← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5 01

Tối thứ Năm, Billy đến McMansion sớm hơn giờ hẹn một chút, trước 7 giờ. Anh đã đọc được ở đâu đó rằng một vị khách lịch sự là người đến sớm năm phút, không hơn không kém. Paulie là người đón anh. Nick lại một lần nữa chờ trong hành lang ở lối cửa ra vào, do đó có thể khuất tầm nhìn của bất kỳ máy bay không người lái nào của cơ quan hành pháp – không chắc nhưng không phải là không thể. Anh ta cười hết cỡ, hai tay giang rộng để ôm Billy.

“Thực đơn hôm nay là bít tết thăn nội. Tôi có một đầu bếp, tôi không biết anh ta đang làm gì ở thị trấn nhạt thếch này, nhưng anh ta rất tuyệt. Anh sẽ thích món đó cho mà xem. Và đừng ăn quá nhiều nhé, vì còn những món khác nữa.” Nick níu cánh tay anh và hạ giọng như nói thầm. “Tôi nghe nói còn có món Baked Alaska [*] đấy. Anh hẳn chán ngấy mấy món lò vi sóng rồi đúng không?”

“Đúng vậy,” Billy trả lời.

Lúc này thì Frank xuất hiện. Trong chiếc sơ mi hồng và khăn ascot buộc gọn dưới cằm, mái tóc bóng lộn chải ngược và vuốt chỏm cao chẳng khác nào Eddie Munster, anh ta trông hệt như một tay lưu manh trong những bộ phim xã hội đen, kẻ mà sẽ phải bỏ mạng đầu tiên. Anh ta bê một khay đặt vài ly thủy tinh cùng một chai lớn màu xanh bên trên. “Sâm panh. Mote & Shadon.”

Frank đặt khay xuống và nới lỏng nút khỏi cổ chai. Không có tiếng nổ hay rượu trào ra. Frankie Elvis có lẽ không biết tiếng Pháp, nhưng kỹ thuật mở và rót rượu của anh ta thì không chê vào đâu được.

Nick nâng ly. Những người khác cũng làm tương tự. “Uống vì thành công của chúng ta!”

Billy, Paulie và Frank cụng ly rồi nhấp từng ngụm. Vị sâm panh ngay lập tức khiến Billy dễ chịu, nhưng anh từ chối uống thêm một ly. “Tôi phải lái xe. Không muốn bị chặn lại.”

“Billy là vậy đấy,” Nick nói với những người bạn của mình. “Lúc nào cũng nghĩ trước hai bước trong đầu.”

“Ba mới phải,” Billy chỉnh, và Nick cười như thể đây là điều hài hước nhất mà anh ta nghe được kể từ khi Henny Youngman [*] qua đời. Những người bạn của anh ta cũng cười góp theo.

“Được rồi,” Nick lên tiếng. “Nhâm nhi chút rượu như vậy là đủ rói. Mangiamo, mangiamo [*] .”

Đây là một bữa ăn ngon, khai vị với súp hành kiểu Pháp, món chính là thịt bò ướp rượu vang đỏ và kết thúc với món Baked Alaska như đã hứa. Bữa tối được phục vụ bởi một người phụ nữ xinh đẹp trong bộ đồng phục màu trắng, ngoại trừ món tráng miệng. Đầu bếp mà Nick thuê quay trở lại trước những tràng pháo tay và những lời khen ngợi như mong đợi, gật đầu cảm ơn rồi rời đi.

Nick, Frank và Paulie nói chuyện, chủ yếu là về Vegas: ai đang chơi ở đó, ai đang xây dựng nó, ai đang tìm kiếm giấy phép hoạt động kinh doanh cho casino. Như thể mấy người đều không biết Vegas đã lỗi thời rồi vậy, Billy nghĩ. Mà cũng có thể không thật. Không thấy Giorgio đâu. Khi nữ nhân viên phục vụ bước vào mang theo rượu hương sau bữa tối, Billy lắc đầu. Nick cũng vậy.

“Marge, bà và Alan có thể rời đi rồi,” Nick nói. “Bữa ăn rất tuyệt.”

“Cảm ơn anh, nhưng chúng tôi mới chỉ bắt đầu dọn dẹp...”

“Chúng tôi sẽ lo vụ đó vào ngày mai. Đây. Đưa cho Alan nhé. Phí đi lại, ông già của tôi chắc cũng nói qua rồi.” Nói đoạn Nick dúi vào tay bà vài tờ tiền. Bà ta khẽ đáp mình sẽ làm vậy rồi quay người rời đi. “Và này, Marge?”

Bà ta quay lại.

“Bà không hút thuốc trong nhà chứ?”

“Tôi không.”

