- V -
Trở về Hải Triều, anh và vợ bàn nhau giải quyết một vấn đề thật đau đầu. Lấy đâu ra hai chục vé bây giờ. Người ta nói đấy là số tiền giắt lưng tối thiểu. Còn những người làm ăn lớn phải năm mươi bảy mươi vé. Vợ anh, cô Mận, một cô dân quân xinh đẹp người Thủy Nguyên, đảng viên, kiện tướng làm bèo hoa dâu một thời ấy thì họ hàng có ai buôn bán mà hỏi, mà vay giật. Nhưng cả hai vợ chồng thật không ngờ. Chưa phải đi vay đâu cả đã có trong tay hàng cây vàng! Toàn là của những người gửi nhờ mua đồ. Người nửa chỉ, người một chỉ. Người nhờ mua cái quần bò cho con giai. Người nhờ cái áo lông cho con gái. Người mét nhung bò liếm cho vợ. Người bạo dạn, liều lĩnh thì nhờ mua cái quạt cũ, thậm chí một cái radio cassette một cửa băng... Toàn những người thân. Toàn những cảnh rách. Những tài sản tích cóp được không biết từ bao giờ, bằng cách nào. Nhận mà lo. Bởi nhẩm tính ra những hàng phải mua hộ này đã chiếm gần hết tiêu chuẩn của một chuyến rồi. Nhưng ai gửi cũng nhận. Nhận đã. Sau sẽ tính. Nhận và ghi cẩn thận. Để khỏi nhầm, khỏi quên. Đang cần vốn. Thấy Bá dễ dãi, người gửi xuýt xoa cám ơn. Bá chỉ cười: Phải một vài chuyến đấy nhé. Người gửi chứa chan hy vọng: Vâng. Bao giờ cũng được. Anh nhận cho là quý rồi. Chưa xuống tàu, Bá đã thấy cuộc sống của mình thay đổi. Trước đây nhà anh có ai lui tới mà nay người ra người vào tấp nập.
Có vẻ nhiều nhiều nhưng khi kiểm lại vẫn chẳng được bao nhiêu so với con số hai mươi vé phải có. Bá gặp Đay, người cũng được quyết định xuống tàu cùng một đợt, than thở. Vốn mang ơn Bá khi thằng út bị viêm phế quản, sốt cao, thở khò khè được Bá cứu sống, Đay cười:
- Có việc cỏn con thế mà không giải quyết được thì làm ăn cái gì. Đi buôn quốc tế sao nổi. Ông cần bao nhiêu?
Bá lúng túng:
- Gần hai mươi vé.
- Sao lại gần hai mươi?
- Nhà cũng chuẩn bị được mấy vé rồi.
- Cứ cho là nhà có năm trăm đi. Thế định chỉ đem đi hai mươi vé thôi à? Có mà ăn cám. Riêng tiền đóng góp đã năm trăm rồi.
Bá giật thót:
- Sao bảo mỗi chuyến chỉ ba vé?
Đay xùy:
- Ba trăm là đi Sing, đi Hong Kong. Đi Nhật tối thiểu phải năm vé. Tối thiểu đấy.
Bá hoang mang. Năm trăm đô la. Năm triệu. Buôn cái gì lãi năm triệu để đóng góp? Vậy mỗi chuyến phải lãi tối thiểu mười triệu. Đóng góp gì ghê gớm thế? Năm
triệu là một năm tiền lương của anh. Tàu gần ba chục người. Mỗi chuyến ngồi chơi nhận trên trăm triệu.
Như đoán được ý nghĩ của Bá, Đay giải thích:
- Không phải sếp ăn cả chỗ ấy đâu. Rải nhiều nơi lắm. Công an, hải quan. Rồi tiếp khách. Rồi tổ chức. Rồi ông bí thư. Tất nhiên là những đồng chí này ít thôi. Nhưng cũng là tiền. Còn bộ. Còn ủy ban... Liên khúc mà. Cứ phải ba mươi vé là ít bố ạ!
Bá không giấu được vẻ lo lắng:
- Thế ông mang đi bao nhiêu?
Đay lắc đầu:
- Ông không bì với tôi được. Bọn chúng tôi có cả một hầm máy. Còn vệ sinh viên như ông ít nhất cũng ba mươi vé.
- Nhưng vay đâu ba mươi vé bây giờ?
- Vay lãi mấy nhà buôn trên phố. Lãi mười phân thôi. Nhưng căn bản có hàng là phải bán cho họ. Càng tốt chứ sao. Chúng nó buôn lớn lắm. Tôi cũng đã định vay giật mỗi thằng tổ máy dưới tàu một ít nhưng nghe chừng các con giời ngại. Thắng đã vậy. Mất thì mình lấy đâu ra mà giả chúng nó. Nên cứ vay lãi trên phố là tốt nhất.
Bá đi với Đay lên phố. Cũng chỉ định vay hai nghìn thôi. Xem thế nào đã. Đay bảo tùy ông. Chuyến này đi Nhật đấy ông ạ. Cứ làm ba nghìn đi. Bá nghĩ đến số tiền lãi phải trả. Ba nghìn. Mỗi tháng mất đứt ba trăm tiền lãi. Ba trăm lãi. Năm trăm đóng góp. Tám trăm đô tất cả. Một tài sản khổng lồ. Buôn cái gì cho lại? Anh cố tự động viên mình: Có người có ta. Người ta đi tàu nước ngoài nên người cả đấy thôi. Phải đi mới biết. Chuyến này tàu 19 đi Nhật. Bá biết mình gặp may. Năm bảy chuyến Hong Kong mới có một chuyến đi Nhật. Và một chuyến đi Nhật hiệu quả kinh tế bằng năm, bằng bảy chuyến đi Hong Kong, Singapore cộng lại. Trúng số hên. Nhiều người bảo với anh như vậy. Anh viết giấy vay người quen của Đay ba nghìn đô và lùng bằng được quyển hội thoại Anh - Việt và hội thoại Nhật - Việt nhưng cả Hải Triều không đâu có. Anh viết thư cho một người bạn cùng học một khóa trường Y nay làm ở bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh, và thật may, người bạn đã tìm được một quyển gửi ra cho anh. Suốt ngày anh nghiền quyển sách bỏ túi nhàu nát dù mới xuất bản vào thời gian đổi mới. Sau nhiều ngày lẩm nhẩm tiếng Nhật những sambashi (cầu tàu, bến tàu), những benjo (cầu tiêu), tetudatte kudasai (xin ông giúp đỡ tôi) Osakayuri no kippu o kudasai (xin ông cho tôi vé đi Osaka) lại đến tiếng Anh show window (cửa hàng), let me have a look at that (để tôi coi cái kia), how much (giá bao nhiêu)... đến mụ cả đầu óc rồi đêm đêm cùng vợ bàn tính về những thứ sẽ mua sao cho có lãi nhất, về những gì sẽ đến với họ, về cái điều gần như chắc chắn: Họ sẽ đổi đời. Và không thể không ôn lại những gì đã trải. Biết bao khó khăn nhưng hai vợ chồng nhớ nhất cái đận cả nhà cùng bị sốt xuất huyết. Vay giật, thuốc men, bồi dưỡng, người lớn đã vậy còn thằng bé con. Ôm vẫn thay nhau thức suốt đêm trông con, may mà có bà ngoại và cô em vợ ra trông nom nhà cửa, lợn gà, cơm nước, rồi đến khi khỏi bệnh lại đón thằng bé về quê, nếu không chẳng biết xoay xở ra sao... Rồi những khi có con gà, miếng thịt, chồng nhường vợ, vợ nhường chồng cho đến khi anh nổi cáu thực sự: “Em trông lại mình đi kìa. Gió thổi cũng bay. Mặt cắt không còn giọt máu! Nói phải nghe chứ!” Mận mới chịu ăn... Cái thời ấy sắp qua rồi. Mận nghĩ vậy, còn Bá nói ra miệng:
- Chắc chắn sắp tới có về quê chúng mình không phải gò lưng trên chiếc xe đạp cọc cạch nữa. Anh sẽ mua một cái xe máy, sẽ mua biếu ông bà ngoại mấy con sâm...
Mận vội gạt đi:
- Đừng nói trước. Em lo lắm. Bên Vosco đấy, nhiều người đi nước ngoài sạt nghiệp.
Nhưng không thể nào ngăn cản được nhưng mơ ước đang quẫy cựa trong lòng Bá:
- Ngay chuyến này mua một chiếc tivi màu 19 inch để hai mẹ con ở nhà xem, còn mình thì một chiếc mini hai dóng, một ít thuốc bổ, một chiếc áo gió, áo lông để gần rét mới mua, thằng Cò thì chiếc xe đạp ba bánh để cu cậu đạp...
