phải bông hoa nhỏ, phải đối phó với hải quan với công an, phải làm việc với họ... Trong những túi như vậy có thể có bánh xà phòng, lon bia, cái líp, cái xích xe đạp, hoặc lọ dầu xanh. Cũng có khi là món quà đặc biệt giá trị làm mọi người phát thèm: Một đôi giày da cũ. Đôi giày ấy xỏ vào chân đi dọc hành lang, rõ ràng mình đã thay đổi hẳn về chất, trở thành một người sang trọng, lịch sự, có văn hóa, đi đứng rất tự tin, ai cũng phải nhìn: “Giày Hong Kong đấy hở. Đẹp quá nhỉ?”
Xuân đi được một lúc có tiếng gõ của cá sắt xuống nền đá hoa từ xa vọng lại. Tiếng gõ nhanh, nhẹ, trong, dòn, đập vào thính giác nghe hơi ghê ghê. Cốp, cốp, cốp, cốp. Tiếng guốc có cá sắt quen thuộc của bà phụ trách nữ công. Cả hai biết bà đã đi cơ sở về. Xuân trố và bà Phương cùng đi nhanh như nhau, mắt cùng nhìn thẳng về phía trước như nhau nhưng bước chân của Xuân trố sệt đất, còn bà Phương nhấc chân cao nên mới có tiếng cốp cốp đanh giòn như thế.
Hai người bạn ngồi nhìn nhau làm ra vẻ khiếp hãi. Khác với Xuân khi vào cũng như khi ra không nói một lời, vừa đặt chân tới cửa, bà Phương đã nói to:
- Học sinh tiên tiến ba năm liền được thưởng đây!
Tiếng vang lanh lảnh như tiếng rao tào phớ đây! vậy.
Không thấy ai nói gì, bà lại nói to và vẫn trống không như thế:
- Năm nay là năm chín tư nhỉ.
Vẫn im lặng. Toàn lịch sự trả lời:
- Vâng. Năm nay là năm chín tư.
Bà ngồi xuống bàn, nhấc cái thước chặn ngang quyển sổ, lật sang trang, kẻ một cái biểu mới, vừa kẻ vừa nói:
- Niên học 91-92, 92-93, năm nay là niên học 93-94 nhỉ. Đúng rồi.
Tay viết. Miệng méo đi theo từng nét chữ. Rồi lại vừa viết vừa hát khe khẽ: “Trèo lên quản dốc ngồi gốc ơi a cây đa rằng tôi lý ới a cây đa. Rằng tôi lới ới a cây đa. Ai xui ý a tính tang tình rằng cho đôi mình gặp, xem hội cái đêm hôm rằm...” Và buông bút nhìn hai người:
- Này. Tôi mới mua băng dân ca quan họ Bắc Ninh. Nghe thích lắm. Người ơi người ở đừng về này. Tình bằng có cái trống cơm này. Rồi Trèo lên quán dốc. Nghe thích lắm.
Thế nghĩa là trong số những tài sản có giá trị ở nhà bà đã có cái cassette. Không biết một cửa băng hay hai cửa băng nhưng rõ ràng là một tài sản giá trị. Đó là mơ ước của Toàn và của không biết bao nhiêu người. Là thi đua, Toàn đã được sử dụng một cái để phát thêm ca nhạc vào buổi phát thanh và đến khổ vì nó. Hãng Sharp, một cửa băng. Đám cưới nào cũng có người hỏi mượn, mà nội quy là không được cho ai mượn. Toàn chỉ một lần cho Vân mượn dùng trong đám cưới cậu em vợ và một lần liều mang qua cổng bảo vệ về nhà, để vợ con được nhìn thấy sáng chế xinh đẹp gọn gàng kỳ diệu này của người Nhật. Cả nhà quây quần xúm xít quanh cái đài. Đêm ngủ, Toàn để ở đầu giường trong màn, hai vợ chồng nhỏm dậy nhìn những đốm sáng màu đỏ tươi trong như hồng ngọc nhấp nháy. Rồi nghe Thanh Tuyền nho nhỏ nỉ non. Mỗi năm đẽn hè lòng man mác buồn. Chín mươi ngay qua biết bao tình thương. Màu hoa phượng thắm như máu trong tim... Không biết cái cassette của bà Phương nhãn hiệu gì? Bà Phương cắm cúi viết. Im lặng. Miệng chúm lại. Chưa được một dòng đã ngẩng lên hỏi to:
- Con chú Vân năm nay là học sinh tiên tiến à? Tên gì nhỉ? Trịnh Thị Thu Hương à? Lớp 6 hở? Ba năm liền hở?
Rồi vừa ghi vừa lẩm bẩm:
- Ba năm liền. 92. 93. 94.
Lại nói to như người đang phát biểu trong hội nghị, nói với tất cả mà không nói với một ai:
- Xuống cơ sở làm việc xong, tranh thủ ra bưu điện lấy báo cho cậu Mẫn. Con nó ốm. Nó xin phép Vân rồi hở. Nhưng báo Nhân Dân hôm nay chưa về. Báo chí phải được đọc ngay chứ để vài hôm mới đọc một thể còn nói làm gì. Thế nào gọi là tin sốt dẻo.
Bỗng bà hạ giọng như tâm tình một chuyện gì thích thú lắm, không thể để trong lòng:
- Hai ông này. Bưu điện bây giờ diện lắm nhé. Ôi giời ơi. Má phấn môi son hết. Họ có tiêu chuẩn cả đấy. Được may áo dài quần trắng. Được cấp tiền son phấn. Lên bưu điện chính lịch sự lắm. Các cô quần chùng áo dài duyên dáng lắm. Chỉ ở bưu điện chính thôi. Còn bưu điện quận đây chưa đâu. Vẫn bình thường thôi. Tôi bảo ở đây triển khai sau cũng được. Bây giờ đang mùa hè nóng bức. Đường thì bụi. Bụi thế, nóng thế mà phải áo dài, son phấn cũng gay.
Rồi vẫn sôi nổi như vậy:
- Đường bụi nhá. Con đường xuống chỗ mình chỉ còn một khúc thôi mà không sửa nốt nhỉ. Sửa gần xong. Chỉ còn một tí thì hết kinh phí, để đấy. Thật chẳng ra làm sao. Lại định bắt các xí nghiệp đóng góp nữa đây. Lần trước xí nghiệp mình phải đóng góp bao nhiêu Vân nhỉ?
Vân trả lời cho qua chuyện:
- Bốn mươi triệu.
- Xí nghiệp mình bốn mươi triệu. Các xí nghệp khác cũng phải hai ba chục triệu chứ. Nhà nước và nhân dân cùng làm mà chẳng tính toán gì. Bây giờ còn một khúc để gần hai năm nay rồi. Cứ đến đấy là phải xuống xe, dắt lên vỉa hè, chen chúc nhau, toàn bùn với đất. Nắng còn đỡ. Mưa bẩn hết quần áo xe cộ. Hôm nào cũng có tai nạn ô tô. Chỗ ấy như cái ao rồi. Vừa nãy tôi đi qua thấy một cái ô tô chở kính lật ngược. Kính vỡ hết. Phải điều xe cần cẩu đến cẩu. Một xe kính biết bao nhiêu là tiền.
