← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4 01

Ngày hôm sau, Billy khởi động chiếc MacBook mới ở văn phòng trên tầng năm và tải xuống một ứng dụng đánh bài. Có hàng chục phiên bản khác nhau để anh có thể lựa chọn. Anh chọn Canfield và cài đặt máy tính tạm dừng năm giây trước mỗi lần đánh. Nếu Nick hay Giorgio theo dõi các hoạt động của anh trên chiếc máy tính này (Frankie Elvis cũng có thể là người đảm nhận nhiệm vụ ấy), họ sẽ không biết máy tính đang treo ở trạng thái chơi một người.

Billy bước đến cửa sổ và nhìn ra ngoài. Cả hai bên đường Court đều có xe đậu, trong đó có nhiều xe tuần tra của cảnh sát. Những chiếc bàn có tán ô che bên ngoài Sunspot Café đều chật ních người đang ăn bánh rán vòng và dân Đan Mạch. Có vài người đang bước xuống bậc thang tòa án nhưng số người đi ngược lên thì nhiều hơn. Vài người chạy bước kiệu, phô diễn sức bền của bản thân. Vài người khác thì lê bước nặng nề, khó nhọc. Những người này đều là luật sư, có thể biết được qua chiếc cặp hình hộp, cỡ lớn. Phiên tòa sẽ sớm diễn ra.

Như để nhấn mạnh thêm khung cảnh này, một chiếc xe buýt nhỏ – từng có màu đỏ nhưng giờ nhạt thành sắc hồng sau năm tháng – chạy chậm rãi trên con phố đông đúc, lăn bánh qua các bậc thang dẫn đến tòa án và dừng bánh bên ngoài cánh cửa nhỏ hơn ở phía cuối hông bên phải của tòa nhà lớn bằng đá. Cửa xe buýt mở ra. Một viên cảnh sát bước ra, sau đó là hàng loạt tù nhân trong bộ đồ liền thân và cuối cùng là một viên cảnh sát khác. Những tù nhân dàn hàng ngang trước mũi xe để cánh phóng viên có thể tác nghiệp. Cánh cửa lối đi dành cho nhân viên mở ra và những người mặc đồng phục cam bước vào trong, nơi họ chờ nghe cáo trạng. Thật thú vị, và cũng đáng để bỏ thời gian ra quan sát, nhưng Billy tin Nick đã nói đúng: khi Allen xuất hiện, hắn ta sẽ được hộ tống lên các bậc thang dẫn đến cửa chính. Không thành vấn đề. Cách bắn gần như tương tự nhau. Điều quan trọng là đường Court vô cùng nhộn nhịp trong ngày làm việc. Vào buổi chiều có thể sẽ có ít người ra vào hơn, nhưng hầu hết các phiên tòa đều diễn ra vào buổi sáng.

Anh luôn giỏi biến hóa khôn lường khi nói đến chuyện tẩu thoát ngay sau khi nổ súng, Nick đã nói như thế. Khi mọi chuyện đã rồi, thì anh cũng đã cao chạy xa bay từ lâu.

Anh nên làm vậy, bởi tẩu thoát là một phần cái giá mà bọn họ trả cho anh. Một phần lớn là đằng khác. Nick biết chắc việc sử dụng anh đem lại một số ích lợi nhất định nếu anh ta không thể thoát thân. Anh không có bạn bè hay người thân có thể ép anh – hoặc từng ép anh – khai ra tên người đã thuê anh. Và trong mắt Nick, anh cũng không được cho là người sáng lạn, nhưng Nick biết xạ thủ mà anh ta thuê đủ thông minh để nhận ra bản thân không thể đánh đổi một cái tên để giảm tội giết người lần thứ hai hay ngộ sát. Khi anh hạ một gã bằng súng trường từ tầng năm của một tòa nhà nơi anh đã thuê trước đó cả tuần cả tháng, việc buộc tội là điều không còn gì phải bàn cãi. Đó chắc chắn là hành động có mưu tính và chỉ kẻ sát nhân mới có ý định làm vậy ngay từ đầu.

Tuy nhiên, nếu Billy bị bắt, phía công tố có thể đưa ra một cáo buộc và Nick cũng biết rõ bản án này. Tử hình. Một ủy viên công tố thông minh có lẽ sẽ cho Billy một phát súng chí mạng ở Trại cải huấn Rincon thay vì một mũi tiêm. Nếu anh mở miệng. Billy cho rằng nếu mọi sự xảy ra theo hướng đó, anh vẫn có thể khiến Nick vô can. Anh có thể khai ra cái tên Ken Hoff, vì Hoff cũng chẳng thể sống lâu nếu bọn cớm bắt được Billy Summers đang tẩu thoát từ Tháp Gerard. Trạng chết, Chúa cũng băng hà thôi.

Billy có lẽ cũng chẳng thể sống lâu, thế nên cẩn tắc vô ưu. Anh có thể ngã lăn xuống một nhịp cầu thang nhà tù trong khi hai tay bị còng sau lưng. Anh có thể bị đâm trong khi tắm bằng bàn chải đánh răng nhọn hoặc bị tọng một bánh xà phòng vào họng. Anh có thể cầm cự trước một, hoặc cũng có thể là hai tên, nhưng cả đám ất ơ đường phố hoặc ba bốn tay từ People Nation [*] ư? Không. Và anh có muốn sống trong tù không? Cũng không nốt. Thà chết còn hơn bị cầm tù. Anh đoán Nick cũng biết điều đó.

Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu anh không bị tóm. Anh chưa bao giờ bị lọt vào tay lũ cớm, mười bảy lần đều ăn cả mười bảy, nhưng anh chưa bao giờ đối diện với một tình huống như thế này. Không phải nổ súng từ một con hẻm đã đỗ sẵn xe để chở anh đi, hay con đường thoát khỏi thị trấn nhanh nhất đã được đánh dấu cẩn thận.

Làm sao anh có thể biến mất sau khi nhắm bắn từ tầng năm của một tòa nhà văn phòng ở trung tâm thành phố, với cả toán cảnh sát của thành phố và quận ở ngay bên kia đường? Billy biết tình huống này trong phim sẽ diễn ra như thế nào: Kẻ nổ súng sẽ sử dụng thiết bị giảm thanh và triệt đèn flash. Đó không phải là một lựa chọn trong trường hợp này. Khoảng cách không xa lắm và anh không có thêm cơ hội thứ hai nếu bỏ lỡ cơ hội đầu tiên. Ngoài ra, sẽ có tiếng crack không lẫn vào đâu được lúc viên đạn phá vỡ hàng rào âm thanh. Thiết bị giảm thanh cũng không thể làm gì khác. Billy cũng có một vấn đề riêng: anh chưa bao giờ tin những thiết bị triệt thanh. Lắp thêm một thiết bị vào đuôi súng trường và mạo hiểm nhắm bắn. Vì vậy, tiếng crack sẽ rất to và dù không thể ngay lập tức xác định được kẻ nào đã bóp cò, nhưng một khi mọi người co rúm lại và ngước đầu nhìn lên, họ sẽ thấy một ô cửa sổ trên tầng năm xuất hiện một lỗ tròn nhỏ. Bởi chúng đều là những ô cửa sổ kín.

- Những vấn đề này không khiến Billy thoái chí mà ngược lại, chúng hấp dẫn anh một cách kì lạ. Viễn cảnh về một cuộc tẩu thoát nguy hiểm – bị khóa trong két sắt và ném xuống sông Đông, hoặc treo lủng lẳng từ một tòa nhà chọc trời trong một chiếc áo bó – hệt như Houdini. Billy chưa có kế hoạch rõ ràng, nhưng anh biết mình nên bắt đầu thế nào. Hai tầng đầu tiên của ga-ra đỗ nhiều xe hơn Irv Dean nói một chút, có lẽ bản án của phiên tòa hôm nay đặc biệt nặng tay, nhưng lúc Billy lên đến tầng bốn của hầm để xe, anh đã chọn được vị trí cho mình. Một chỗ riêng tư, ấy là nói theo cách khác, và riêng tư thì lúc nào cũng tuyệt. Billy chắc rằng đến Houdini cũng phải gật đầu đồng tình với anh về điểm này.

Anh quay trở lại bàn, nơi đặt chiếc MacBook Pro đắt tiền vẫn đang chơi Canfield. Anh mở máy tính xách tay của mình và truy cập Amazon. Amazon bán mọi thứ trên đời.

02

Một đoạn lề đường phía trước Tháp Gerard sơn dòng chữ ĐIỂM ĐỖ XE DÀNH RIÊNG.11 giờ 15 phút, một chiếc xe tải có mái lớn nhô ra tấp vào đó. Bên dưới mái che là dòng chữ JOSE’S EATS. Và bên dưới nữa là TODOS COMEN! Mọi người bắt đầu rời khỏi tòa nhà, đổ xô về phía chiếc xe tải như kiến bò về phía cục đường. Năm phút sau, một chiếc xe tải khác tiến đến, đậu trước chiếc xe tải vừa rồi. Một bên hông xe dán hình cậu bé hoạt hình cười toe toét khi cúi xuống một chiếc bánh mì kẹp thịt gấp đôi pho mát. Lúc 11 giờ 30 phút, trong khi mọi người đang xếp hàng để mua bánh mì kẹp thịt và khoai tây chiên, taco, enchilada thì một xe xúc xích xuất hiện.

Đến giờ ăn rồi, Billy nghĩ. Và cũng là lúc mình có thể gặp gỡ thêm nhiều hàng xóm.

Có bốn người đang chờ trước thang máy, ba đàn ông và một phụ nữ. Tất cả đều mặc đồ công sở và trông có vẻ cùng ở độ tuổi giữa ba mươi, người phụ nữ trẻ hơn cả. Billy đến đứng cùng họ. Một người hỏi liệu anh có phải nhà văn mới đến đây để tìm cảm hứng sáng tác không... như thể trước anh từng có một nhà văn nữa vậy. Billy giới thiệu bản thân. Họ cũng lần lượt làm vậy: John, Jim, Harry, Phyllis. Billy hỏi mọi người dưới đó có gì ngon thì John và Harry gợi ý anh chiếc xe Mexico. “Taco cá tuyệt hảo,” John nói. Jim nói bánh mỳ kẹp thịt ngon nhưng bánh vòng hành rất tuyệt. Phyllis nói cô sẽ chọn một chiếc bánh mì kẹp xúc xích cay kiểu Petie.

“Không có món nào hảo hạng cả đâu,” Harry nói. “Nhưng chúng vẫn ngon hơn mấy món gói trong túi màu nâu.”

Billy hỏi về quán cà phê bên kia đường và cả bốn người đều lắc đầu. Sự nhất trí đồng loạt như vậy khiến Billy phì cười.