Rồi lại:
- Hai con lợn đang nuôi liệu gọi người bán thôi. Non cũng bán. Mình vất vả quá rồi. Từ rầy sáng ra không rang cơm nữa. Đạp xe lên Ngã Năm ăn phở. Cho nó có tí chất vào người.
Và:
- Đi mấy chuyến nếu thắng thì bỏ tiền ra bắc cái máy nước, khỏi phải gánh gồng, phá cái chuồng lợn đi, xây bể ngầm ở đấy.
Cứ như vậy, đêm đêm hai vợ chồng bàn tính, khi lo lắng, khi náo nức, phải gọi giấc ngủ đến bằng chuyện chăn gối, một việc mà mấy năm gần đây Mận vốn thờ ơ, gần như phải cố gắng hết mình để chiều anh. Lúc nào chị cũng thụ động, không nói ra miệng nhưng anh biết chị chỉ mong anh kết thúc sớm phút nào hay phút ấy. Và ngay sau khi kết thúc, chị lăn ra ngủ, ngủ mê ngủ mệt, ngủ không nhóc nhách như chưa bao giờ được ngủ. Anh rất buồn về chuyện ấy. Về mỗi khi anh vòng tay qua người chị, đan năm ngón tay anh vào năm ngón tay chị, gác một chân lên giữa hai chân chị thì chị lặng lẽ gỡ tay anh ra hoặc quay nghiêng vào phía trong nằm co như con tôm, im lặng ngủ. Anh sợ chị mắc chứng lãnh cảm và lùng tìm những thứ thuốc kích thích nội tiết tố để chị uống nhưng sự việc cũng chẳng khá hơn. Anh, chính anh cũng phải vặn nhỏ ngọn lửa ham muốn để phù hợp với chị, để khỏi làm khổ mình, làm khổ vợ và quen với nó bao giờ không biết.
Giờ đây chị bỗng trở thành một người khác hẳn và đồng thời cũng biến anh thành một người khác hẳn, anh đã là chính anh ngày trước như chị là chính chị ngày trước. Đam mê, cuồng nhiệt, ẩm ướt, lúc nào cũng sẵn sàng hé mở. Anh không nhận ra chị nữa. Còn hơn cả tuần trăng mật xa xưa. Chị chủ động, khám phá anh và sung sướng đón nhận anh khám phá. Lần đầu tiên anh được hưởng những tư thế lạ, những cảm xúc chưa bao giờ có, những lúc vợ chồng đang khăng khít, bỗng nhiên chị rời anh, đứng thẳng trên giường hoặc cúi lom khom, cong người hay bước hẳn xuống đất đi quanh phòng để anh nhìn ngắm, để anh đưa tay vẫy rồi ngoan ngoãn bước tới ghé ngồi xuống cạnh giường, nghiêng người chống một tay qua người anh, cúi nhìn anh như nhìn một người tình, vừa hồn nhiên vừa điêu luyện để anh phải kéo chị nằm ấp lên anh, những sáng kiến như không bao giờ hết trong chuyện ái ân của chị. Anh biết chị không cố làm ra thế. Là một bác sĩ, anh quá hiểu chuyện ấy. Cũng như trước đây, anh quá hiểu những lúc chị quằn quại hay rên lên khe khẽ chỉ là những cố gắng quá sức của chị, những cố gắng chỉ để làm vừa lòng anh. Anh càng thương chị. Anh nghĩ có lẽ vì chị vất vả quá. Nhóm lò. Xếp hàng gánh nước. Tắm rửa cho thằng bé con. Đánh thức nó dậy sớm, rửa mặt mũi cho nó. Cho nó ăn rồi hớt hải đạp xe đưa nó đi nhà trẻ. Xếp hàng đong gạo, mua thực phẩm. Mua rau lợn. Nấu cám. Cho lợn ăn. Dọn chuồng lợn. Đổ rác. Thức khuya soạn giáo án, rồi ra máy nước công cộng giặt giũ vì chỉ thật khuya vòi nước mới vắng, nước mới chảy mạnh. Đã đành anh giúp chị trong mọi việc, nhưng trách nhiệm chính vẫn đổ lên vai chị. Suốt năm suốt tháng lo lắng, chi li keo kiệt tính toán và mong ước... Khi hai vợ chồng lên giường, chị nằm dài như một người kiệt sức và chỉ muốn ngủ. Giờ đây cũng vẫn những công việc ấy, có bớt đi chút nào đâu, có khi còn tất bật hơn, lo lắng hơn, nhưng nằm bên anh, chị cựa quậy như một đứa bé, đôi mắt long lanh, hai chân tách ra chờ đợi... Vì sao thế nhỉ. Vì sao chị bỗng trở thành người đàn bà mặn nồng đến thế? Điều gì đã làm chị bùng nổ? Chẳng lẽ chỉ một tờ quyết định xuống tàu đi nước ngoài của anh thôi đã thay đổi hẳn con người chị, nó nói với chị về một tương lai tốt đẹp đang chờ chị, sắp đến cùng chị và hồi sinh trong chị sức sống đã cạn kiệt, đã rời bỏ từ lâu? Anh đặc biệt xúc động khi nhìn chị khỏa thân đi lại trong phòng như người nguyên thủy. Một câu hỏi bỗng đến cùng anh lúc đó: Không hiểu vì sao con người ăn lông ở lỗ ngày xưa sau hàng triệu năm tiến hóa trở nên mịn màng đến thế, tuyệt vời đến thế văn minh đến thế lại vẫn lưu giữ những dấu vết nguyên thủy ấy. Mà lại rậm rạp đúng nơi mịn màng nhất, nõn nà, thầm kín nhất. Phải chăng đó là lời thú nhận bản năng không thay đổi, bằng chứng tố cáo một đam mê giấu kín, che đậy và giờ đây không còn che đậy nữa. Như mời gọi. Như khiêu khích. Lại như sẵn sàng dâng hiến. Chính ngọn lửa đam mê tổ tông ấy đã thổi bùng ngọn lửa trong anh.
Bá xuống tàu với chức danh phục vụ viên, một chức danh thấp kém nhất dưới tàu nhưng là niềm mơ ước của biết bao người bởi đó là sự đổi đời. Bưng cơm. Lau bàn ăn. Vệ sinh buồng ăn. Cầm bùi nhùi lau hành lang. Cọ nhà xí... Bá hoàn thành nhiệm vụ một cách miễn chê. Sóng to. Người lử khử nhưng không nôn. Và dù mệt đến đâu cũng cố ăn hết suất cơm. Trong một lúc cọ nhà xí, anh tự thấy thật buồn cho công lao học hành của mình, và những câu chuyện tưởng đã quên đi, bỗng vụt trở lại trong óc làm anh bật cười, lại thấy phấn chấn trong công việc. Đó là câu chuyện một cô gái đinh ninh mình lấy được một anh xích lô như lời anh ta khai nghề nghiệp cùng cô. Cô mừng như bắt được vàng. Thu nhập của anh ta sẽ bảo đảm được đời sống của cô. Nhưng té ra cô đã bị lừa. Một kẻ lừa đảo, dối trá, làm hại một đời con gái. Anh ta chính là một phó tiến sĩ, một phó tiến sĩ chính hiệu, tu nghiệp ở nước ngoài, có bằng đỏ trong tay cùng với đồng lương chết đói. Và cô đã đâm đơn li dị. Đấy là chuyện bịa. Chuyện tiếu lâm tân thời. Còn đây là chuyện thật. Thật một trăm phần trăm. Một người bạn anh, một thầy giáo đại học bách khoa có uy tín sang Algerie dạy học hết hạn trở về gặp anh trò chuyện và đến lúc ấy, anh mới biết người bạn anh sang đấy chỉ dạy trung cấp. Đoán được sự ngạc nhiên của anh, bạn anh nói tên một vị giáo sư lừng danh khác, đã từng đi hội thảo với các nhà khoa học quốc tế nhiều lần, cũng chỉ dạy trung cấp ở Algerie. Bạn anh đã khuyên vị giáo sư nọ: “Chúng tôi vô danh tiểu tốt đi còn được. Anh đi, quốc tế biết anh dạy trung cấp, nó cười cho”. Và vị giáo sư đáng kính đã chân thành nói với bạn anh: “Tôi nghĩ kỹ rồi anh ạ. Sang bên ấy dạy mẫu giáo tôi cũng đi”. Mà ngày ấy sang Algerie bao nhiêu năm, khi về cũng chỉ đủ tiền mua được chiếc xe máy Honda DD Nhật còn trong hộp xốp và vài thứ lặt vặt khác.