Lúi húi ghi chép đâu được hai, ba dòng trong tờ biểu KHHGĐ Không Hối Hận Gì Đâu, bà lại:
- Chỉ thiệt nhà nước. Tiền đóng góp bốn chục triệu, không biết đầu tư vào công trình bao nhiêu. Hay là vào túi các ông ấy quá nửa. Chỉ chết những người lương thiện như anh em mình. Chỉ chúng mình là nghèo. Lương thiện là chết. Có chức có quyền giàu ngay. Mà người ta bảo không gì kiếm bẫm bằng làm đường đâu các ông ạ!
Toàn chêm vào một ý kiến ngang cành bứa, trêu ngươi:
- Bà này mất tin tưởng ở trên rồi. Chúng ta có cả một đội ngũ đầy tớ đông đảo như thế làm sao mà khổ được. Bà không nghe họ nói trên tivi à? Chúng ta muốn khổ cũng không được.
Bà Phương nhìn Toàn cười, hạ thấp giọng, thân tình hơn:
- Họ ăn kinh lắm. Từ dưới lên trên. Từ trên xuống dưới. Không ai không ăn. Thằng con tôi chơi với con ông chủ tịch quận, hai đứa cùng học lớp 6 với nhau. Thằng con ông chủ tịch mở tủ lục đồ chơi. Thế nào một hộp rơi xuống đất. Toàn nhẫn vàng lăn ra khắp nhà. Hai đứa chui cả vào gầm giường nhặt. Tôi nghĩ đấy chỉ là chỗ lẻ thôi, mới để sơ sài thế chứ...
Toàn đứng lên, cất giọng đanh thép, mắt nhìn về phía xa:
- Chúng ta phải đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ, xây dựng con người mới. Chống mọi biểu hiện tiêu cực, bè phái, tham nhũng, lời nói không đi đôi với việc làm. Cái sợ nhất là chúng ta nói mà không làm. Phải rèn luyện, tu dưỡng vươn lên ngang tầm thời đại. Nhiều vấn đề mới lắm các đồng chí ạ. Như tin học...
Bà Phương cười trước tiên:
- Đúng. Đúng. Công nhận ông này nhớ thật đấy.
Toàn nghiêm mặt:
- Ngày nào cũng nghe trên tivi. Ngày nào cũng đọc trên báo. Không muốn nhớ cũng phải nhớ.
Vân đã định không tham gia vào đề tài muôn thuở ấy nữa, cũng phải phì cười:
- Em nói các bác nghe. Chuyện thật một trăm phần trăm. Một hôm em đi làm về muộn, về nhà đã bảy giờ hơn, đúng chương trình thời sự. Dắt xe đến cửa thấy vợ em đang đứng giữa nhà vái lia vái lịa. Nhà em vốn chăm chỉ hương khói. Người ta thắp hương ngày rằm mồng một. Còn nhà em sáng nào cũng thắp hương. Em nghĩ bụng quái lạ. Sao hôm nay cô ấy lại thắp hương cả buổi tối nhỉ. Có giỗ chạp gì đâu. Mà lại quay lưng về bàn thờ, vái đi đâu ấy. Đến lúc bước vào mới biết thì ra cô ấy đang vái cái tivi. Trên tivi một ông đang nói về nâng cao đạo đức cách mạng. Ông kễnh ấy nhà em biết quá rõ. Khi còn hàn vi, sáng nào cũng một chảo cơm rang. Bây giờ không biết bao nhiêu biệt thự.
Ba người cười ầm. Vân trừng mắt:
- Mà nhà em đứng rất nghiêm, thẳng người, vái rất cung kính.
Toàn bảo:
- Chắc là bà ấy vái thần tài. Mong thần tài phù hộ để lộc chảy vào nhà mình.
Câu chuyện đang có vẻ vào guồng thì Liêu, chủ tịch công đoàn từ phòng bên bước sang. Một người cũng kém tuổi Toàn, vốn là tổ trưởng sản xuất, chiến sĩ thi đua nhiều năm liên tục mà lên. Trình độ, năng lực có hạn, giờ đây nằm trong hàng ngũ lãnh đạo xí nghiệp, cái khổ của Liêu là cuộc họp nào cũng phải nhân danh công đoàn phát biểu ý kiến. Từ phương hướng sản xuất kinh doanh, xét duyệt lao động tiên tiến chiến sĩ thi đua, tổ chức học tập nghị quyết, giải quyết những rắc rối trong khu tập thể,... nói làm sao để vẫn là ý kiến riêng trong khi mình không có ý kiến riêng nào cả, chẳng lẽ cuộc họp nào cũng chỉ một câu: Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của đồng chí tổng giám đốc. Đó là điều băn khoăn trăn trở nhất của Liêu. Điều băn khoăn thứ hai của chủ tịch công đoàn là làm thế nào cho cái bụng to to lên một tí. Liêu vốn gầy, lại cao, bụng lép. Mà cả ban tổng giám đốc ai bụng cũng to, ngay chánh văn phòng cũng vậy. Đứng giữa những người ấy, Liêu trông chẳng có dáng dấp lãnh đạo tí nào. Toàn đã bắt gặp mấy lần chủ tịch công đoàn đứng trước tủ gương, ưỡn người lấy hai tay xoa xoa bụng, ngắm mình trong gương, rõ ràng đang khuyến khích động viên cái bụng to lên.
- Hai ông ngồi uống nước hay đang có việc gì đấy?
Với Liêu cùng cánh phong trào thì không cần giấu và không thể giấu.
- Chúng tôi ngồi chơi thôi.
- Ông Vân sang bên này tôi nhờ một tí.
Hai người đi ra. Toàn định về văn phòng. Bà Phương bảo:
- Ngồi đây đã. Vân nó sắp chuyển rồi. Sắp thoát khỏi đây rồi. Sang chính quyền. Tôi bảo nó từ năm ngoái, từ mấy năm nay rồi cơ. Mày còn trẻ. Còn có điều kiện. Tao già rồi. Năm nay hưu. Sang năm hưu. Vài ba năm nữa hưu. Nhường cho lớp trẻ. Tao chịu. Mày còn sức bật. Ớ đây ăn cám à? Rách lắm. Ai người ta để ý đến mình. Cứ sang chính quyền, sang kinh doanh là khá. Ông Thường đấy. Mới sang liên doanh, cửa hàng một năm. Xây nhà ngay. Sắp xong rồi. Chứ lọ mọ ở xưởng sửa chữa làm gì được. Sáng nào cũng cơm rang mì luộc. Tôi bảo ông Liêu: Vân nó còn trẻ. Cho nó đi. Công tác tư tưởng ông Liêu mãi đấy. Nói chung ai có điều kiện thì cho người ta đi. Cả thằng Mẫn nữa. Tìm chỗ mà đi dần đi.
Bà lại thủ thỉ:
- Như mình về là hai bàn tay trắng. Lương mình tất cả các khoản hơn trăm nghìn. Gạo, rau, chất đốt, tiền điện, tiền nước, bao nhiêu thứ... Tất cả vào ăn không đủ. Lấy đâu ra xe máy. Cứ bảo chống tham nhũng. Trừ những đứa trắng trợn lộ liễu thì bị thôi. Còn làm sao chống được. Nó đã thành dây thành nhợ, thành bè thành đảng có mà giời chống.