“Tránh xa nó ra,” Harry nói. “Buổi trưa đông khủng khiếp.”

“Giá chát lắm,” John nói thêm. “Tôi không biết các nhà văn thế nào, nhưng khi anh làm việc cho một công ty luật mới thành lập, thì anh phải tằn tiện một chút.”

“Có nhiều văn phòng luật sư trong tòa nhà này không?” Billy hỏi Phyllis khi cánh cửa thang máy mở ra.

“Anh phải hỏi họ ấy,” cô đáp. “Tôi làm ở công ty Kế toán Crescent. Trả lời điện thoại và kiểm tra các tờ khai thuế.”

“Khá nhiều đấy. Một vài ở tầng ba và bốn, cả ở tầng sáu nữa. Tôi nghĩ có một công ty kiến trúc mới thành lập trên tầng bảy. Và một studio chụp ảnh trên tầng tám. Cho catalog.”

“Nếu nơi này là một chương trình truyền hình thì nên được đặt tên là Các luật sư tập sự . Các công ty lớn chủ yếu nằm ở tòa nhà cách đây hai hoặc ba dãy, phía bên kia tòa án trên phố Holland và Emery Plaza. Chúng tôi ở gần họ và hứng đầu thừa đuôi thẹo thôi.”

“Và đợi họ ngủm củ tỏi,” Jim để thêm. “Đám luật sư ấy đều có máu mặt cả, bận những bộ com-lê ba mảnh và trông như Boss Hogg [*] ấy.”

Billy nghĩ về tấm biển đặt phía trước: KHÔNG GIAN VĂN PHÒNG VÀ CĂN HỘ SANG TRỌNG CÓ SẴN. Có vẻ như nó đã ở đó một thời gian và giống như Hoff, nó mang một chút cảm giác tuyệt vọng nhất định. “Tôi đoán công ty của anh được hưởng chút lợi về hợp đồng cho thuê.”

Harry ra dấu tán thành bằng cách nắm tay lại với ngón cái chĩa thẳng lên trên. “Chính xác. Bốn năm với một mức giá không thể tin được. Và hợp đồng vẫn sẽ được tiếp tục ngay cả khi chủ tòa nhà này, tên anh ta là Hoff, phá sản. Chắc như đinh đóng cột. Điều này giúp chúng tôi, mấy chú nhóc trong ngành này, có thêm thời gian để tăng trưởng.”

“À mà,” Jim nói, “một luật sư mà gian lận hợp đồng thuế của chính mình thì cũng sớm phá sản thôi. Lỗ hà ra lỗ hổng thôi.”

Các luật sư trẻ mỉm cười. Phyllis cũng thế. Thang máy mở ra ở sảnh. Ba người đàn ông vội vàng bước ra ngoài mua đồ ăn. Còn Billy cùng Phyllis thì thong dong hơn. Nói giảm nói tránh thì cô ưa nhìn, còn thành thật mà nói thì thực tế cô rất xinh đẹp.

“Tôi tò mò vài chuyện,” anh lên tiếng.

Cô cười. “Đặc điểm không thể thiếu của nhà văn nhỉ? Trí tò mò ấy?”

“Chắc là vậy. Tôi thấy có rất nhiều người ăn vận giản dị. Giống như họ.” Anh chỉ tay về một cặp đôi vừa bước đến cửa. Anh chàng mặc quần jean đen và áo phông Sun Ra. Người phụ nữ đi cùng anh ta mặc chiếc áo khoác như để phô ra chiếc bụng bầu. Tóc cô ấy được buộc đuôi ngựa cẩn thận bằng một sợi dây chun đỏ. “Đừng nói với tôi hai người đó là luật sư hay kiến trúc sư tập sự nhé. Tôi đoán họ đến từ studio chụp ảnh, nhưng có nhiều người trông giống họ.”

“Họ làm việc ở Các giải pháp Kinh doanh ở tầng hai. Toàn sàn luôn. Đó là một công ty thu hồi nợ. Chúng tôi gọi họ là Các giải pháp Kinh doanh là có lý do cả.” Phyllis nhăn mũi như thể vừa ngửi thấy mùi hôi, nhưng Billy không bỏ lỡ cảm giác ghen tị trong giọng điệu của cô. Ăn diện để thành công thoạt đầu có thể thú vị, nhưng dần dần, nó trở thành một sự chậm chạp lề mề – đặc biệt là với phái nữ – một bộ tóc đẹp, trang điểm ưa nhìn và giày cao gót. Chắc hẳn người phụ nữ xinh đẹp làm việc cho công ty kế toán ở tầng năm này đôi lần có suy nghĩ sẽ nhẹ nhõm biết bao khi chỉ cần mặc một chiếc quần jean, khoác áo khoác ngoài, tô thêm chút son và như thế là đủ.

“Anh không cần phải ăn diện khi dành cả ngày làm việc qua điện thoại trong một văn phòng lớn với không gian mở. Các mục tiêu của anh sẽ không nhìn thấy anh khi anh yêu cầu họ hoặc là nhả tiền hoặc là ngân hàng siết nhà.” Nói đoạn cô dừng lại, e dè trước cửa, có vẻ trầm ngâm. “Tôi tự hỏi họ kiếm được bao nhiêu.”

“Tôi đoán cô không tính toán số má cho họ.”