Tách bến được ba ngày, vừa mệt vừa buồn. Sóng to. Lử khử. Tiếng Anh không vào. Tiếng Nhật không vào. Tivi Việt Nam không bắt được. Tivi Nhật cũng không. Toàn ruồi. Anh em mở video. Phim sex. Sex nặng. Xem mãi cũng chán. Phim nào cũng mấy khuôn mặt ấy “những gương mặt thân quen” như Đay nói. Mãi mấy hôm sau mở tivi bắt được đài Nhật. Đang chiếu một phim gì đó. Người Nhật, thành phố Nhật hiện ra. Náo nức như săp đặt chân lên một hành tinh khác. Không ngủ được. Đất Nhật gần lắm rồi. Cái đất nước thần kỳ. Nó làm cho những người bình thường khi tới đó trở về bỗng biến thành những người khác hẳn. Osaka đâu? Cảng Osaka to hay nhỏ. Thành phố Osaka thế nào nhỉ. Chắc là giàu có, điện sáng trưng mọi ngóc ngách và sạch như li như lai. Chắc là người nào cũng đẹp đẽ, lịch sự và sang trọng. Osakayuri no kippu o kudasai. Bá lẩm nhẩm lại bài học. Tàu đến phao số 0 vào tối thứ năm. Mỗi người được phát một giấy lên bờ và được đổi một ít tiền đô sang tiền yên. “Đổi một ít tiền yên tiêu vặt thôi. Bên này tiền đô tiêu thoải mái”. Anh em bảo Bá như vậy.
Sáng thứ sáu cập cảng Osaka. Bá cùng anh em không phải trực ca bước xuống cầu thang, lần đầu tiên đặt chân lên đất Nhật. Còn đang đứng ngắm trời ngắm đất, bỗng thấy mọi người nhất loạt chạy rầm rập cùng một hướng trên cầu tàu. Chạy đi! Đay thét lên giục Bá. Cũng chỉ một câu ấy rồi co cẳng chạy. Ngơ ngác không hiểu chuyện gì, Bá cũng chạy. Chạy theo và nghe tiếng Đay vọng lại: “Nhanh lên! Vào thành phố mua hàng không họ mua hết!” Về sau này Bá mới biết dân Osaka chỉ bán hàng ngày hôm nay. Ngày mai thứ bảy, ngày kia chủ nhật nghỉ. Mà thứ hai tàu đã tách bến rồi. Cảng Osaka rộng quá. Dễ chừng chạy hai ba cây số mới ra tới cổng. Trình giấy. Bước ra đường. Không còn một ai. Cả Đay cũng biến rồi. Không có cả taxi. Lo quá. Giở quyển hội thoại xem lại một lần nữa cho chắc chắn rồi nói với người gác cổng: Takusi o yonde kudasai. (Xin ông gọi xe taxi cho tôi). Người gác mặc sắc phục như cũng hiểu tâm trạng anh, tươi cười: Chotto matte kadasai (Chờ một tí). Chờ. Phải chờ thôi. Chẳng còn cách nào khác. Nhưng cái kiểu chạy như ma đuổi của anh em thuyền viên và câu nói vọng lại của Đay Nhanh lên vào thành phố mua hàng không họ mua hết làm anh bồn chồn. Kia rồi. Một chiếc taxi màu vàng chanh đi ngang. Giơ tay vẫy. Lên xe. Người lái xe nói một câu tiếng Nhật, anh không hiểu. Rồi lại một câu tiếng Anh. Anh cũng không hiểu. Nhưng cứ gật. Sực nhớ mấy tên phố đã nghe anh em nói, Bá nói đại một tên. Hóa ra đúng. Chẳng ngắm nhìn đường phố Nhật thế nào, chỉ chăm chăm vào những cửa hàng. Đến khi thấy mấy cửa hàng bày xe máy cũ, anh ra hiệu cho người lái xe dừng lại. Arigatou. Người lái xe nhận tiền cười rất tươi đáp lại: Arigatou.
Rất nhiều xe. Mấy cửa hàng liền nhau. Trời ơi. Của nả đây rồi. Sự đổi đời đây rồi. Một chiếc Cub 81 bảy mươi phân khối màu ốc bươu đời chót kim vàng giọt lệ kia rồi. Đó là mơ ước của anh, mục tiêu của anh. Đó là điều anh ao ước và đã nhiều lần nói với vợ là sẽ mua một chiếc xe như thế. Một chiếc xe được giá nhất, dễ bán nhất. Chưa dám dùng đâu. Chưa. Chưa có tiêu chuẩn. Còn phải quay vòng vốn đã. Hai vợ chồng đèo nhau, chồng trước vợ sau, lượn phố ít ngày rồi bán. Xe loại ấy đang lên ngôi. Một chiếc xe như thế bán vất đi cũng phải được trên mười vé.
Good morning.! Phấn khởi, Bá chào người chủ quán, chào to như bạn bè lâu ngày gặp lại, nhưng rõ ràng ông ta không hiểu Bá nói gì. Chỉ giơ tay về phía trong, gian nhà thênh thang xếp chật những xe máy là xe máy. Anh bổ tới chiếc xe ngoài cùng, chiếc 81 chót chét kim vàng giọt lệ của anh và đứng sững: Trên yên xe đã ghi tên người mua. Anh nhìn sang những xe khác. Gần như tất cả đã có tên ghi trên yên, đã có người mua. Những tên lạ, không phải người của tàu anh. Thất vọng, hoang mang, anh bước sang gian hàng bên cạnh. Vẫn như vậy. Sang đến gian hàng thứ ba, cũng vẫn vậy. Anh biết có nhiều tàu Việt Nam cập bến Osaka. Thuyền viên các tàu ấy đã mua trước cả rồi. Sau này khi trở về tàu anh còn nghe anh em nói có những người đánh dấu sẵn, trả tiền trước để chuyến sau sang lấy. Ớ cửa hàng thứ ba vẫn còn nhiều xe chưa đánh dấu nhưng toàn là loại hai ống xả, 500 phân khối, 1000 phân khối, thấp nhất cũng là 250 phân khối. Xe này mang về khó bán, không có giá trị kinh tế, lờ lãi chẳng là bao. Mỗi chuyến được một xe máy không thuế thì phải mua xe nào hiệu quả nhất. Tìm mãi. Tìm mãi. Vớ được cái Chaly 70 phân khối. Nhưng vay những ba nghìn cơ mà! Ba trăm tiền lãi và năm trăm tiền đóng góp. Làm sao vợi bớt số tiền này. Lại lùng sục. Sâu mãi vào gian trong. Gian trong nữa. Nghiêng người mà lách. Trèo lên mà đi. Đứng im trên yên xe mà phóng mắt ra bốn chung quanh quan sát. Rồi bò qua những chiếc xe xếp sát nhau tới một góc. Lấy tay lau lớp bụi bám dày trên các bộ phận một chiếc xe đen đủi. Lớp bụi rơi ra để lộ một nàng công chúa, không, một chàng hoàng tử đen bóng, còn nguyên nước sơn và lớp mạ ánh lên. Hoàng tử đen! Một chiếc CD. Một chiếc Honda một trăm phân khối đang là mốt của những thanh niên ăn chơi thời thượng! Vua và hoàng tử của các giống loài xe máy! Lòng anh như múa lên. Hello! Hello! Anh vừa bước ra gian ngoài vừa gọi ông chủ hiệu. Sau khi dẫn ông ta vào tận chỗ chiếc xe và viết tên mình lên yên, Bá trả tiền. Chủ hàng đưa cho anh giấy biên nhận và nói chiều sẽ cho xe chở đến tận cầu tàu. Anh yên tâm giao tiền không ngần ngại, bởi khi còn đang hành trình, anh đã nghe các bậc tiền bối nói kiểu mua bán với người Nhật là như vậy. Họ nói sao làm vậy. Chưa một lần lừa đảo. Đã định bước ra nhưng không hiểu trời xui đất khiến thế nào lại đi sâu vào góc, tận xó xỉnh trong cùng, đứng ngoài nhìn vào giống như một chỗ trống, lật mấy tấm bìa các tông chênh chếch lên: Anh reo to khiến người chủ hiệu đứng đó cũng cười, vui niềm vui của anh: Một chiếc 81 chót chét kim vàng giọt lệ! Mơ ước của anh! Thôi rồi Lượm ơi. Lượm trúng quả rồi. Lượm thắng rồi Lượm ơi! Chắc là bố phù hộ đây. Bán con CD. Với cái 81 này. Giữ lại cái Chaly cho vợ đi tạm đã. Rồi sẽ thay sau. Sẽ thay bằng một chiếc 81 chót chét kim vàng giọt lệ sau. Không phải là Hoàng tử đen, xe nam Mận không đi được. Cái Chaly coi như được biếu không. Tiền lãi một cái CD đã thừa cái Chaly này rồi. Nhưng thôi, việc ấy tính sau. Nếu cần cứ cho đi ở cả ba cái. Trả bớt nợ chừng nào hay chừng ấy, để khỏi chịu lãi. Chắc cô ấy đồng ý thôi. Mà sao bỗng nhiên nàng tuyệt vời đến thế. Đúng là nhờ có cái quyết định xuống tàu. Hơn mọi thứ thuốc mình mua. Chuyến này về chắc chắn trên cả tuyệt vời.