Điều ấy đứa bé con cũng biết. Kể cả mấy ông hô hào chống tham nhũng cũng biết. Nhưng Toàn chỉ cười. Không nói gì. Khi bà Phương mở máy, Toàn chỉ nghe chứ không góp chuyện, có chăng chỉ là phản đề như vừa nãy.
Bởi Toàn đã bị với bà Phương một vố. Năm ngoái bà có gặp nhà thi đua bàn việc xin tiền thưởng cho phong trào phụ nữ. Toàn ủng hộ thôi. Vì thi đua là việc của Toàn. Bà Phương làm một tờ trình, xin trích quỹ khen thưởng của tổng giám đốc, thưởng phụ nữ xuất sắc, thưởng phụ nữ tiên tiến, thưởng các tổ, thưởng sinh đẻ có kế hoạch, thưởng mạng lưới (mạng lưới là có cả Toàn đấy). Tổng số tiền thưởng lên đến ba triệu đồng. Toàn đưa trình tổng giám đốc. Bận nhiều việc, tổng giám đốc chưa xem ngay. Hôm sau tổng giám đốc vào văn phòng, ném lên bàn Toàn tờ giấy của bà Phương và quạt Toàn một trận nên thân:
- Ông làm thi đua mà không biết gì cả. Phụ nữ xin tiền thưởng. Thế thanh niên xin ông có cho không? Thanh niên được, công đoàn phải được. Còn Đảng thì làm sao? Quần chúng được, đảng viên không được à? Quỹ nào cho xuể. Sản xuất như thế. Kinh doanh như thế. Thưởng cái gì? Tiền lương còn lo méo mặt đây này.
Lúc ấy ở văn phòng có mặt bà Phương. Bà đang ngồi trước bàn chánh văn phòng Điều, xin Điều duyệt văn phòng phẩm. Bà đứng lên giơ tay chém vào không khí, hưởng ứng chân lý tổng giám đốc vừa nói:
- Đúng! Đúng!
Toàn thấy ơn ớn nơi họng, một cảm giác muốn ói. Khi tổng giám đốc ra, Điều bảo Toàn:
- Đâu. Đưa xem nào?
Điều xem qua tờ trình, cười:
- Nhảm rồi bà Sau Khi Sung Sướng ạ. Bà có hối hận gì không hay Không Hối Hận Gì Đâu?
Bà Phương nhận lại tờ trình cười hì hì:
- Cái ông này chỉ nói bậy thôi. Thì cũng tưởng dễ dàng, xin trích quỹ một ít động viên phong trào. Mình có xin bỏ túi mình đâu mà sợ. Với lại vẫn thấy khách khứa về là ra Đồ Sơn tơi tới thì tưởng xí nghiệp vẫn có nhiều tiền. Tiền động viên thi đua sản xuất chẳng hơn tiền ra Đồ Sơn ăn chơi à?
Điều chán ngán:
- Tôi chán cho bà quá. Tiền ra Đồ Sơn ăn chơi còn đẻ ra tiền, gấp mấy lần chứ không như đồng tiền để các ông bà trao cho hội thi đôi bàn tay vàng đâu.
Rồi lại bảo:
- Mà ai bảo bà chúng tôi ra Đồ Sơn không dự hội thi hai bàn tay vàng? Hát karaoke mà không phải dùng đến hai bàn tay vàng à?
Thực sự cùng cánh hoạt động phong trào, Toàn không ghét gì bà Phương. Toàn chỉ ghê ghê cái dáng đi pắp pắp pắp pắp như máy khâu Mitsubishi (theo so sánh của Vân), cái cách nói nhanh, nói hết những điều mình nghĩ, từ đâu xông đến, bất chấp những người có mặt đang nói chuyện gì, đang làm gì, bà phải xổ ra những ý nghĩ đầy ắp trong đầu, vợi nó đi ngay. Cái hôm Toàn đang cắm cúi ngồi nháp bảng tin, bà bước vào vừa cười thành tiếng vừa hỏi:
- Ông Toàn này. Tôi đố ông biết người già có sợ chết không nào?
Bà cười và cố nén những điều làm bà buồn cười lại. Bà còn chờ Toàn phát biểu đã. Toàn bị cắt ngang dòng suy nghĩ vì lịch sự phải trả lời:
- Có chứ.
Bà cười ngặt nghẹo:
- Hì hì. Già cũng vẫn sợ chết. Về hưu rồi. Bảy mươi tuổi rồi vẫn còn muốn sống. Ông Sanh già xí nghiệp mình về hưu rồi, ốm nặng ở bệnh viện. Tôi với anh Thu bí thư lên thăm. Ông ấy đang nằm. Tôi vào bảo: Anh Sanh này, các anh ấy đến thăm anh đấy. Thế là ông ấy vùng dậy khóc tu tu. Đến buồn cười. Buồn cười chết được. Thế mới buồn cười. Bảy mươi rồi còn sợ chết.
Và nói sau khi chùi nước mắt, vẫn là trong cái nức lên của sự buồn cười:
- Hay là đến lúc ấy mình cũng sợ chết nhỉ.
Đấy. Tính cách bà Phương là như thế. Bà rất được anh em tàu có cảm tình. Thương nữa. Chồng bà cũng là một thủy thủ kỳ cựu, một trong những người có mặt đầu tiên ở xí nghiệp từ khi mới thành lập. Bà cũng vậy. Bà hay nhắc đến những ngày đó. Cái thời đi đến xí nghiệp vui như hội, cái thời làm thêm giờ vì miền Nam ruột thịt chẳng cần nhận thêm lương. Cái thời tập tự vệ bò lăn lê toài dưới nắng, họp thanh niên ca hát thâu đêm. Cái thời tàu vỏ gỗ ra khỏi bờ mấy hải lý thôi, buông mẻ lưới nào cũng trăm con cá hồng, thủy thủ mổ cá kêu như vạc.
Những thuyền trưởng thuyền phó nhiều thâm niên ở xí nghiệp vẫn còn nhớ chuyện chồng bà hy sinh ở Hạ Mai. Hai tàu đỗ liền nhau sát vách núi đá, máy bay Mỹ bắn cháy tàu đỗ bên ngoài. Nước tràn vào, tàu từ từ chìm, kéo nghiêng cả tàu bên trong. Một người vọt từ trong khe núi đá nhảy xuống tàu, dùng rìu chặt phăng dây cáp chằng giữa hai tàu và gục xuống mặt boong. Một tàu chìm, còn một tàu được cứu thoát. Người thủy thủ gan dạ, dũng cảm ấy là chồng bà Phương. Anh không bao giờ trở dậy nữa. Một viên đạn xuyên vỡ toang lồng ngực.
Tất cả gánh nặng cuộc sống đè lên vai bà mấy chục năm rồi. Bà làm hết sức mình nuôi ba đứa con trai, “ba ông hoàng Lào” như cánh thuyền viên vẫn gọi đùa. Làm thêm giờ. Nuôi lợn. Mua cá vét hầm tàu làm mắm, đem bán. Xuống tàu xin cá. Anh em tàu bao giờ cũng dành cho bà những con cá ngon nhất đem về nấu cho ba ông hoàng Lào. Các tàu đi nước ngoài về bến thấy “chị Phương” xuống “thăm tàu” bao giờ cũng có quà: xà bông, dầu xanh, cả áo gió, áo rét cho các cháu. Bà còn dành dụm được vài chỉ vàng gửi mua quạt máy, cassette, tivi... Bây giờ các con bà đều đã tốt nghiệp trung cấp, đi làm.