“Anh đoán đúng đấy. Nhưng hãy nhớ đến chúng tôi nếu cuốn sách của anh thành công vang dội nhé, anh Lockridge. Chúng tôi là một công ty mới. Tôi nghĩ trong ví tôi có danh thiếp...”

“Không cần đâu,” Billy nói, đưa tay chạm cổ tay cô trước khi cô có thể thực hiện bất kỳ hành động lục lọi nghiêm túc nào trong ví mình. “Nếu sách bán chạy, tôi sẽ gõ từng cánh cửa và tìm đến công ty cô.”

Cô cười và thể hiện sự ngưỡng mộ qua nét mặt. Không thấy cô đeo nhẫn đính hôn hay nhẫn cưới, Billy nghĩ nếu có một cuộc đời khác, đây chính là lúc anh mở lời mời cô đi uống nước sau giờ làm việc. Cô có thể từ chối, nhưng ánh mắt dưới hàng mi cùng nụ cười khiến anh nghĩ rằng cô có thể đồng ý cũng nên. Nhưng anh sẽ không làm thế. Gặp gỡ mọi người, ổn thôi. Nhận và trao đi sự cảm mến, được. Nhưng đừng quá thân mật. Đó là một ý tưởng tồi. Như vậy rất nguy hiểm. Có thể điều này sẽ thay đổi sau khi anh rửa tay gác kiếm.

03

Billy mua một chiếc bánh mỳ kẹp, băng qua khuôn viên và ngồi xuống băng ghế dài cạnh luật sư Jim, tên đầy đủ của anh ta là Jim Albright. “Anh thử cái này đi,” Jim nói và đưa cho anh một chiếc bánh vòng hành chiên giòn. “Ngon xỉu.”

Đúng vậy thật. Billy nói mình phải mua một ít mới được và Jim Albright cảm thán Trời ơi, chuẩn luôn. Billy nhận được một thuyền giấy nhỏ đựng bánh vòng hành cùng vài gói tương cà và quay lại ngồi với Jim.

“Vậy, cuốn sách của anh viết về chủ đề gì vậy, Dave?”

Billy đặt một ngón tay lên môi. “Bí mật.”

“Ngay cả khi tôi đã ký một thỏa thuận giữ bí mật ư? Johnny Colton chuyên mảng đó đấy.” Anh ta chỉ tay về phía một đồng nghiệp của mình đang đi ngang qua xe bán đồ Mexico.

“Kể cả vậy.”

“Tôi ngưỡng mộ sự thận trọng của anh đấy. Tôi cứ nghĩ các tác giả thích nói về con cưng của họ chứ.”

“Tôi nghĩ người nào nói nhiều thì thường không viết nhiều,” Billy nói, “nhưng vì tôi là nhà văn duy nhất mà tôi thực sự biết nên tôi chỉ đoán vậy thôi.” Sau đó, anh có hành động không hẳn là đánh trống lảng: “Này, nhìn chàng trai chỗ xe bán xúc xích kìa. Đó không phải trang phục thường ngày mà người ta vẫn mặc.”

Người đàn ông mà anh chỉ tay đã nhập nhóm với các đồng nghiệp của mình ở xe bán đồ ăn Mexico. Dù lẫn trong số các nhân viên Các giải pháp Kinh doanh, nhưng anh chàng này hoàn toàn nổi bật. Anh ta bận quần vải dù vàng khiến Billy nhớ đến thời thơ ấu của mình ở Tennessee, vài người dân trong thị trấn sẽ mặc đồ như vậy khi tham dự các buổi khiêu vũ diễn ra vào tối thứ Sáu tại sân vận động Rollerdome. Phối cùng chiếc quần nổi bật là một chiếc sơ mi họa tiết cánh hoa cổ cao, giống kiểu áo mà nhóm nhạc rock người Anh Invasion mặc trong các video cũ của họ trên YouTube. Hoàn thiện bộ trang phục là một chiếc mũ tròn có vành, để lộ mái tóc đen mượt dài đến chấm vai.

Jim cười. “Đó là Colin White. Trông khá thời trang đúng không? Một gã đồng bóng và tưng tửng như một chiều Chủ nhật ở Paris. Hầu hết mọi người ở Các giải pháp Kinh doanh đều co cụm. Kiếm sống nhờ siết nợ không khiến họ trở nên nổi tiếng và họ biết điều đó, nhưng Colin là một người giao thiệp rộng,” Jim lúc lắc đầu. “Ít nhất là vào bữa trưa. Tôi thắc mắc không biết anh ta sẽ thế nào khi bước vào guồng quay của công việc, dồn ép những quả phụ và những người chới với trong hôn nhân để vét những đồng xu cuối cùng của họ. Chắc anh ta cũng giỏi việc vì với một công ty mà tỷ lệ thay đổi nhân sự diễn ra liên tục như thế, anh ta còn làm ở đây lâu hơn cả tôi.”

“Bao lâu vậy?”

“Khoảng mười tám tháng. Thỉnh thoảng Col mặc váy nam đi làm. Tôi nói nghiêm túc đấy nhé! Có lúc thì khoác áo choàng không tay. Anh ta cũng diện trang phục kiểu Michael Jackson – anh biết đấy, sĩ quan kỵ binh đeo khăn quàng cổ và dàn cúc đồng?”

Billy gật đầu. Colin White giờ đang cầm trên tay một hộp các tông đựng vài chiếc bánh rán vòng. Anh ta dừng lại để nói chuyện với Phyllis, và anh ta nói gì đó khiến cô quay đầu lại và cười.