Việc quan trọng nhất đã hoàn thành vượt mức. Giờ đây là lùng mua loa thùng. Loại loa thùng 200 watt. Thứ hàng đang được trong nước mến mộ. Takusi o yonde kudasai. Taxi ghé sát vỉa hè. Chở tới cửa hàng bán loa cũ. Có mặt khá đông anh em tàu. Kho rộng mênh mông. Bụi cũng bám đầy trên các thùng loa. Cũng là lưu cữu từ đời nảo đời nào rồi. Len lỏi. Chui rúc. Lôi. Đẩy. Moi móc. Bẩn thỉu nhem nhuốc đến phát xấu hổ lên. Mỗi người một ngóc, một ngách, im lặng thở và tìm tòi lùng sục. Vừa trông thấy ở một góc khuất có hai thùng loa ưng ý, vội bước tới thì không biết ở đâu vọt ra một người lao từ phía sau chen Bá ngã ngửa. Người ấy vượt lên phóng đến chỗ thùng loa, tay nhăm nhăm viên phấn viết rất nhanh tên mình vào đấy rồi ghé vai vác từng chiếc một ra ngoài. Đay! Pha Ra Đay! Bá đứng dậy nhìn Đay sù sì to lớn, mặt mũi chân tay quần áo đầy bụi im lặng nghiêng đầu vác chiếc loa thùng 200 oát bước qua, không thèm nhìn anh. Anh rất giận Đay. Nhưng rồi lại nghĩ đến chuyện Đay đã đứng ra bảo lãnh việc vay tiền cho anh, nghĩ đến buổi sáng khi đứng trên cầu tàu, mọi người rùng rùng chạy, không ai nói với anh một lời. Chỉ có Đay là người duy nhất đã bảo anh. Cuộc sống là như vậy. Khắc nghiệt quá. Giành giật.
Ước lượng. Xác định chất lượng, định giá tiền khi về nước. Không còn chút tình cảm nào lúc mua hàng mặc dù ở dưới tàu anh anh em em thân mật. Cuối cùng Bá cũng mua được hai đôi loa thùng ưng ý, mấy cái cassette mô nô, mấy cái xít te(I). Mua thì cứ mua. Nhưng không được thử. Ông chủ người Nhật nói rằng loa tốt. Thì chắc loa tốt. Nói cassette tốt là cassette tốt. Người Nhật rất thật thà. Giao tiền cho họ rồi hẹn giờ, họ cho xe chở đến tận tàu. Anh em bảo vậy. Bá cũng tin như vậy. Với lại họ giàu có thế, ai lại nỡ đi lừa đám người khố rách áo ôm!
Hôm sau thứ bảy. Gay. Vì Osaka không bán hàng cả hai ngày thứ bảy và chủ nhật. Hai ngày không mua được hàng. Mà sáng thứ hai tàu đã tách bến. Mà trong túi còn hơn nghìn đô la. Khi xuống tàu bụng nghĩ ba nghìn này đi Nhật cố gắng làm sao lãi được gấp đôi. Ba nghìn thành sáu nghìn, chí ít cũng là năm nghìn rưởi. Năm nghìn rưởi! Nghĩa là mình có trong tay năm mươi lăm triệu, mà hai mươi lăm triệu là của mình. Chỉ nửa tháng thôi mình đã là triệu phú, đã có trong tay hai mươi lăm triệu làm vốn, trừ tiền lãi và tiền đóng góp cũng còn mười bảy triệu. Chuyến này về sẽ trả nợ mười vé, thế là bớt được mỗi tháng một trăm đô tiền nợ lãi. Cọ rửa nhà xí, lau hành lang, phục vụ bữa cơm xong Bá định tìm Đay bàn tính xem sao nhưng Đay đã biến tự bao giờ. Anh em bảo chỉ còn mỗi cách đi Motomachi cách 250km. Motomachi là thành phố nhỏ, buôn bán suốt mọi ngày trong tuần. Những người không phải trực đã biến hết. Không biết họ đi đâu. Chỉ còn một mình Bá. Thì một mình đi. Không được phép ngại ngần. Vì đây là nước Nhật. Đây là nơi định đoạt cuộc đời mình, số phận mình, số phận gia đình mình. Phải chiến đấu. Dù chỉ một mình. Dù tiếng Nhật không biết. Dù phải đi xa hai trăm km. Đơn thương độc mã cũng chiến đấu. Một mình ra cổng cảng. Xem lại sổ hội thoại Nhật - Việt, cái gậy dò đường để xông pha trên đất Nhật, chiến đấu đổi đời. Lúc mới cầm quyết định xuống tàu cứ nghĩ phải học tiếng Anh. Nhưng không. Dân buôn bán đồ cũ của Nhật không biết tiếng Anh. Chỉ cần quyển hội thoại Việt - Nhật. Vẫy taxi. Giở hội thoại chỉ vào chữ ga tàu điện ngầm, miệng nói Motomachi. Anh lái xe hiểu. Lên xe. Kéo dây an toàn. Ớ Nhật bước chân lên xe là phải kéo dây an toàn. Xe chạy nhanh đến mức khó hiểu. Đến ga tàu điện ngầm. Xuống xe. Mất một ít yên. Theo cánh tay chỉ của người lái taxi, Bá bước xuống một cầu thang sâu và rộng. Gió từ phía dưới hút lên mát rượi. Người đông. Nhộn nhạo. Đi lại. Lên xuống. Như một siêu thị. Lại phải dùng đến Hội thoại Việt - Nhật. Tìm đến một ông già. Lễ phép cúi đầu chào. Chỉ chữ: Phòng bản vé.
Đến phòng bán vé giơ ngón tay trỏ lên (ý rằng một vé) cộc lốc: Motomachi. Cầm chiếc vé tàu điện ngầm trong tay, ngồi trên một chiếc ghế bắt vào sát tường đợi tàu, lúc ấy Bá mới để ý quan sát chung quanh. Anh ngước nhìn cái mái vòm cong trên đầu, hai bên tường cũng cong đầy hình vẽ quảng cáo. Không. Không phải hình vẽ mà những tấm ảnh, hoặc nếu có phải hình vẽ thì cũng là những hình vẽ cực công phu giống ảnh như hệt. Những cô gái Nhật váy ngắn, chân dài nghe điện thoại, hoặc vắt vẻo trên những chiếc xe máy, những chiếc ô tô bóng lộn, những chiếc giường trải khăn đệm trong căn buồng rèm buông rủ... Xe điện đến. Tất cả đứng lên. Bá cũng đứng lên. Xe chạy trên đường sắt đặt sâu dưới nền. Cửa lên xuống chỉ cao hơn nền khoảng gang tay. Nhiều toa. Toa nào cũng đông người. Anh vừa tìm được một chiếc ghế ngay cửa lên xuống, xe đã chuyển bánh. Điều làm anh ngạc nhiên là xe khởi động và tăng tốc rất nhanh. Chỉ mấy giây đã đạt tốc độ tiêu chuẩn. Mọi người trên tàu ai cũng ngồi chúi mũi vào những quyển sách. Trong toa gần như không có tiếng to nhỏ chuyện trò. Tò mò. Ngó bên nọ, ngó bên kia. Vịn cả thành ghế đứng lên nhìn. Thì ra họ đọc tranh truyện. Tàu cứ lao đi trong đường hầm. Hai trăm năm mươi ki lô mét tưởng lâu. Khi đi lo thời gian. Đường xa. Rồi mua bán. Lại chỉ độc một mình, không ai giúp đỡ, không ai bàn bạc trao đổi. Lại còn trở về tàu. Nhưng chỉ một tiếng đồng hồ đã đến nơi. Một giờ đi. Hai giờ đến. Chạy thẳng một lèo không đỗ. Mới thiu thiu ngủ một tí, đã nghe tiếng chuông. Dậy. Khoác túi leo cầu thang theo mọi người từ đường hầm bước lên. Chợ kia rồi. Cuốc bộ vào một chợ nhỏ. Đói. Bây giờ thấy đói. Thì lúc mọi người ăn, anh còn bận chạy bàn, có ăn đâu. Chỉ kịp nhét vào túi cái bánh mì, chai nước uống phòng xa. Bá nghĩ bụng ăn uống trước rồi vào chợ to. Có thực mới vực đạo. Cái chợ nhỏ anh đến giống chợ Việt Nam, hàng hóa bày trên sạp như Chợ Con, chợ Sắt. Nhưng rất ngăn nắp. Mỗi khu bán một loại hàng. Thứ nào cũng đề giá. Ngay cả chiếc bút chì. Rất rõ ràng, không sợ bị hớ. Bá tìm đến khu hàng ăn. Định vào một cửa hàng bán cơm giống cơm Việt Nam. Nhưng nhìn bảng giá, anh sững lại. Nhẩm đổi rất nhanh sang tiền Việt. Một bữa cơm xoàng xĩnh như vậy ở Việt Nam chỉ 10 nghìn. Nhưng ở đây là hai trăm nghìn. Thôi không vào hàng ăn nữa. Ăn thế mất toi cái tivi. Một bữa cơm xoàng mất một cái tivi. Cực vô lý. Dù có đói cũng còn phải đắn đo, nữa là trong túi có bánh mì. Thế là đứng giữa lối đi trong chợ, lấy bánh mì ra ăn. Ăn xong, móc chai nước ra uống. Thật may, lúc còn ở tàu anh đã cẩn thận mang theo chai nước. Tuy nhiên khi đi ngang quầy bán nước giải khát tự động, Bá không nén được sự cám dỗ. Không phải anh thèm nước ngọt mà chỉ muốn xem cái máy vận hành như thế nào, nó phục vụ anh ra sao. Thật đơn giản. Không có tí trục trặc nào. Bỏ đồng tiền xu vào máy là nó thòi ra một chai Coca Cola. Uống và nhìn sang bên cạnh. Quầy bán hoa quả. Những quả táo tây nhiều màu sắc từ tím đỏ, tới phơn phớt hồng hoặc vàng nhạt mịn màng căng mọng anh chưa nhìn thấy bao giờ. Nhìn lên bảng giá và lại nhẩm tính rất nhanh: tám mươi nghìn ba quả táo. Cũng thừa mua một chiếc radio cassette một cửa băng cũ đấy. Không. Đây không phải là thứ dành cho mình. Đến khi nào lên bờ, hoặc đi vài ba chuyến nữa cũng cố mua lấy mấy cân, nghỉ phép đem về cho mẹ, cho vợ, cho anh chị Vận và các cháu. Trên đường sang chợ chính, Bá ngạc nhiên không hiểu vì sao ở đây lại có nhiều cửa hàng bán cần câu đến thế. Rất nhiều cửa hàng bán cần câu. Từ hiện đại nhất tới thô sơ nhất. Nhiều cái đẹp lắm. Có cái giá tới ba trăm đô. Sao người ta có thể bỏ ra ba triệu để mua một cái cần câu nhỉ?