Là một người hiếu động, nay không có việc làm, bà rất khổ tâm. Cố gắng thuyết phục mãi phân xưởng đông lạnh - một phân xưởng lao động chủ yếu là nữ - mới tổ chức được hội thi hai bàn tay vàng. Lập ban chấm thi. Toàn ở ban thi đua xuống lấy tin tức thông báo kịp thời từng giờ một trên hệ thống truyền thanh. Rồi tổng kết, khen thưởng. Nhưng phong trào chỉ lên được một ngày hôm ấy. Vì nguyên liệu phải dồn mấy ngày mới đủ cho một ngày thao diễn!
Cũng chẳng thể suốt ngày suốt tháng nắm tình hình kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh sản. Cũng chẳng thể suốt ngày lên Liên đoàn lao động.
Thật may, ở xí nghiệp có một việc ai cũng ngại. Đó là những đám ma! Đám ma ở thành phố thì đơn giản thôi. Nhưng đa phần ở những nơi xa: Ninh Bình, Hà Bắc, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh... Nó thường đến bằng những bức điện rất đột ngột. Cái chết của đích thân cán bộ, thuyền viên. Của bố, mẹ, vợ một đồng chí cán bộ tàu hay cán bộ phòng ban. Không thể không đi. Mà phải chuẩn bị xe đi ngay kịp dự tang lễ. Bên cạnh việc chuẩn bị tiền trợ cấp theo quy định của xí nghiệp, chuẩn bị xe, điều khó khăn nhất là ai đi? Hành trình xa, lại phà đò, lại đột xuất, chưa biết đường biết lối. Ai cũng ngại. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, bị động ấy, bà Phương nổi lên như một ngôi sao sáng. Chỉ bà Phương đi. Nằm trong bộ tứ, bà đủ tư cách đủ cương vị thay mặt lãnh đạo xí nghiệp. Và bà đến rất kịp thời, đúng lúc.
Tại nhà đám, bà được tiếp đón, được kính trọng, được quý mến vì xa xôi như thế xí nghiệp cũng vẫn đến chia buồn và dự tang lễ với gia đình. Bà nói nghĩa tử là nghĩa tận, dù bận bịu đến đâu xí nghiệp cũng có nghĩa vụ phải đến viếng (ông, anh, chị hoặc bà) và chia buồn với gia đình. Anh (hay chị ấy) công tác ở xí nghiệp lâu năm có nhiều đóng góp. Một tổn thất lớn cho gia đình và cũng là cho xí nghiệp. Mặc dù đi xa hàng trăm cây số, ê ẩm cả người, ăn cỗ nhà đám nguội tanh nguội ngắt, ruồi bay vù vù, suốt đêm chập chờn trong tiếng kèn đám ma, bà Phương vẫn cứ tươi tỉnh. Bà hiểu rằng mình đã làm được một việc hữu ích. Và bà có một vị trí nhất định trong xí nghiệp.
Khi trở về xí nghiệp, bà tươi tỉnh gấp đôi dù bà mệt gấp đôi. Tổng giám đốc, bí thư đảng ủy, chủ tịch công đoàn, trưởng phòng tổ chức xúm lại quanh bà, hỏi han tình hình đi đường, sức khỏe của bà, tình hình đám xá... Bà báo cáo lại và còn nói cả những nhận xét của mình về gia đình nhà đám:
- Nhà ông Tuyên nghèo lắm. Ông ấy ở đây ăn diện thế. Thuyền trưởng bao năm rồi. Đi Hong Kong mấy chuyến mà nhà chẳng có gì. Nhà tranh vách đất, kém nhất xóm ấy. Thì ra ông ấy gửi về ít lắm. Bây giờ bà ấy chết rồi mấy đứa con mới gay đây.
Đừng nghĩ rằng cái sự đám xá như thế họa hoằn mới có. Không. Xảy ra luôn đấy. Có tháng tới hai ba đám. Nhưng cũng nhiều khi nửa năm chẳng đám nào. Những lúc ấy bà Phương buồn. Bà nhớ những chuyến đi xa. Một lái xe với một mình bà là thủ trưởng. Đúng là thủ trưởng. Bà nhớ những cái rạp dựng ở sân nhà đám. Nhớ các bà bổ cau têm trầu. Nhớ người đi ra đi vào mặt mũi nghiêm trang và bận rộn. Bà được ngồi ở vị trí danh dự, nhưng bao giờ cũng tìm cách xuống ngồi với cánh đàn bà... Bà nhớ mùi hoa huệ, mùi nhang đám ma, nhớ tiếng kèn đám ma quen thuộc và ảo não... Chính bà Phương đã một lần thổ lộ với Toàn:
- Lâu lâu đi xa một tí nó cũng thay đổi không khí ông ạ.
Toàn biết nội dung chữ đi xa ấy. Và cũng không phải vì thế mà Toàn đánh giá thấp bà trong những chuyến công du. Hãy nghĩ tới những chuyến đi hàng trăm ki lô mét trên con đường nắng chảy nhựa đường, chờ phà mấy tiếng đồng hồ. Hay gió bấc cắt ruột, hay mưa dầm đường làng lầy lội. Hãy nghĩ tới những bữa cỗ nhà đám, những đêm thâu nằm úp thìa với những người không quen biết, tiếng kèn đám ma ngay bên tai...
Toàn rất kính phục bà Phương. Toàn nghĩ mình không làm được việc ấy, không thể nào làm được việc ấy.
Thời tốt đẹp đã qua rồi! Cho đến bây giờ những người rách việc thỉnh thoảng vẫn ôn lại thời kỳ vàng son ấy. Thời kỳ chênh lệch giàu nghèo chỉ là sự chênh lệch giữa những người đi bộ với nhau, chả đáng là bao. Có hơn nhau cũng chỉ là cái áo pha lon, cái quần xa tanh, hay thỉnh thoảng nấu một nồi chè, múc ra mỗi người một bát. Không như bây giờ, sự chênh lệch giữa những người đi bộ với những người đi xe máy, đi ô tô, đi máy bay trên con đường thiên lý. Thời kỳ còn đánh cá, thời kỳ còn phong trào. Thời kỳ con người cốt sao chỉ có miếng ăn. Và mỗi tàu mất hàng tạ cá, hàng tấn cá - toàn cá ngon - một chuyến biển.
Cô Phòng bao giờ cũng cười chảy nước mắt mỗi khi nhắc đến những gói cá toát mồ hôi hột. Xin được cá, cho vào túi ni lông, bọc giấy báo bên ngoài thật vuông vắn rồi mới cho vào túi xách. Nhưng túi đổ mồ hôi cá lạnh. Đi qua cổng bảo vệ ra vẻ nghiêm nghị nhìn thẳng. Bảo vệ cũng ra bộ mải mê đắm chìm trong suy nghĩ nội tâm, mắt nhìn tận đâu đâu.
- Cái bố gì ở bộ về chứ. Cặp da đen bóng loáng, oai vệ lắm. Nắng tháng sáu chang chang mà cái cặp ướt đẫm. Thế bố hỏi con chứ cái cặp chứa tài liệu gì mà ghê thế?