“Anh ta là một con búp bê,” Jim nói, sự chân thành hiện rõ trong giọng điệu của anh.

Phyllis bước chậm và nhập hội với vài phụ nữ khác. Nhóm người ban nãy tụ tập với Colin White cũng xích lại nhường chỗ cho anh ta. Trước khi ngồi xuống, anh ta đẩy một chân ra sau, thực hiện cú xoay người nhanh chóng mà có lẽ Người đàn ông đeo găng [*] hẳn cũng tự hào. Billy như sực tỉnh. Thêm một phần nữa trong kế hoạch. Tầng bốn trong hầm để xe, thêm máy tính xách tay, và bây giờ là cả Colin White nữa. Một con chim sở hữu bộ lông quý.

04

Chiều hôm đó, anh cài chiếc MacBook Pro tự động chơi bài kipbi, với độ trễ năm giây trước mỗi lần di chuyển của Người chơi 1. Anh cũng thiết lập sẵn để Người chơi 2 đánh bại Người chơi 1. Màn kịch này nên được thiết lập trong vòng một giờ hoặc hơn. Sau đó, anh sạc pin cho Mac và truy cập vào Amazon đặt mua hai bộ tóc giả: một bộ tóc ngắn màu vàng và một bộ tóc dài màu đen. Nếu là ở trong hoàn cảnh khác, anh sẽ đề địa chỉ hòm thư trước tòa nhà, nhưng với công việc này thì chẳng ích gì, khi David Lockridge sẽ được nhận dạng là kẻ nổ súng trước khi mặt trời lặn vào ngày vụ việc xảy ra.

Xong xuôi chuyện tóc giả, anh đặt một trong những cuốn sổ Staples bên cạnh chiếc máy tính xách tay của mình và bắt đầu thăm thú những ngôi nhà và căn hộ cho thuê qua màn ảnh nhỏ. Anh tìm thấy vài nơi tiềm năng, nhưng bất kì cuộc điều tra nào cũng sẽ phải đợi ở đó cho đến khi anh nhận được gói hàng của mình từ Amazon.

Anh hoàn thành chuyến săn-nhà-ảo của mình vào lúc 2 giờ chiều, quá sớm để kết thúc một ngày. Đã đến lúc bắt tay vào viết. Anh nghĩ về điều này khá nhiều. Lúc đầu, anh định sẽ dùng chiếc máy tính cũ của mình để viết. Việc sử dụng Mac Pro có thể có nghĩa là sếp anh – và cũng có thể là “đại diện văn chương” của anh – có thể đọc được, điều này khiến anh nghĩ đến màn hình viễn thông năm 1984. Nick và Giorgio có nghi ngờ nếu theo dõi mà không thấy bất kì chữ nào được gõ ra không? Billy cho rằng có. Họ sẽ không nói gì nhưng có lẽ họ sẽ nghĩ Billy biết rình mò và hack hơn hai người họ.

Và còn một lý do khác để anh bắt tay vào viết lách trên chiếc Mac Pro, mặc dù nó có thể bị đọc trộm. Đây là một thử thách. Anh thực sự có thể khắc họa cuộc đời bản thể ngờ nghệch của chính mình thông qua những câu từ không? Mạo hiểm, nhưng anh nghĩ mình sẽ làm được. Faulkner đã viết The Sound and The Fury. Flowers for Algernon của Daniel Keyes là một ví dụ khác. Và có thể còn nhiều ví dụ khác nữa.

Billy thoát chế độ tự động chơi bài kipbi và mở phần mềm soạn thảo văn bản. Anh đặt tiêu đề là Câu chuyện của Benji Compson. Anh lặng thinh vài giây, ngón tay gõ nhẹ lên ngực mình và nhìn vào màn hình trống.

Đây là một sự mạo hiểm điên rồ, anh nghĩ.

Đây là vụ cuối cùng mà , anh nghĩ và bắt đầu gõ câu mà anh đã giữ trong đầu chỉ để cho dịp này.

Gã đàn ông mà mẹ tôi sống cùng đã về nhà với một cánh tay bị gãy.

Anh đăm đăm nhìn dòng chữ mình vừa gõ trong gần một phút, sau đó gõ lại.

Tôi thậm chí không thể nhớ ra tên gã. Nhưng gã đã nổi xung lên. Tôi đoán gã hẳn vừa từ bệnh viện về vì cánh tay gãy đã được bó bột. Em gái tôi

Billy lắc đầu và sửa lại cho hay hơn. Anh nghĩ vậy.

Người đàn ông mà mẹ tôi sống cùng đã trở về nhà với một cánh tay bị gãy. Tôi đoán gã hẳn vừa từ bệnh viện về vì cánh tay gãy đã được bó bột. Em gái tôi tập tọe nướng bánh quy trong bếp nhưng lại làm chúng cháy đen thui. Tôi đoán con bé chắc quên canh thời gian. Khi về nhà, gã nổi xung lên. Gã đã giết em gái tôi nhưng tôi thậm chí còn không thể nhớ ra tên gã.