Giờ Bá đã có mặt ở chợ chính, khu chợ bán đồ cũ. Hàng hóa xếp bạt ngàn như núi, thượng vàng hạ cám không thiếu một thứ gì. Có lẽ chỉ không có xe tăng với máy bay thôi. Đầu máy khâu, nồi cơm điện, loa, dàn máy. Tranh. Khung tranh chạm trổ. Khung tranh thiếp vàng. Bàn ghế gỗ, bàn ghế kim loại, xa lông bọc vải, xa lông bọc da, quần áo cũ, hay chính xác hơn là quần áo đã qua sử dụng, còn rất đẹp, nhiều cái còn rất mới. Com lê. Áo lông, áo choàng, váy ngắn, váy dài với bao màu sắc quyến rũ. Bá hoa mắt trước cảnh hàng hóa ê hề đến thế, nhiều màu sắc rực rỡ đến thế, nhìn mà ngợp đi, nhìn mà mê mẩn, nhìn mà biết người ta sống như thế nào. Nhưng những thứ đó không hấp dẫn nổi anh. Anh chỉ nghĩ đến những thứ có giá trị kinh tế, những thứ mang về Việt Nam bán ra tiền. Đẹp đến đâu mà về nước không bán được hoặc bán được ít tiền, ít lãi cũng không thiết. Không thể mua những đồ bày biện, những thứ chỉ để mặc vào người cho đẹp. Nhưng khi đứng trước những hộp đồ lót nữ anh không chút đắn đo suy tính: Mua ngay một tá quần lót đủ các màu sắc kiểu dáng, cái viền đăng ten, cái thưa như tấm lưới, cái nhỏ xíu chỉ bằng một góc chiếc lá nho, cái nào chạm vào cũng mát rượi nơi tay như chạm vào da thịt. Anh đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác bởi cả đời chỉ quen với những chiếc quần lót diềm bâu của vợ ố vàng cứng đơ rộng thùng thình tự tay vợ anh khâu bằng vải bao bì, xác xơ nơi đũng còn nguyên những dấu nẹp sắt gỉ han không thể nào giặt sạch. Anh nghĩ tới lúc chị đứng trước anh và trước gương, lần lượt thay ra mặc vào cả mười hai chiếc quần lót này, nghiêng bên nọ ngó bên kia quay đằng trước quay đằng sau nhìn ngắm, và nghĩ tới nơi ấy của chị rậm rạp trơn ướt và thăm thẳm. Trả tiền ngay dù có thoáng qua ý nghĩ đây là cả một chiếc tủ lạnh mà nếu đi làm bình thường có tích cóp bao nhiêu năm cũng không mua được. Tiếng thì thầm của vợ như ngay bên tai, nhí nhảnh nghịch ngợm: Anh cứng rắn còn em khóc nhè đây này. Đúng là giờ đây lúc nào chị cũng ướt át, và có lẽ phải đẻ một đứa nữa thôi. Thằng Cò đã năm tuổi rồi còn gì. Nếu không xuống tàu, bao giờ mới dám đẻ thêm?
Anh đã tới một gian hàng bày bán những thứ chỉ một màu xám đen. Và đây mới là những thứ anh cần. Gian hàng bán đồ điện tử cũ. Hết omisete kuremasenka (ông cho tôi xem), Takai desune (giá đắt quá) rồi lại Sukoshi makete kureba kaimasu (nếu bớt một ít tôi sẽ mua)... Bá mua một lúc mười đầu video. Hai chiếc một vé. Nặng. È cổ. Rã rời hai cánh. Nhưng ý nghĩ khi mang về bán cất cho dân phe cũng vé rưỡi, hai vé một chiếc tiếp thêm sức mạnh cho anh. Như một con lừa thồ hàng, anh lê tới cổng chợ, lòng như múa lên vì nghĩ tới số tiền sẽ thu về. Cứ một thành đôi. Một thành ba. Rồi dừng lại thở.
Không thể trở về Osaka bằng tàu điện. Không thể hai tay hai túi xách kềnh càng khệ nệ nặng như đá thế này xuống cầu thang để tới ga tàu điện ngầm. Rồi còn lên cầu thang ga đầu bên kia. Buôn bán thì phải chi phí thôi. Không phải mình ngại khó. Khoản này sẽ hạch toán vào giá thành. Anh vẫy một taxi. Chìa giấy lên bờ ra để anh ta biết mình về Cảng Osaka. Anh lái taxi gật đầu. Cũng chỉ hơn một tiếng đến nơi. Anh tần ngần nuối tiếc khi trả một trăm đô la cho người lái xe dù đã nghĩ đây là chi phí kinh doanh. Giá anh cố đi tàu điện ngầm thì chỉ hết năm nghìn đồng tiền Việt, một số tiền chẳng đáng là bao!
Ngày thứ ba ở Nhật là chủ nhật rồi. Các cửa hàng Osaka vẫn đóng cửa. Không mua được gì. Leo lên boong đứng vơ vẩn, gặp Đay to sù như một con gấu nhô từ cầu thang lên cùng với một thủy thủ. “Sáng nay trực à, bác sĩ?” “Không. Các ông đi đâu đấy?” “Lên phố xem có cái gì không? Nằm mốc ở tàu làm gì”. “Chờ tí. Tôi đi với”. Bá chạy vội về buồng khoác cái túi giả da tòn ten một bên vai chạy ra. Niệm, tên anh thủy thủ, cười: “Mua được nhiều hàng chưa mà bình chân như vại thế?” Bá bảo: “Đã mua được gì đâu. Tiền còn một đống”. “Cũng kha khá đấy. Hôm qua thấy bố ấy rước về mười cái đầu. Thắng lớn rồi”. Đay nói. Bá nghĩ thầm: Chẳng cái gì qua được mắt Đay. Ba người đi. Đi xem phố xá, xem người Nhật sống như thế nào. Và cũng cầu may, biết đâu mua được thứ gì đó. Gọi là lang thang nhưng đâu phải vô mục đích. Và vẫn cứ dán mắt vào các nhà hai bên phố. Người ta cũng mở cửa đấy nhưng không bán hàng. Và nhà nào cũng có một túi ni lông đen để ở lòng đường sát với vỉa hè. Túi đựng rác. Bá tò mò nhìn trước nhìn sau không có ai ngoài hai người bạn, cúi xuống mở một túi ra xem: Ba chiếc cốc pha lê cực đẹp có chân, hoa văn vàng óng, và những mảnh vỡ của chiếc cốc thứ tư. Rác là như vậy đấy. Anh đút ba chiếc cốc vào túi, mặc cho hai người bạn đồng hành chế giễu: Thưa bác sĩ, sao bác sĩ mất vệ sinh thế. Nhặt ở túi rác đem về uống. Bá cười: Đẹp thế mà chỉ vỡ một chiếc họ đã vất đi thì phí quá. Đem về bày tủ li. Đúng là vậy. Anh không tham. Chỉ thấy không thể để ba chiếc ly pha lê vỡ vụn trong đống rác. Một sự lãng phí chẳng thể nào tha thứ.