Cô lấy mùi xoa lau nước mắt nói tiếp:
- Anh Tí này. Hôm ấy tàu đánh tôm về. Em xách túi xuống tàu. Lối đi xuống tàu đã chật thì chớ. Người đứng như nêm. Lại mất điện. Tối như hũ nút. Em cứ chen bừa. Mãi mới đến được cửa nhà tắm(1). Em gọi: “Anh Hùng lùn ơi. Lại Hùng lùn ơi mới kinh chứ! Túi của em đấy nhé. Nhớ đấy”. Nghển cổ nhìn vào, thấy ông Hùng đại phó quần áo bảo hộ lao động đứng trong nhà tắm. Dưới chân bao nhiêu là túi. Có một lồ toàn cá song với cá tráp, ngon lắm. Chắc là để biếu các sếp. Mấy người nữa đến sau, vất túi vào. Ông Hùng nhặt túi, bắt đầu bốc mỗi túi một ít. Rồi nói to: “Thôi nhé. Không nhận túi nữa đâu đấy”. Lại cười khì một mình: “Thật cứ như là mậu dịch ấy”.
Cô cất tiếng cười lanh lảnh và tiếp:
- Công nhận ông Hùng ông ấy tốt thật đấy.
Trước đây con người đối với nhau còn tốt như vậy. Dù là lấy của nhà nước đi cho. Nhưng cũng vẫn là còn nghĩ đến nhau, vẫn còn thương nhau. Khi mới bắt đầu chuyển một số tàu đánh cá đi vận tải nước ngoài, cái tình cũ vẫn còn. Cô Phòng và nhiều người khác vẫn được quà (ngoài suất quà tập thể trong túi ni lông). Thuốc lá ngoại, xà phòng thơm, xích líp xe đạp. Dùng và bán. Thêm vào nuôi con. Ngày ấy ở xí nghiệp có biết bao loại tình thương. Anh em nhân viên phòng ban sống nhờ vào tình thương đó. Và cả khối phòng ban đều phục cách phân loại tình thương của anh chàng Lập, kỹ sư lưới thuộc phòng kỹ thuật:
- Tình thương lạnh lẽo (cả ướp đả)
- Tình thương băng giá (cá ướp đông)
- Tình thương thối nảt (tôm nảt)
- Tình thương sắt thép (xích líp xe đạp)
- Tình thương mây khói (thuốc lả ba số, Capstan)
- Tình thương thơm tho (xà phòng thơm)
Hầu như tất cả cán bộ công nhân khối trên bờ đều được hưởng tình thương ấy, không ít thì nhiều. Mỗi người có một con đường riêng của mình để đến được với những tình thương trên, nhất là đến với ba loại tình thương lạnh lẽo, băng giả và thối nảt, nghĩa là đến với hầm cá.
Giờ đây tình người bạc bẽo. Có người chuyến trước đi đánh cá còn vui vẻ với Toàn, chuyến sau đi tàu vận tải ngoại thương về, gặp Toàn trong xí nghiệp, giả cách không nhìn thấy hoặc chỉ gật đầu chào nhạt nhẽo. Toàn cảm thấy như mình bị xúc phạm. Thật là giở mặt như bàn tay vậy. Bây giờ người ta chẳng cần thành tích, chẳng cần chiến sĩ thi đua, bằng khen huân chương. Bây giờ là tiền.
Chính Toàn đã nói hài hước:
- Tôi cũng phải xin đi nước ngoài một chuyến, xem cán bộ thi đua các hãng Hitachi, National hoạt động ra làm sao.
Và anh em tàu vận tải ngoại thương vỗ vai Toàn cười ngất:
- Bên ấy không có thi đua đâu, bố!
Với các tàu vận tải nước ngoài, thời đại thi đua đã qua. Và cũng qua luôn cái thời xách con cá về nhà. Chở cá tôm đấy nhưng không ai thèm lấy.
Toàn biết mình chẳng là cái đinh gì nữa. Chẳng ai cần đến Toàn nữa. Ngay anh em trên bờ, những giám đốc lạnh đông, những giám đốc cơ khí sửa chữa cũng chào Toàn, nửa đùa nửa thật: “Chào nhà thua đi”. Ừ, thôi, không cần là đúng thôi. Chẳng trách được họ. Nhưng dù sao cũng còn tình người cả chục năm nay chứ. Sao họ hà tiện lời chào đến thế? Thử mời xem Toàn có xuống tàu không? Những người như thế Toàn khinh. Dù có giàu đến mấy Toàn cũng khinh. Toàn thể hiện sự khinh bỉ của mình bằng cách có giáp mặt nhau, cũng làm như không nhìn thấy họ.
Thế rồi tiên trách kỷ hậu trách nhân. Toàn cho rằng nếu trước đây họ lợi dụng Toàn để được tiếng tăm, để được thỏa mãn lòng tự ái (con gà tức nhau tiếng gáy), để được đề bạt tăng lương thì Toàn cũng lợi dụng họ để kiếm miếng ăn nuôi vợ nuôi con. Đôi bên lợi dụng lẫn nhau thôi. Tình nghĩa gì đâu. Nếu mình được đi nước ngoài mình cũng làm như họ. Mưa sao được khắp. Nhất là việc buôn bán làm ăn ngày một khó. Có người đáp số bằng không. Có người đáp số bằng âm. Có người chết hẳn. Cơ số đạn ít. Mà có nhiều đạn chăng nữa cũng chẳng thể bắn vung vãi. Phải lựa chọn mục tiêu. Và đã bắn là phải trúng.
Ba loại tình thương sắt thép, mây khói và thơm tho không còn cũng không ảnh hưởng gì lắm. Gay go ở chỗ ba loại tình thương lạnh lẽo, băng giả và thối nát cũng đã ra đi. Vẫn có người còn được hưởng nhưng số đó là rất ít. Cùng làm ở phòng kỹ thuật nhưng Khoa vẫn được thương. Còn Lập thì nguồn thương gần như đã cạn. Vì Khoa là kỹ sư cơ khí. Khoa vẫn có việc phải xuống tàu. Các đơn đặt hàng sửa chữa đều phải qua Khoa. Khoa vẫn có cửa. Thuyền trưởng, máy trưởng, anh em tổ máy thế nào chả có quà mỗi khi tàu về bến, Khoa xuống khảo sát sửa chữa. Lập thì trều. Vì Lập là kỹ sư lưới. Có ai đặt hàng sửa chữa lưới, cân chỉnh lại tâm của ván và tính góc tống an pha của ván nữa đâu. (Mơ thì đã từ lâu rời xa những công thức ấy. Và cũng không ở xí nghiệp nữa. Mơ đã toại nguyện, đã trở thành một sếp, chuyển sang làm giám đốc công ty xuất khẩu thủy sản của thành phố và vẫn phòng không. Chẳng biết có ai đến với Mơ không, để Mơ tuyên bố bắt đầu việc ấy: “Nào, ta sinh hoạt nào anh!") Ngay các tàu còn đánh cá cũng không cần đến Lập. Họ tự làm. Với lại tính Lập rất tự trọng. Dù đói nhưng rất tự trọng. Từ khi trong hội nghị công nhân viên chức có thuyền trưởng phát biểu: Tàu cả về, người xuống như dòi thì Lập chỉ xuống tàu khi có người mời. Lập nhất quyết không chịu là dòi dù có đói đến đâu!