Anh nhìn vào những gì vừa viết và nghĩ anh có thể làm được điều này. Hơn nữa, anh muốn thế. Trước khi bắt tay vào viết, anh đã nói Có, mình vẫn nhớ những gì đã xảy ra, nhưng chỉ một ít . Chỉ đến lúc này anh mới nhớ thêm. Một đoạn ngắn đó thôi cũng đã mở khóa một cánh cửa và mở ra một ô cửa sổ. Anh nhớ mùi đường cháy, thấy khói bốc ra từ lò nướng, bim bim khoai tây ở cạnh bếp, hoa khô trong tách trà đặt trên bàn và một đứa trẻ nào đó ở bên ngoài đang hô vang “One p’tater two p’tater three p’tater four [*] ”. Anh nhớ tiếng ủng nặng nề của gã nện lên bậc thềm lúc về nhà. Gã đàn ông đó, gã bạn trai đó. À anh nhớ ra rồi. Gã là Bob Raines. Anh nhớ lúc nghe thấy tiếng gã đấm mẹ, anh đã nghĩ, Bob đang trút. Bob đang trút lên mẹ [*] . Anh nhớ sau đó bà đã mỉm cười và nói rằng Chú ấy không cố ý làm thế. Và đó là lỗi của mẹ.

Billy tiếp tục viết trong một tiếng rưỡi sau đó, anh còn muốn viết nữa nhưng phải kiềm chế. Nếu Nick, Giorgio hay Elvis đang xem trộm, họ phải thấy một bản thể ngờ nghệch đang chậm rãi lê bước. Cố gắng viết từng câu một. Ít nhất thì anh không phải cố tình viết sai chính tả, những lỗi nào mà máy tính không tự động sửa được sẽ được gạch chân màu đỏ.

Đến 4 giờ, Billy lưu lại những gì mình đã viết và tắt máy. Anh thấy mình đang mong chờ sẽ có ý tưởng để viết tiếp vào ngày mai.

Suy cho cùng, có lẽ anh cũng là một nhà văn thật.

05

Lúc về Midwood, Billy thấy trên cửa nhà ghim một tờ giấy nhắn. Đó là một lời mời thưởng thức món sườn nướng salad bắp cải và bánh kem nhân anh đào của gia đình Ragland ở cuối phố. Anh đến tham gia vì không muốn bị coi là không thân thiện, nhưng không mấy mặn mà, mong đợi vài câu chuyện phiếm bên mấy lon bia về chuyện nọ chuyện kia. Anh sững sờ khi phát hiện ra Paul và Denise Ragland đã bỏ phiếu cho Hillary Clinton và không thể chịu đựng nổi Trump, người mà họ gọi là “Tổng thống Mè nheo”. Thêm một bằng chứng nữa chứng minh, Billy nghĩ trên đường trở về nhà, rằng đừng có trông mặt mà bắt hình dong.

Anh vùi đầu vào một chương trình trên Netflix có tên là Ozark và khi đang định chuyển sang tập ba thì điện thoại của anh – David Lockridge – báo có tin nhắn. George Russo, người đại diện chu đáo, muốn biết ngày đầu tiên của anh thế nào.

DLock: Khá tốt. Tôi đã bắt tay vào viết.

GRusso: Tốt quá. Chúng tôi sẽ biến anh trở thành tác giả sách bán chạy nhất. Anh có thể ghé qua vào tối thứ Năm không? 7 giờ tối, dùng bữa thôi. N muốn nói chuyện với anh.

Vậy là Nick vẫn còn ở thị trấn, và có thể đang bù khú cờ bạc.

DLock: Được. Nhưng không có H.

GRusso: Chắc chắn không.

Thế thì tốt. Billy nghĩ anh có thể sống lâu và chết vui nếu không bao giờ phải gặp gã Ken Hoff kia thêm lần nào nữa. Anh tắt ti-vi và leo lên giường. Anh dễ dàng chìm vào giấc ngủ, và vào một thời điểm nào đó ngay trước lúc bình minh vừa ló rạng, anh cũng mê mải chìm trong ác mộng. Anh sẽ viết ra điều này vào ngày mai, bằng cái tên Benjy Compson. Thay tên để bảo vệ một người phạm tội.

06

Người đàn ông mà mẹ tôi sống cùng đã trở về nhà với một cánh tay bị gãy. Tôi đoán gã hắn vừa từ bệnh viện về vì cánh tay gãy đã được bó bột. Em gái tôi tập tọe nướng bánh quy trong bếp nhưng lại làm chúng cháy đen thui. Tôi đoán con bé chắc quên canh thời gian. Khi về nhà, gã nổi xung lên. Gã đã giết em gái tôi nhưng tôi thậm chí còn không thể nhớ ra tên gã. Vừa vào nhà gã đã quát tháo om sòm. Lúc đó, tôi đang nằm trên sàn chiếc xe moóc, xếp bộ ghép hình 500 mảnh bức tranh hai chú mèo con vờn một quả bóng len. Tôi có thể ngửi thấy mùi rượu của gã sộc lên át cả mùi khét từ những chiếc bánh quy cháy và sau đó mới phát hiện ra gã đã ẩu đả ở quán rượu Wally. Chắc hẳn gã đã xơi no đòn vì một bên mắt gã tím bầm. Em gái tôi

Tên của con bé là Catherine, dù đây không phải là cái tên mà anh sẽ nhắc đến – gần như không bao giờ. Catherine Ann Summers, qua đời khi chỉ mới chín tuổi. Tóc vàng. Nhỏ nhắn.

Em gái Cassie của tôi đang ngồi ở bàn ăn, hí húi tô màu. Hai ba tháng nữa là con bé sẽ tròn 10 tuổi và nó đang háo hức bước sang tuổi có hai chữ số, còn tôi được giao nhiệm vụ trông em.