Bỗng nhiên hiện ra trước mắt ba người một bãi rác khổng lồ. Thứ bãi rác Bá chỉ nghe nói đến, bây giờ mới được tới tận nơi, nhìn tận mắt. Tủ đứng, tủ nằm. Xa lông. Giường hộp. Đệm. Máy lạnh. Máy giặt. Nồi cơm điện... Rồi ghế xoay. Bá ngồi ngay lên chiếc ghế xoay. Xoay một vòng. Năm bánh xe dưới chân đưa anh đi một quãng. Chà chà. Thật mê ly. Có cái ghế xoay này đặt trong nhà ngồi thư giãn, xem sách, đọc báo hay nghe nhạc thật tuyệt vời. Mận ngồi xoay cũng tuyệt vời. Thằng Cò ngồi lên mà xoay hẳn chẳng có gì thích hơn. Bảo đảm cả thành phố không ai có. Đang thả tâm hồn bay bổng, nhìn theo Đay và Niệm đi sâu hơn nữa vào bãi rác, bỗng nghe tiếng reo, anh giật mình đứng lên bước nhanh về phía họ: một đống quạt bàn hiện ra trước mắt. Cái nào cũng còn nguyên bảo hiểm, cánh, cả dây và phích điện dù có chiếc bảo hiểm đã gỉ và bầu đã tróc sơn. Chỉ nhìn nét mặt họ, anh cũng biết anh không có phần ở đống quạt cũ này. Vì lúc họ tìm ra, anh không có mặt, anh còn đang đu đưa với chiếc ghế xoay. Cái ghế xoay chết tiệt! Đay cùng anh thủy thủ nhặt quạt bàn xếp thành một hàng rồi tìm ra một chiếc gậy gỗ xâu gần chục chiếc quạt lại. Thật sung sướng khi nghe Niệm nói: “Phần ông Bá một chiếc, thôi, cứ xâu cả vào đây, khiêng về tàu, ông ấy lấy sau”. Thật là một tấm lòng vàng. Cái quạt tai voi nhà anh cũ quá rồi. Khi chạy cứ long sòng sọc như muốn rời ra. Hai người khiêng quạt đi trước, Bá vác cái ghế xoay đi sau. Phải mang chiếc ghế này về. Vì nó quá sang trọng, quá tuyệt vời. Hơn nữa nó còn là nguyên nhân làm anh thất bát ít ra hai chiếc quạt! Khiêng vác trên vỉa hè, gặp người Nhật và cả những người mắt xanh mũi lõ sải bộ trên hè, không ai bảo ai cả ba đều cúi gầm mặt. Niệm kêu to, trấn an bạn và cũng là để trấn an chính mình:
- Làm đéo gì mà xấu hổ. Họ biết mình là ai.
Rồi trừng mắt hỏi Bá:
- Ông là người nước nào. Tôi là người Malaysia. Quốc tịch Malaysia chính hiệu.
Đay cười nhạt:
- Thôi. Cứ nói Campuchia cho xong. Dân Mã lai nó đếch thèm những thứ này đâu. Sang đây mới thấy mình là cuối hạng người. Có phải không bác sĩ?
Bá gật đầu:
- Đúng là cuối hạng người.
Đay tuôn ra một tràng:
- Cuối hạng người một trăm phần trăm, không chệch đi đâu được. Bác sĩ nhìn kia kìa. Người ta đi nghỉ mát, picnic kia kìa. Ô tô nối nhau chở vợ chồng con cái trong xe kia kìa. Xe đạp cài trên ô tô chỗ ba đờ sốc, dựng đứng trên nóc xe là để đến chỗ nghỉ đạp chơi cho khỏe cẳng đấy. Còn anh em mình đi nhặt từng cái quạt cũ ở bãi rác, từng cái máy khâu ghẻ, cả mấy cái cốc vất đi mang về bày tủ cho nó sang, vác cả cái ghế cũ. Không cuối hạng người là gì. Ây thế mà khi về đến Việt Nam chúng mình lại là nhất. Chúng mình là đầu hạng người. Ai nhìn chúng mình cũng nể. Ai cũng thèm được như chúng mình. Chúng mình chon von chót vót. Càng chịu khó cuối hạng người ở đây về nhà càng chót vót chon von đầu hạng người đấy bố ạ. Khinh người như mẻ đấy bố ạ. Con gái đẹp mê tít đấy bố ạ. Bố mẹ được nhờ, vợ con thương quý, vênh mặt lên đấy bố ạ!
Một chùm bố ạ dồn dập vừa như công phẫn vừa như tự hào, vừa như chân lý không cho chối cãi. Xoay xở chiếc ghế nặng như cùm trên vai, Bá thấy đúng như Đay nói. Khi anh có quyết định xuống tàu vận tải nước ngoài, dù vẫn còn ở trên bờ, dù anh vẫn y xì là anh, chưa có tí gì thay đổi, anh đã thấy mọi người nhìn anh bằng con mắt khác rồi, anh đã là một con người khác, chính anh cũng cảm thấy mình đã là một con người khác (và vợ anh càng khác nữa). Ngay chuyến này thôi, với những ngày vắng mặt ở Việt Nam để đi sang nước Nhật này, trở về với mấy món hàng cũ trong tay, anh thực sự ở một mặt bằng khác, một nấc thang giá trị khác, một tầng lớp khác, một tầm cao khác. Đúng. Chỉ cần vắng mặt ở Việt Nam ít ngày thôi rồi trở về, anh đã là một con người khác. Mà chẳng riêng gì Nhật. Cứ vắng mặt ở Việt Nam đi tới bất kỳ nước nào ít ngày thôi, khi trở về mọi người đã nhìn anh bằng con mắt khác.
- Cho nên cố gắng càng cuối hạng người được nhiều được lâu càng tốt. Anh em mình trúng số độc đắc. Bao nhiêu người thèm được làm cuối hạng người đấy.
Niệm động viên anh. Vác. Khiêng. Đi. Nghỉ. Mồ hôi. Cực nhọc nhưng hăm hở. Thế rồi tới lúc rẽ ngang vào một phố nhỏ cả ba cùng kêu trời. Một cảnh tượng huy hoàng kỳ vĩ không ngờ đến, không tơ tưởng đến hiện ra trước mặt. Một gian hàng nhỏ mở cửa, bên trong chất đầy xe đạp cũ. Đây là một quả đấm thép trong chuyến đi tìm đường cứu gia đình mà anh em gọi là “tìm đường cứu nước”, cuộc chiến để nên người hôm nay. Đây là lộc trời cho, là trúng số hên, là thần tài đãi kẻ ngẩn ngơ. Tưởng rằng chỉ đi chơi phố, may ra nhặt được cái gì ở bãi rác thôi, ngờ đâu lại được thế này! Ba người đánh gọn, hót trọn hai mươi sáu chiếc xe đạp. Sạch bách. Bởi ai cũng biết xe mini Nhật đang là thứ hàng được chuộng, lãi chỉ đứng sau xe máy và còn dễ bán hơn xe máy vì hợp túi tiền, việc đăng ký cũng không phức tạp. Thứ xe của những người sành điệu, của những bà những cô, những chàng trai, những người cũng là người thời đại, dù chỉ là người thời đại bậc hai. Trong nước rặt một giống xe miền Nam, xe khung dựng, sang lắm là xe Thống Nhất. Tột cùng là chiếc Phượng Hoàng hay chiếc Mifa. Hai mươi sáu chiếc. Lần này cả ba người cùng đi, cùng nhìn thấy, nên Bá cũng có một suất như hai người kia. Chia ba. Bá tám chiếc. Tính Bá hay nhường nhịn, chịu phần kém. Con hai người kia mỗi người chín chiếc. Tính xô, tốt xấu, màu ngọc hay da đồng, đỏ hay vàng chanh, đổ đồng mỗi chiếc bốn mươi đô. Thắng lớn rồi. Xe này về vất đi cũng hơn trăm đô một chiếc. Chủ hàng biên giấy nhận tiền, hẹn tối cho xe chở đến cầu tàu.