Một dạo Lập đã tưởng nghề lưới của mình rồi lại được trọng dụng. Ây là khi xí nghiệp có chủ trương thí điểm phát triển thêm nghề lưới đèn. Nếu thắng lợi sẽ làm cả nghề lưới vây ánh sáng nữa. Được giao trách nhiệm chủ nhiệm đề tài, Lập lao vào công việc. Lập tính toán thiết kế. Lập ra xưởng lưới. Chị em xưởng lưới quây lấy Lập. Họ bảo Lập:
- Thầy ơi. Chúng em quên hết cả nút chân ếch đơn với nút chân ếch kép rồi.
Đó là các cô nhắc lại với thầy giáo Lập những câu Lập hỏi họ trong kỳ thi nâng bậc do phân xưởng tổ chức. Không chỉ làm vợt và một vàng lưới rê để thả kết hợp thí điểm, là chủ đề tài Lập còn lao vào thiết kế thuyền, mua sắm đèn măng sông, lập danh sách thuyền viên lấy ra từ đám lực lượng dự bị để tổ chức duyệt, ra quyết định. Phạm Cương được chỉ định làm thuyền trưởng lưới đèn. Ông chủ nhiệm đề tài và ông thuyền trưởng mới phong này gặp nhau ở một điểm: Cùng muốn phá thế độc nghề lưới vét. Cái nghề lạc hậu tàn phá hủy diệt môi trường, hiệu quả kinh tế rất thấp. Cả hai cùng mơ tưởng đến thành công. Mà thành công chứ sao lại không. Chi phí thấp, chất lượng cá lưới đèn chắc chắn cao. Các tàu lưới vét già cỗi rồi, có muốn vét cũng không vét được. Nước lên thuyền lên. Đó là mong ước của Lập, chỉ của Lập thôi. Còn Phạm Cương không. Anh thuộc trường phái bi quan, vả lại anh đã có hướng: Về làm thuyền trưởng cho một hãng vận tải tư nhân mới thành lập ở quê. Cái chính là phải có tên trong danh sách thi thuyền trưởng kỳ này. Đoàn tàu thuyền hùng dũng ra đi. Đích thân Lập xuống thuyền nhỏ, thắp măng sông, nụ thuyền cùng với những thuyền viên khác. Say như cá say ánh sáng đèn. Đã lâu lắm mới lại nhìn thấy cảnh ấy. Những con cá giương mắt đờ đẫn, hai vây mang gần như trong suốt chỉ hơi động đậy như bị thôi miên. Những con mực liên tục đổi màu thật đẹp, nhất là khi toàn thân nó chuyển sang một màu đỏ rực, vây lườn mềm mại như sóng lượn. Chỉ việc cho vợt xuống xúc đổ lên thuyền. Người xúc, người nụ. Đèn măng sông sáng rực. Dù giữa biển, vẫn cảm thấy sức nóng của những chiếc đèn tỏa ra. Da vừa ra mồ hôi đã khô ngay. Chỉ một đêm đầu tiên, tất cả đều thấy mình óp đi. Tóp đi. Lập động viên anh em. Và lại xuống một thuyền khác. Nhưng ngay đêm thứ hai anh biết rằng thất bại rồi. Cái nghề dân chài cá thể hay hợp tác làm rất hiệu quả thì anh em trong “đề tài” của Liên hợp Biendongfiscom này không thể làm được! Nó quá vất vả. Sự chịu đựng, cường độ lao động bỏ ra gấp vài chục lần đi đánh cá. Lính quốc doanh xài lưới vét quen rồi. Nhàn nhã, công tử quen rồi. Thả lưới xong là nghỉ, là ngủ, là bài bạc, mặc cho con tàu kéo lưới. Chờ ba tiếng sau, khi chuông gọi kéo lưới mới “quần đẹp áo đẹp” đi ra. Nhiều cá, ít cá không cần biết, thả lưới muối ướp cá xong lại vào cabin nằm dài hay đứng trên boong hút thuốc lá ngắm trời ngắm biển. Rách lưới, xúc bùn, sự cố cũng vất vả đấy. Nhưng không thể so sánh với lưới đèn, suốt đêm nụ thuyền, suốt đêm đứng trong hơi nóng của những chiếc đèn măng sông trên con thuyền nhỏ nhấp nhô đầu ngọn sóng... Và còn một điều căn bản nữa là đồng lương chẳng thể phá khung, chẳng hơn lương đi đánh giã là bao. Sau hai tuần thử nghiệm, các thuyền viên của anh gần như lãn công. Ôm. Ôm la liệt. Người sốt. Người ỉa chảy. Người kiết lỵ, người không bệnh gì nhưng nói kiệt sức rồi... Việc chuyển nghề lưới đèn kết thúc sau lần ra quân thứ hai. Khi tất cả anh em đều báo cáo tổ chức xin nghỉ phép, nghỉ bù, hoặc nói thẳng ra là sức khỏe yếu không theo được.
Lập biết anh đã thất bại hoàn toàn. Bởi chính lãnh đạo cũng không quyết tâm. (Anh đâu biết tổng giám đốc sốt sắng duyệt phương án này cũng chỉ để chặn họng bọn “thối mồm” ganh ghét đi đâu cũng nói ông không tập trung vào đánh cá, không chịu phát triển ngành nghề mới, chỉ chú ý đến những tàu vận tải ngoại thương và bây giờ ông đã có câu trả lời bọn họ). Muốn chuyển đổi ngành nghề phải thay đổi ít nhất một nửa thiết bị và quan trọng hơn, phải đào tạo cả một đội ngũ thuyền viên mới. Phải đầu tư thời gian dăm bảy năm là ít mà các sếp đâu có tính chuyện lâu dài. Ai biết mình sẽ còn ở đây bao lâu. Cái chính là với một lực lượng thiết bị và con người sẵn có như vậy, anh sử dụng nó như thế nào, bóc nó như thế nào để cầm cự và vừa cầm cự vừa biến thiết bị, tàu, cầu cảng, kho lạnh thành tiền, thành vàng, thành đô la của mình, những thứ dễ cầm, dễ mang theo, dễ cất trong túi, trong tủ gia đình hay tủ phòng làm việc, nếu phải có quỹ đen, tránh sự giám sát của các phu nhân.
Những người có điều kiện đều biết chiết suất sắt thép, bê tông thành tiền thành vàng đút túi, chẳng cứ gì các sếp. Các phân xưởng biết. Anh em đi tàu biết. Các cửa hàng biết. Biết và làm. Nhiều người biết nhưng không có điều kiện làm. Như đám công nhân phân xưởng. Như xưởng lưới đang thất nghiệp. Như đám nhân viên phòng ban. Như Lập. Bây giờ Lập xác định được rồi. Cứ là khốn nạn thôi. Khốn nạn đến bao giờ không biết. Có lẽ cho đến khi lũ con lớn lên đi làm thêm cặp vào với Lập. Bấy giờ mới đỡ gay go. Đến lúc ấy Lập đã sáu bảy mươi rồi.