Gã bạn trai của mẹ tôi rên lên rồi đưa tay xua khói ngay khi bước vào nhà, hỏi mày đã làm gì, mày đã làm gì hả và Cathy

Billy xóa vội từ này, hy vọng không ai nhìn thấy nó ngay tức thì.

Cassie nói cháu đang nướng bánh, cháu đoán chúng cháy hết cả rồi cháu xin lỗi. Và gã nói mày là một con nhỏ khốn khiếp ngu ngốc tao không nghĩ là mày lại ngu thế. Gã mở cửa lò nướng và nhiều khói hơn nữa thoát ra ngoài. Nếu nhà chúng tôi có thiết bị cảm biến khói thì kiểu gì nó cũng kêu lên inh ỏi rồi nhưng căn nhà lưu động làm từ toa xe moóc này không có thứ như thế. Gã cầm một chiếc khăn lau bát đĩa và phật nó vào làn khói. Gã đưa tay vào lấy khay bánh quy ra. Gã túm nó bằng bên tay lành lặn nhưng chiếc khăn lau bị trượt và thế là gã bị phỏng tay còn những chiếc bánh quy mà tôi đã giúp Cassie tạo hình lúc này vương vãi khắp sàn. Cassie bước tới để nhặt chúng lên và đó là lúc gã bắt đầu giết con bé. Hoặc có lẽ con bé chết ngay khi gã tóm con bé ném ngược về phía sau khiến cả người nó đập vào tường. Nhanh như chớp, nhưng có lẽ con bé vẫn còn sống cho đến khi gã bắt đầu đá nó bằng đôi bốt gã luôn mang mà mẹ tôi hay gọi là bốt hầm hố.

Đừng giết em ấy tôi hét lên nhưng gã không làm thế cho đến khi tôi gào lên dừng lại đi đồ khốn khiếp đồ hèn hạ đồ khốn khiếp ĐỪNG LÀM ĐAU EM TAO. Vì vậy, tôi chồm đến và gã đẩy tôi ngã sống soài

Billy đứng dậy và bước đến phía cửa sổ của văn phòng mà bây giờ anh cho là phòng sáng tác. Mọi người bước lên và xuống các bậc thang dẫn lên tòa án, nhưng anh không nhìn họ. Anh bước vào căn bếp nhỏ rót cho mình một cốc nước. Nước hơi sánh ra ngoài vì tay anh khẽ run. Chúng không run khi anh bóp cò, chúng luôn chắc như đá, vậy mà lúc này lại vậy. Không nhiều lắm, nhưng đủ khiến nước tràn ly. Miệng anh khô khốc và anh khát khô cổ, vì thế anh nốc cạn cốc nước vừa rót.

Anh nhớ lại mọi thứ và chợt cảm thấy xấu hổ. Anh sẽ bỏ đoạn tả anh chồm đến Bob Raines, bởi anh phóng tác quá đà so với thực tế, tới mức gần như không thể chịu nổi. Anh đã chẳng thể làm gì Bob Raines trong khi gã đá cô em gái bé bỏng của anh, giẫm rồi nghiền nát bộ ngực mỏng manh của con bé. Billy được giao nhiệm vụ chăm sóc em. Trông chừng em nhé là lời dặn dò mà mẹ luôn nói mỗi khi rời nhà đến tiệm giặt là để làm việc. Nhưng anh đã không thể chăm sóc em gái mình. Anh đã bỏ chạy. Anh bỏ chạy để thoát thân.

Nhưng mình vẫn luôn đau đáu chuyện đó mãi về sau, Billy nghĩ khi quay trở lại bàn bên chiếc máy tính. Chắc chắn là như vậy, vì mình đâu có chạy về phòng của hai anh em.

“Mình chạy về phòng họ,” Billy nói và viết tiếp.

Vì vậy, tôi chồm về phía gã và gã đẩy tôi ngã sõng soài. Tôi lầm cồm bò dậy và chạy về phía phòng của họ ở cuối xe moóc và đóng sầm cửa lại. Gã ngay lập tức đập cửa, gọi tôi bằng đủ thứ tên và nói rằng Benjy nếu mày không mở cửa tao sẽ đập cho mày tuốt xác. Chỉ mình tôi biết việc tôi có mở cửa hay không không quan trọng vì gã sẽ giết tôi như đã làm với Cassie. Bởi em ấy chết rồi, ngay cả một đứa nhóc 11 tuổi cũng biết được điều đó.

Gã bạn trai của mẹ tôi từng đi lính và ở cuối giường gã có một cái rương nhỏ đựng đồ được phủ chăn lên trên. Tôi lột tấm chăn và mở cái rương đó ra. Có một ổ khóa nhỏ nhưng lúc nào cũng để mở. Nếu không tôi đã mất xác rồi chứ nói gì đến chuyện ngồi viết những dòng này. Và nếu khẩu súng đó của gã không được nạp sẵn đạn thì tôi cũng phải chết nhưng tôi biết điều này vì gã đã nạp sẵn đạn để đề phòng trộm đột nhập.

Trộmmmmm , Billy nghĩ. Chúa ơi, mọi chuyện sao cứ trở lại thế này.