Chiều nào xe ô tô chở hàng cũng tới cầu tàu tấp nập. Người Nhật quả thật thà. Hàng không thiếu một chiếc. Hàng từ xe xuống cầu. Những hàng nhỏ như đầu máy khâu cũ, cassette, đầu video, tivi, máy tính bỏ túi, đồng hồ đeo tay, xà phòng thơm, thuốc kháng sinh, thuốc nhuộm... từ cầu tàu chạy vào các phòng. Chất trên boong như núi là những thứ hàng to: xe máy, xe đạp, tủ lạnh, máy giặt... Đó là chưa kể một xe đồ uống, thuốc lá, hoa quả để tiếp khách của tàu và của các thuyền viên gửi tàu mua hộ (vì thời gian quá hạn hẹp, thuyền trưởng có sáng kiến để tàu mua hộ anh em thuyền viên, chắc tay quản lý cũng kiếm được ít nhiều). Hàng của thuyền trưởng thuyền phó, chính ủy nhiều hơn hết. Toàn là thuyền viên mua hộ hoặc đặt trước, com măng trước với các cửa hàng. Mà toàn hàng đẹp. Hàng xịn, gần như mới. Các ông ấy có đi phố chỉ là đi chơi, “dạo quanh thị trường” thế thôi. Còn mình phải chạy ma ra tông mà mua mà đánh dấu, ghi tên. Nhìn đống hàng trên tàu, Bá lo. Khi mua, ham mua được nhiều. Bây giờ lo. Hàng nhiều thế này khi về đánh thuế chết. Xe máy, mỗi người chỉ được mua một chiếc xe không thuế, quá tiêu chuẩn phải chịu thuế 100%. Tiêu chuẩn một người hai xe đạp. Thế mà có người bốn xe máy. Hơn chục xe đạp. Lại còn không biết bao nhiêu máy lạnh, máy giặt, tivi cassette, đầu video, loa thùng, và những túi phồng căng rất bí mật, không biết là loại hàng gì. Bá là lính mới, mua được ít mà cũng ba xe máy, mười đầu video, tám xe đạp, mấy cặp loa thùng, gần chục cái cassette, thử hỏi dân cũ quen thuộc, dày dạn kinh nghiệm mua biết bao nhiêu! Suốt đêm, nằm trong cabin, nghe tiếng lục cục, lịch kịch ở hai buồng bên cạnh, tiếng chân người đi lại ở hành lang, không sao ngủ được. Họ đang giấu hàng. Bá đi sang phòng bên, cũng một anh phục vụ viên như Bá, nhưng là phục vụ viên đích thực, đã đi dăm chuyến. Anh ta đang dùng tuốc vít tháo vách tàu ra. Thấy Bá, anh nhăn răng cười. Bá cầm một chiếc ốc vít lên, nhìn chăm chú vào cái chữ thập lõm xuống trên đầu ốc vít. Hiểu ý, anh ta giải thích:
- Yên tâm. Chốc nữa giấu hàng xong, vặn lại đâu vào đấy chỉ cần hòa tí nước muối, lấy giẻ xấp chấm vào là lại y như cũ. Chẳng còn dấu vết tuốc vít nữa đâu mà sợ.
Rôi nói đầy vẻ thèm thuồng:
- Chỉ mấy ông thợ máy là sướng. Dưới buồng máy tha hồ yểm. Chẳng biết đâu mà lần. Vặn bu lông, lật sàn hầm máy lên, có đến năm chục cái xe cũng xong hết. Rồi hòa một xô nước muối đặc, rẩy trên sàn, bôi lên các bu lông, bôi vào chân máy, rẩy vào mặt bích, chỉ một đêm rỉ sét kín hết, chẳng ai phát hiện được.
Đó là điều hoàn toàn bất ngờ đối với Bá. Thảo nào anh thấy Đay lúi húi ở bếp với cái xô, thò tay vào xô khoắng khoắng rồi xách xô xuống hầm máy. Anh cứ tưởng Đay đem xuống lau chùi cái gì dưới ấy.
- Sướng nữa là thằng cấp dưỡng với ông phó ba, phó gạo. Người bạn nói tiếp trong cơn hào hứng. Kho bếp, kho thực phẩm là của họ. Phó gạo được sử dụng là đúng rồi. Người ta là sĩ quan, nhưng thằng cấp dưỡng cũng được ăn theo. Trên tàu nhiều kho nhiều buồng lắm. Không có bản đồ không biết hết được đâu. Chỉ dành cho ban chỉ huy tàu. Với lại chẳng bao giờ khám đến các buồng của thuyền trưởng, thuyền phó với chính ủy.
Lại cười:
- Giấu cho phải phép đấy thôi. Họ đã định khám thì không cái gì lọt. Giấu ở đâu cũng lòi ra. Đây này. Anh ta lấy ngón tay gõ gõ vào vách cabin ở những chỗ chưa giấu hàng. Đấy. Bên trong rỗng biết ngay. Có hàng biết ngay. Giấu sao được họ. Cái chính là phải...
Và chìa bàn tay, miết miết những ngón tay vào nhau:
- Đếm.
Rõ ràng anh ta đang phấn khởi. Bá chỉ muốn hỏi người đồng cấp rằng anh ta có những thứ hàng gì mà phải giấu cả trong vách cabin nhưng không dám.
Sáng thứ hai, ngày đầu tuần, tàu rời bến. (Bá cũng đã nhờ tàu mua hộ một két bia, một két nước ngọt và một cây thuốc lá để dùng đến khi cập cảng). Loa phóng thanh vang lên: Mời tất cả các đồng chí tới câu lạc bộ họp.
Không biết có việc gì. Bá là người tới đầu tiên. Nhưng hóa ra chỉ có một nội dung: Mỗi người đóng năm vé ngoại giao. Lệnh ban ra được tất cả thực hiện ngay tức khắc. Vui vẻ nộp tiền. Không ai thắc mắc. Không ai kêu ca. Ai cũng biết đó là những điều không thể thiếu. Không những thế nộp xong tiền, Bá còn cảm thấy phấn khởi, có một cái gì đó bảo đảm làm anh yên tâm. Ớ câu lạc bộ bước ra, anh leo lên boong, toan nhìn lại Osaka một lần nữa thì tàu đã ra tới phao zero rồi. Trên boong, ngay bên cạnh đống hàng đã gọn đi nhiều vì chỉ còn xe đạp, xe máy, mấy thuyền viên bắt đầu khuân đồ nghề, những cờ lê mỏ lết, những kìm, những búa, những giẻ, những tuốc vít ra làm việc: rã xe. Tháo rời những xe máy xe đạp ngoài tiêu chuẩn thành từng bộ phận để tiện việc cất giấu và khai báo. Đó là những thợ máy và một vài thủy thủ học thêm nghề, trưởng thành qua những chuyến đi, sẵn sàngphục vụ để thêm thu nhập. Trên tàu gọi là nhóm rã xe. Còn nhóm rã hàng điện tử làm ở một khu khác, bên kia băng chuyền cá. Hai chiếc xe máy và sáu chiếc xe đạp của Bá được Đay rã. Rất nhanh. Phải chi. Theo đúng lệ làng. Một số tiền không đáng kể được Bá hạch toán vào chi phí. Trên boong chỉ còn la liệt những khung xe. Phụ tùng đóng vào bao. Để trong phòng. Chật quá thì để trên boong. Coi như không có xe máy, xe đạp mà chỉ là những khung xe. Khung với ít phụ tùng nhặt về thay thế. Cũng là phù phép cả thôi. Cái chính là ban chỉ huy tàu làm việc và mình đếm. Mười đầu video của Bá cũng được tháo rời. Vẫn cái vở không có đầu video mà chỉ có vỏ và một ít linh kiện rời. Trước khi rã “đầu”, anh em cơ công báo vụ đều thử con sống, con chết. Thật mừng là cả mười con của Bá con nào cũng sống, nghĩa là đều tốt. Người Nhật đúng là tuyệt vời. Nói một là một, hai là hai, không gian dối.
Yên tâm được một việc. Mua hàng. Đưa hàng xuống tàu. Bây giờ chỉ còn chuyện đưa lên. Nghĩ đến lại lo. Không biết có trót lọt không. Đã đành đếm. Nhưng đếm nhiều thì lờ lãi chẳng còn được bao nhiêu. Cái bản hạch toán nhẩm trong đầu hóa ra không đúng. Nhiều khoản chi phí lắm. Đầu vào chưa tổng kết được. Và không biết tàu có bị khám không? Có khi mình trâu chậm uống nước đục cũng nên. Đếm làm sao được hết. Bên Vosco đấy. Nuôi hải quan tốt thì công an khám. Nuôi công an hải quan quận tốt thì công an thành phố, hải quan thành phố xuống khám. Rồi lại tự động viên mình: Có người có ta không sợ. Nhất là khi nằm trên tàu từ Nhật về, lênh đênh cả tuần lễ, nghe những thông tin rò rỉ, biết có người mua tới năm xe máy, mấy trăm chiếc đồng hồ Seiko, cho vào túi ni lông gói chặt thả xuống hầm dầu, hàng thùng thuốc con nhộng, hàng trăm máy tính bỏ túi rải dưới buồng máy, hàng trăm cân thuốc nhuộm thì Bá cũng bớt đi một phần lo lắng:
- Người ta đi nhiều người ta biết. Phải chắc ăn như thế nào họ mới đánh to thế chứ.