Hoàn cảnh gia đình Lập rất gay. Bốn đứa con đang tuổi học trò. Vợ Lập lại bị tâm thần. Lúc nào cũng phải có người trông. Vay giật, chạy vạy mãi đưa được đứa con gái lớn sang Tiệp Khắc lao động, mới gửi về được hai chuyến hàng thì nước Tiệp Khắc xã hội chủ nghĩa tan, phải về nước. Số tiền con gái được bồi thường do về nước sớm đủ mua chiếc máy khâu cho nó may gia công, và thả một đàn lợn. Chẳng có việc gì làm, Lập hay ôn lại chuyện ngày xưa. Lập mà kể thời các tình thương còn đang tràn trề lai láng thì ghê lắm. Thật là một thời thần tiên. Lập chẳng phàn nàn kêu ca cuộc sống nửa lời. Lập biết chẳng ai thương mình, nên Lập cứ cười. Lập bảo mọi người:
- Thằng út nhà tôi mới đổi tên. Làm lại giấy khai sinh nhưng công an không cho.
- Sao? Sao lại đổi tên? Vẫn thấy gọi là thằng Tiệp cơ mà. Tên hay thế còn gì nữa.
- Đấy. Chính vì thế mà phải đổi đấy. Bây giờ làm gì còn Tiệp nữa. Cả nhà tôi đều gọi nó là thằng Séc Và Slôvác. Họ Séc, chữ đệm là Và, tên Slôvác.
Người Lập ngày càng gầy. Da Lập càng tái xanh. Nhưng Lập lúc nào cũng hài hước. Lẽ ra Lập cũng là thuyền trưởng thuyền phó gì rồi. Bạn bè học khóa sau cũng đã có người là thuyền trưởng. Thời học phổ thông, Lập chỉ mê nghề đánh cá. Tốt nghiệp về đây, Lập đã đi đánh cá, làm lưới trưởng tàu 1000 mã lực. Một lưới trưởng có năng lực. Lập được điều về phòng kỹ thuật, chuyên theo dõi ván lưới. Lập đã giảng cho Toàn nghe một cách rất “oanh liệt”:
- Công thức về ván dài mấy trang giấy. Nó dựa trên nguyên lý của thủy động học như máy bay dựa trên nguyên lý của khí động học.
Bây giờ các tàu nằm bến cả. Đúng mùa vụ mới có dăm ba tàu nhúc nhắc đi đánh cá. Khi về bến kêu như cha chết. Dù nhặt từng con cá ót liệt bé bằng đồng xu, mỗi chuyến cũng nợ tiền dầu, tiền đá non chục triệu đồng. Phân xưởng lưới, nơi Lập đặc trách theo dõi đóng cửa im ỉm. Năm năm đèn sách. Thôi rồi những góc tống an pha, những dây giềng lực, những dây giềng hông, những lưới 8, lưới 6, những ma ní móc mở, những độ mở cao, độ mở rộng của miệng lưới và cũng thôi luôn những tình thương lạnh lẽo, băng giá, thối nát và tanh tưởi... Cái nguy ở đấy. Giờ Lập chỉ còn mỗi niềm vui là nghe mọi người nhắc lại bản tổng kết các loại tình thương mà Lập đã sáng tạo ra, đã tổng kết lại, trong đó Lập thích nhất, hay nhắc đến nhất là tình thương thối nảt. Bởi trên đời này lắm tình thương thối nát thật. Đâu cũng sực mùi thối nát. Gặp Toàn ngoài hành lang trong những lúc đi vẩn vơ, Lập bắt tay Toàn cười toe toét:
- Anh em mình xuống tàu kiếm tí tình thương thối nát đi.
Nói vậy nhưng lại kéo Toàn về phòng mình, mời Toàn ngồi xuống chiếc ghế dựa đối diện, lấy bút giấy ra vẽ, vừa vẽ vừa giảng:
- Đây. Miếng đất nó như thế này. Chỗ này là đường cái đi vào cổng. Khu nhà ở, em sẽ làm ở chỗ này vì nó trông ra hướng Nam. Em chỉ làm hai tầng thôi. Nhưng nhiều phòng. Mỗi tầng bốn phòng. Em chúa ghét làm nhà cao tầng. Leo mỏi chân. Với lại cũng còn phải tính đến tuổi già chứ. Leo làm sao được? Phòng nào có toa lét của phòng ấy riêng. Nhưng hóa ra phải làm hai tầng rưỡi cơ đấy. Vì phải mở cầu thang lên sân thượng. Bể nước cũng đặt ở trên ấy. Vừa có áp lực nước mạnh, vừa chống nóng. Chỗ này em đào cái ao, kè đá bốn chung quanh, thành một cái hồ. Giữa hồ là một căn nhà bát giác, toàn tre nứa lá hết, có cầu bắc từ bờ ra. Để bè bạn đến chơi, câu cá, uống rượu. Chỗ này em làm một con đường hơi cong, tạo thành một vòng cua để xe máy lượn. Hai bên đường đi vào cổng em trồng toàn bạch đàn. Bây giờ em hỏi ý kiến anh về vấn đề mấu chốt nhất: Nhà giữa hồ nên làm bát giác hay lục lăng? Vòng cua xe máy nên làm rộng hay hẹp?
Nói đến đâu, cây bút bi của Lập lia đến đấy. Một dinh cơ hiện ra với cả phối cảnh, cây cối trời mây. Lập đưa tờ giấy ra xa nheo mắt nhìn với vẻ trầm ngâm, suy tư nhất trên đời. Toàn cũng bắt chước vẻ mặt ấy, ngập ngừng:
- Mây cứ ở chỗ ngọn cây này?
- Cứ ở chỗ ngọn cây này! Lập nói chắc như đinh đóng cột.
- Không bay?
Mặt xám ngoét, má hóp nhưng Lập cười rất tươi:
- Nó bay đi rồi nó lại bay lại.
Toàn như cất được gánh nặng, thở phào:
- Thế thì được!
Rồi anh rụt rè hỏi:
- Nhà trên hồ có thể làm hình bầu dục được không?
- Ừ. Bầu dục. Bầu dục. Sao lại không bầu dục nhỉ?
Lập thu tờ giấy về, khoanh một vòng bầu dục ở giữa “hồ”, và lại đưa tờ giấy ra xa, mắt nheo nheo:
- Nhà bầu dục, hơi tốn một tí nhưng ăn chơi đâu sợ tốn kém. Còn chỗ vòng cua?
Toàn nói chắc như đinh đóng cột, giọng nói của những người sành điệu:
- Vòng cua phải rộng! Để xe máy đi vào, nghiêng một tí nó mới sướng.
Lập khuỳnh hai tay làm bộ đang nghiêng đi và tán thưởng:
- Đúng! Vòng cua phải rộng! Sau này còn có ô tô nữa chứ.
Lập cúi xuống bàn lấy bút nguyệch ngoạc mở rộng đường cua, lẩm bẩm:
- Vấn đề tầm nhìn của em vẫn còn hơi kém.
Và cười ha ha. Điệu cười của một tỉ phú đang nghĩ cách tiêu tiền, bắt đồng tiền phục vụ sở thích, niềm vui của mình và của bạn bè.
Lập cho tờ giấy phác thảo ngôi biệt thự tương lai vào ngăn kéo trong khi Toàn vẫn làm ra bộ suy nghĩ đăm chiêu:
- Còn chuồng chó béc giê đặt ở đâu? Nhà thế này phải nuôi chục con béc giê giống Đức chứ ít à? Không nuôi chó thì nó thịt!
Lập kéo Toàn đứng lên, giải đáp cho Toàn nỗi băn khoăn ấy:
- Em sẽ làm béc giê. Tự làm béc giê. Anh bảo có được không? Tốt quá đi chứ lại.