Gã đập cửa như thể tôi khá chắc chắn rằng gã sẽ

Không chắc chắn lắm , Billy nghĩ, mình biết . Cánh cửa chỉ là một tấm ván ọp ẹp. Cathy và anh nghe thấy tiếng động phát ra từ phòng hai người họ mỗi đêm. Sẽ là vào buổi chiều, nếu mẹ về nhà sớm. Nhưng đây là một chi tiết hư cấu khác mà anh sẽ để lại.

và khi gã xông vào, tôi đang ngồi dựa lưng vào chân giường còn nòng súng chĩa thẳng về phía gã. Đó là một khẩu M9X19 có vòng bi chứa 15 viên đạn Parabellum. Tất nhiên tôi không biết điều đó nhưng tôi biết khẩu súng rất nặng và tôi phải ghì chặt nó bằng hai tay trước ngực. Gã bảo đưa cái đó cho tao thứ vô dụng mày không biết trẻ con không được chơi súng à.

Sau đó tôi bắn gã, một phát giữa ngực. Gã vẫn đứng chết trân ở ngưỡng cửa như không có chuyện gì xảy ra nhưng tôi biết mình đã làm được vì thấy máu túa ra từ lưng gã. Khẩu M9 giật ngược vào ngực tôi

Billy nhớ anh đã thét lên một tiếng A! rồi nấc lên. Sau này có một vết bầm lớn trên xương ức của anh ở đúng vị trí đó.

và gã gục xuống. Tôi bước đến chỗ gã và tự nhủ rằng tôi có thể bắn gã thêm phát nữa. Nếu cần tôi sẽ làm. Gã là nhân tình của mẹ nhưng gã đã hành động thật bẩn thỉu. Gã là một tên khốn

“Ngoại trừ việc hắn đã chết,” Billy nói. “Bob Raines tắc thở rồi.”

Anh thoáng nghĩ đến việc xóa mọi thứ mình vừa viết, chuyện này thật tồi tệ, nhưng thay vào đó, anh lưu chúng lại. Anh không biết những người khác nghĩ gì, nhưng với anh thì ổn. Và ổn khi chuyện đó khủng khiếp, bởi khủng khiếp đôi khi mới thật. Anh đoán lúc này anh đã thực sự là một nhà văn, bởi đó là suy nghĩ của nhà văn. Émile Zola có lẽ cũng đã nghĩ tương tự khi viết Thérèse Raquin , hoặc khi Nana bị ốm và vẻ đẹp của nàng chết dần chết mòn.

Mặt anh nóng bừng. Anh quay trở lại nhà bếp và táp nước vào mặt, sau đó đứng dựa lưng vào bồn rửa nhỏ với đôi mắt nhắm nghiền. Kí ức về việc bắn Bob Raines không làm anh bận tâm, nhưng anh đau đớn khi nhớ đến Cathy.

Trông chừng em nhé.

Viết thật tốt. Anh luôn muốn làm vậy, và giờ anh đã làm được. Chuyện này thật tốt. Nhưng ai mà biết việc đó gây tổn thương và đau đớn nhiều đến nhường nào?

Điện thoại cố định đổ chuông khiến anh giật bắn mình. Irv Dean gọi đến, bảo anh có một kiện hàng được gửi từ Amazon. Billy trả lời mình sẽ xuống lấy ngay.

“Anh bạn, công ty đó bán đủ thứ trên đời,” Irv nói.

Billy đồng ý, nghĩ thầm Ông không biết nửa còn lại rồi.

07

Không phải tóc giả, ngay cả với dịch vụ vận chuyển hỏa tốc của Amazon thì phải ngày mai nó mới được giao đến nơi. Thứ anh nhận được hôm nay sẽ nằm gọn lỏn trong cái hốc kín đáo trên cánh cửa giữa phòng làm việc và nhà bếp, nhưng Billy không định cất nó ở đó; mọi đơn hàng trên Amazon của anh sẽ được đưa về căn nhà màu vàng ở Midwood.

Anh mở hộp và lần lượt lấy ra từng món. Gói hàng từ công ty trách nhiệm hữu hạn Fun Time ở Hồng Kông gồm một bộ ria mép làm từ tóc thật. Màu vàng, tiệp với màu một bộ tóc giả mà anh đã đặt. Hơi dày một chút, nhưng không sao, anh sẽ tỉa nó khi dùng. Anh muốn ngụy trang, nhưng không cần quá nổi bật. Món đồ tiếp theo là một cặp kính gọng sừng với tròng trong suốt. Toàn mấy món hiếm có khó tìm. Bạn có thể mua kính ở bất kỳ hiệu thuốc nào, nhưng thị lực của Billy là 20/10 và thậm chí độ phóng đại nhẹ thôi cũng khiến anh đau đầu. Anh thử đeo chúng và thấy hơi lỏng. Anh có thể vít chúng chặt lại, nhưng sẽ không làm vậy. Kính hơi trượt xuống mũi khiến anh phần nào trông tri thức hơn.

Cuối cùng, món đồ đắt tiền nhất, cũng là thứ quan trọng nhất . Đó là một chiếc bụng bầu bằng silicon, bán đầy trên Amazon nhưng được sản xuất bởi một công ty có tên là MomTime. Nó đắt vì có thể điều chỉnh được, cho phép người dùng có thể tạo hình bụng bầu từ sáu đến chín tháng. Có một dây đai Velcro. Billy biết những cái bụng giả này là một công cụ trộm cắp khét tiếng, nhân viên an ninh ở những cửa hàng lớn đều được yêu cầu phải cảnh giác cao độ, nhưng Billy không đến thành phố nhỏ này để ăn cắp, và cũng không có người phụ nữ nào sẽ đeo nó khi thời điểm đến.

Mà đây là công việc của anh.