Cảnh “chuyên viên phụ trách vấn đề cỏ” của văn phòng tổng giám đốc cũng có nước da tái mét và hai má hóp như Lập nhưng rất khác Lập. Lập lúc nào cũng toe toét còn Cảnh chẳng mấy khi cười. Cảnh thường xuyên trong tình trạng suy nghĩ lao lung. Hệt nét mặt người kị sĩ mặt bi thảm Don Quixote. Căng thẳng trên từng xăng ti mét vuông da mặt, căng thẳng trên từng chi tiết, từ đôi môi mỏng mím lại khi đang đi trên đường, dẩu ra như cái mỏ khi lúi húi ghi chép. Từ đôi mắt sáng rực lúc nào cũng hết sức tập trung. Từ cái trán với cặp lông mày luôn nhíu lại hoặc nhướng lên, từ cái cổ gầy có những đường gân giật giật và yết hầu luôn đưa lên hạ xuống... Cảnh còn giống Don Quixote ở chỗ quần áo lôi thôi lếch thếch, bẩn thỉu, chân đất chân dép mà không hề để ý đến những lời trêu chọc hiện trạng ấy, bỏ ngoài tai tất cả, khinh bỉ tất cả và vẫn tiếp tục dòng suy nghĩ lao lung. Bởi vậy dù Cảnh thấp nhỏ, gầy gò, không có con ngựa Rốt xi năng dưới đít cũng không có ngọn giáo cầm tay, nhìn Cảnh người ta vẫn nghĩ ngay đến Don Quixote.
Theo sự phân công của chánh văn phòng, cứ sáng sáng, Cảnh lại xách hai chiếc phích sang căng tin lấy nước sôi (chị Nhuệ Lào giáp Cămpu che đã về hưu, tổng giám đốc giao luôn việc nấu nước phục vụ khối phòng ban cho căng tin, bớt đi được một biên chế), một phích cho phòng Điều, một phích cho phòng đánh máy văn thư. Thế là buổi uống trà đầu giờ ở phòng đánh máy văn thư được tổ chức. Phòng, Nhạn, Thám, Cảnh, Toàn và đôi khi một vài khách vãng lai như Lập, Vân, Vinh, cả Tuyên, Thịnh, Thu bên văn phòng đảng ủy. (Cũng cần nói rõ thêm Thu đây là cô Lã Thị Kim Thu, theo dõi hồ sơ và giữ dấu, chứ không phải ông Thu bí thư đảng ủy. Chính vì sự trùng tên này mà khi Quân rỗ báo vụ chuyển từ tàu nọ sang tàu kia, lấy giấy giới thiệu chuyển sinh hoạt Đảng, cầm tờ giấy bí thư Trần Ngọc Thu vừa ký xong, chưa bước ra khỏi cửa đã nói to cốt để ông bí thư Thu ngồi trong nghe tiếng: “Bác Thu giai ký rồi. Bây giờ đi gặp bác Thu gái đóng cái dấu nào!” Tất nhiên bảc Thu giai nghe rõ. Bác cũng chỉ góp một tiếng cười vào tiếng cười rộ lên của mọi người).
Trong những bữa uống trà đầu giờ tất cả thường tập trung trêu Cảnh. Ví như vừa mở phích rót nước, Thám bảo:
- Nước này không sôi rồi.
Cảnh đáp rất có lý:
- Cũng tùy. Ớ đây không sôi nhưng đem lên đỉnh Fansipan lại là nước sôi.
Thấy Cảnh mặc cái áo xét tô măng, Nhạn bảo:
- Lấy vợ già nó cho mình diện, thích thế đấy Cảnh ạ!
Cảnh rung đùi:
- Cũng có thể.
- Vợ Cảnh trẻ không?
- Không biết.
- Trẻ không hở?
- Còn xem đã.
Và đánh trống lảng:
- Hôm qua sếp Điều hỏi tôi có đi Hà Nội không? Tôi hỏi đi nhiệm vụ gì. Đúng không? Có phải cứ đi là đi đâu. Chiều qua sếp đi, không thấy hỏi gì nữa.
Thám lại hỏi:
- Cảnh cưới vợ đi mấy xe ô tô?
- Hai xe.
- Sướng nhỉ.
- Chả sướng.
- Mình làm mình ăn. Vợ làm vợ ăn.
- Còn nhiều chuyện lắm. Kể viết cũng được một quyển sách dày đấy.
Thám lại làm ra bộ thân mật:
- Thế đứa lớn làm sao chết?
Cảnh im lặng. Tất cả im lặng. Câu hỏi quá ác. Đó là một câu chuyện thương tâm. Cảnh cho con ăn bột, đứa trẻ bị sặc bột. Sợ quá, Cảnh đặt con xuống chiếu rồi đạp xe đến cơ quan, xin ý kiến bố cách giải quyết. Khi Cảnh và ông bố phóng ô tô vội về đến nhà thì đứa bé đã tắt thở, người tím ngắt lại.
- Nó là con gái hay con giai?
- Con giai.
Vẻ mặt Cảnh cố làm ra vẻ bình thản, nhưng vẫn thoáng đau đớn.
- Lúc ấy chỉ mỗi mình nó ở nhà thôi à?
- Ừ
- Lâu rồi nhỉ.
Lại một câu trả lời mang tính triết học:
- Cũng là tùy từng góc độ. Với người này là lâu. Với người khác là không lâu.
Cô Phòng thấy cần chuyển đề tài khác. Nói chuyện như thế thật nhẫn tâm. Cảnh không dở hơi đâu. Cảnh trả lời thế nghĩa là với Cảnh câu chuyện như chỉ mới xảy ra thôi. Và Cảnh vẫn còn đau đớn lắm. Anh em hỏi chẳng qua là phản ứng với ông Sinh, một trong những vị lãnh đạo thành phố, cái gì cũng phải xin ý kiến ông rồi mới được giải quyết. Cô làm ra vẻ tươi cười:
- Công nhận vợ Cảnh xinh thật.
Cảnh chỉ tủm tỉm cười. Nhạn nhắc nhở:
- Cảnh không đi kê lại bàn ghế hội trường à? Chiều nay họp rồi đấy.
- Làm phải có lệnh chứ. Tự nhiên làm, sao được. Mỗi cuộc họp kê một kiểu. Phải có sơ đồ. Cứ đúng sơ đồ mà làm. Lễ giao nhận vốn kê khác. Họp cán bộ chủ chốt kê khác. Hội nghị công nhân viên chức kê khác.
Suy nghĩ một lát, Cảnh ao ước:
- Giá có cái máy bấm một cái, bàn ghế tự động chạy đi theo ý mình thì thích nhỉ.
Tất cả cùng cười như muốn nói với nhau: “Lười lắm. Vua lười đấy. Cứ làm là ngại”. Thám chỉ vào một cuộn ống ni lông, bảo Cảnh:
- Giả đây nhé. Chiều qua mượn về nhưng không bơm được. Chầu chực cả ngày không lấy được tí nước nào. Nhà bây giờ chỉ còn nửa thùng nước thôi.
Cô Phòng bảo:
- Nhà em hôm qua cũng không có. Em nghĩ nhà mình không có thì nhà ông Thám gay go rồi.
Thám lắc đầu:
- Có. Nước chảy nhiều nhưng không sao tranh được. Mấy chục cái máy bơm cùng nổ, chỉ một tí là cạn bể. Quần áo một chậu đầy còn để đấy. Hôm nay về lại nửa chậu nữa.
- Sao không mang vào xí nghiệp mà giặt?
- Có lẽ mai phải mang đến đây thôi.
Nhạn bảo Cảnh:
- Cảnh kiểm tra lại ống đi. Thế nào ông Thám cũng cắt mất một đoạn rồi. Trùm mổ đấy. Rồi đi bơm nước đi.
Cảnh bảo:
- Chiều nay có mưa.
- Ai bảo? Ai bảo?
- Đài nói hay sao ấy. Chiều nay có dông.
Thám:
- Không bơm hở? Không bơm tớ đèo về, mượn ống đến thứ bảy mới giả đấy.
Cảnh đứng dậy, lăn ru lô, giở cuộn ống, bắt một đầu vào vòi nước. Lát sau từ vườn hoa vào, tủm tỉm cười bảo Thám:
- Ông ngắn thật. Trước nó dài tới chỗ treo pa nô mà bây giờ chỉ đến giữa vườn hoa thôi.
Nhạn cười:
- Đã bảo mà. Trùm mổ đấy. Cảnh chưa biết à?
Cảnh lại ra tưới vườn hoa một lúc rồi trở vào. Bàn trà đã giải tán. Mỗi người một việc. Chỉ còn Toàn. Cảnh ngồi xuống cạnh Toàn:
- Cỏ màu xanh k