Hai anh em cùng cười ngặt nghẹo. Lập bảo:
- Thôi hãy để phương án xây nhà lại. Đấy là cái thì tương lai sán lạn. Phải giải quyết thì hiện tại gay go này đã. Xuống tàu với em xem có chút tình thương nào không?
Thấy Toàn tỏ vẻ ngần ngại, Lập động viên:
- Cứ xuống chơi. Tàu 12 mới về hai hôm nay. Vui vẻ, ngồi. Nhạt nhẽo, lên ngay. Vào chỗ thằng An thuyền phó một. Tàu cũ của em mà. Giá cứ ở đấy đâu đến nỗi thế này. Em lên thì thằng An xuống thay em làm lưới trưởng. Rồi nó lên thuyền phó. Cái thằng đi bước nào trúng bước ấy. Mình đi bước nào hỏng bước ấy. Nhưng cũng chẳng phải. Thằng An là em con chú con bác với ông sếp chánh. Ông ấy sắp xếp nó vào bộ khung đi nước ngoài ngay khi còn đang đánh cá. Mình đâu biết. Với lại có biết cũng chẳng làm gì được. Làm sao mà chống được ý trên.
Nói rồi Lập nắm tay Toàn, kéo Toàn ra cầu cảng. Trên đường đi, Lập rủ rỉ:
- Lứa lợn này của em không ăn thua gì. May mà gỡ được tiền giống. Có con lợn to nhất thì tự nhiên lăn đùng ra chết. Mà có phải không chăm đâu. Trời nóng ba bảy độ, vợ chồng con cái chỉ có một cái quạt cóc với chiếc Hoa sinh bài cũ tàu 19 mua hộ. Còn cái Hitachi to, nhờ thằng An mua tuốc năng cẩn thận dành cho đàn lợn. Nước khó khăn là thế mà ngày nào cũng phải tắm cho lợn. Người tắm lợn cũng tắm. Có kém cạnh gì đâu!
Lần đầu tiên Toàn xuống một tàu vừa đi nước ngoài về. Còn trước đây Toàn chỉ dám đứng xa xa, hoặc mạnh bạo lắm là đi lướt trên cầu tàu, qua gió thổi ngửi cái hơi hướng nước ngoài từ tàu đưa lên thôi. Bởi vì dưới ấy là một thế giới khác, là những người Việt thật đấy nhưng là những người Việt khác. Bởi họ đã đến Hong Kong đã tới Kobe, đã nện gót chân trên đường phố Singapore sạch như lau như lai, nghe chim hót điếc cả tai. Quần áo họ khác, đồng hồ họ khác. Họ đeo kính American. Họ đeo nhẫn vàng to như con đỉa sít ngón tay. Là đàn ông nhưng họ đeo cả dây chuyền vàng to như cái xích. Họ lại còn đi những đôi giày da bóng loáng. Họ mặc những chiếc áo có rất nhiều túi, nhiều phéc mơ tuya trông rất sừng sộ, họ khoác trên vai những chiếc xắc rất nhiều màu, dù to dù nhỏ đều rất gầm ghì, họ phóng xe máy nhanh hoặc chầm chậm áp tải những chiếc xích lô trên đó nghễu nghện những tủ lạnh, những quạt cần, những tivi, những dàn cassette, những thùng giấy chẳng biết bên trong chứa gì nhưng chắc chắn không phải giẻ rách, họ đốt thuốc lá ngoại thơm phức, họ bật lửa bằng những chiếc bật lửa đẹp như những đồ trang sức, họ mở nút những lọ dầu xanh nhỏ xíu thơm lừng xoa xoa lên mũi mỗi khi họ hắt hơi, họ nói chuyện với nhau bằng nét mặt dáng điệu của những người ở một thế giới khác... Nhìn họ mà buồn. Mà thèm. Mà thấy họ sao sung sướng thế. Và tất nhiên vợ con họ cũng có cuộc sống khác hẳn vợ con mình. Họ, gia đình họ là một lớp người ưu việt, lớp người đã tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, trong khi tuyệt đại đa số đám chúng sinh nghèo đói non trăm triệu người Việt còn đang trong giai đoạn dân chủ nhân dân.
Những con tàu từ nước ngoài về đặc vẻ một thế giới khác còn ở chỗ có công an, hải quan mặc sắc phục lên xuống canh gác con tàu. Như lúc này Toàn theo Lập đi qua chiếc xe ô tô đỗ phía boong lái và cần cẩu trên tàu đang bốc những kiện mì chính từ hầm lên ô tô (sao mà lắm mì chính thế hở giời! mì chính người ta đếm từng hạt khi tra vào nồi canh mà ở đây chất cao như núi!), rồi bước lên cầu thang xoai xoải (nước đang xuống) từ cầu cảng lên tàu Hạ Long 12, có hai nhân viên hải quan ngồi trên hai chiếc ghế nhựa đặt ở chỗ băng chuyền cá. Ngồi ở đó có thể bao quát tất cả con tàu. Cả hai còn rất trẻ buông tờ báo đang đọc, nhìn Toàn và Lập rất nhanh rồi lại chăm chú vào tờ báo, bên cạnh là hai lon Coca Cola uống dở đặt ở cái ghế thứ ba cùng với bao ba số.
Cửa phòng đại phó An có rất nhiều dép, những đôi dép lê bẩn thỉu, chiếc nọ chồng lên chiếc kia. Điều đó nói rằng An đang có nhiều khách mà toàn khách trong xí nghiệp. Toàn chững lại, ngần ngừ định quay lên, nhưng Lập gần như lôi anh bước vào. Khói mù mịt trong buồng. Người ngồi chen nhau trên đi văng, trên giường. Những lon bia, lon nước ngọt màu sắc óng ánh đã bật, đã uống. Trong phòng mấy thứ đồ dùng chỉ trông đã kính trọng rồi: Một chiếc quạt có hẹn giờ cánh vàng chóe, một chiếc tivi màu Philip và một tủ lạnh Toshiba trắng toát hai cánh đứng lầm lì ở một góc không nói không rằng, đầy tự tin ở giá trị của mình. Ai cũng biết đấy là những thứ được coi như mua để dùng trên tàu và không phải thuế. Thấy có khách mới, An đang ngồi nép trên giường sát cửa sổ đứng lên, niềm nở:
- Hai bác. Mời hai bác ngồi.
Rõ ràng không còn chỗ nào ngồi nữa. Thấy vậy, một vị khách - đồng chí Lâm, tổ trưởng tổ điện thuộc phân xưởng sửa chữa - đứng lên:
- Thôi anh em chúng tôi ngồi đã lâu rồi. Xin phép đại phó.
Nhiều người lục tục kéo ra theo Lâm. Toàn để ý: Mọi người đều ra về tay không. Và mừng thầm: Đông thế, của đâu mà rải cho thấu. Họ về hết chỉ còn mình và Lập ở lại có thể sẽ có chiến lợi phẩm, có quà. Nhưng họ không ra hết. Vẫn còn hai người ở lại. Một chị công nhân xưởng lưới, và Bính, phó quản đốc xưởng lạnh. Lập đón hai lon bia An đưa, cười tươi như ở nhà mình, như chính mình là chủ:
- Uống đi anh Toàn.
Toàn uống một ngụm và h?