Nick gật đầu. “Đừng nán lại nhé, được chứ? Billy, tôi và anh vào phòng khách buôn bán chút nhé. Còn mọi người, hãy tìm việc gì đó để làm đi.”

Paul chào Billy bằng cách nói thật tuyệt khi được gặp anh rồi bước ra cửa trước. Frank theo Marge vào bếp. Nick thả khăn ăn xuống cạnh đĩa tráng miệng còn thừa và dẫn Billy vào phòng khách. Lò sưởi ở một đầu đủ lớn để nướng nguyên con quái vật nửa người nửa bò trong truyền thuyết Hy Lạp. Ở các hốc đặt một số bức tượng và bức bích họa trên trần nhà trông chẳng khác nào phiên bản tranh khiêu dâm của Nhà nguyện Sistine.

“Đẹp chứ?” Nick hỏi, đưa mắt liếc nhìn quanh.

“Chắc chắn rồi,” Billy đáp, thầm nghĩ nếu anh phải dành nhiều thời gian trong căn phòng này thì khéo có khi anh thần kinh mất.

“Ngồi xuống đi, Billy, ngồi xuống cho thoải mái.”

Billy làm theo. “Giorgio đâu? Anh ta về Vegas rồi à?”

“Chà, có thể,” Nick nói, “hoặc cũng có thể ở New York hay Hollywood để trao đổi với vài nhà làm phim về cuốn sách tuyệt vời mà anh ta đang là người đại diện.”

Ý anh ta là đừng tọc mạch chứ gì, Billy nghĩ. Theo một cách nào đó, điều này cũng đúng. Suy cho cùng, anh cũng chỉ là người được thuê. Kẻ được gọi là một xạ thủ trong mấy bộ phim viễn Tây cũ mà Ông Stepenek từng rất thích.

Nghĩ đến Stepenek khiến anh liên tưởng đến hàng nghìn chiếc xe hơi cũ nát – dù sao thì đối với một đứa nhóc, phải đến hàng nghìn thật – những ô kính chắn gió vỡ nứt lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đã bao năm rồi kể từ lần cuối anh nghĩ đến bãi ô tô cũ đó rồi nhỉ? Cánh cửa dẫn anh trở ngược về quá khứ đã hé ra rồi. Anh có thể đóng, chốt và khóa chặt nó lại, nhưng anh không muốn thế. Hãy cứ để gió lùa vào. Tuy hơi lạnh nhưng trong lành, và căn phòng anh đang sống ngột ngạt không chịu nổi.

“Này, Billy,” Nick búng ngón tay trước mặt anh. “Tỉnh táo lại đi Billy!”

“Tôi đây!”

“Ừ hử? Sao bần thần thế? Nghe này anh bạn, anh có đang thực sự viết gì đó không?”

“Tôi có,” Billy đáp.

“Chuyện có thật hay hư cấu?”

“Bịa thôi.”

“Không phải về Archie Andrews và những người bạn của anh ta chứ?” Nick mỉm cười.

Billy lắc đầu, mỉm cười đáp lại.

“Người ta nói rằng có rất nhiều tác giả đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên dựa trên những trải nghiệm của chính họ. ‘Viết những gì bạn biết’, tôi nhớ câu đó là từ tiếng Anh nâng cao. Paramus High, go Spartans . Anh cũng thế à?”

Billy đưa một tay lên và làm động tác bập bênh. Sau đó, như thể vừa nảy ra ý tưởng, anh nói: “Này, anh không biết những gì tôi đang viết phải không?” Một câu hỏi nguy hiểm, nhưng anh không thể ngăn mình đặt vấn đề. “Bởi tôi không muốn...”

“Chúa ơi, không!” Nick kêu lên, như thể anh ta thực sự ngạc nhiên, thực sự bị sốc, và Billy biết anh ta đang nói dối. “Tại sao chúng tôi phải làm điều đó chứ dù có thể đi chăng nữa?”

“Tôi không biết, tôi chỉ...” Billy nhún vai. “... không muốn bất cứ ai nhìn trộm. Vì tôi không phải là một nhà văn thật sự, tôi chỉ đang giả vờ thôi. Rồi thời gian qua đi. Nếu có ai nhìn thấy và đọc được nó thì thật xấu hổ.”

“Anh có cài mật khẩu trên máy tính xách tay không?”

Billy gật đầu thay cho câu trả lời.

“Vậy thì sẽ chẳng có ai đâu.” Nick nghiêng người về phía trước, đôi mắt nâu nhìn Billy chòng chọc. Anh ta hạ giọng như lúc nói với Billy về món Baked Alaska. “Có cảnh nóng không? Chơi ba, hay tất cả những thứ đó?”

“Không đâu, hừ hừ.” Anh dừng lại một chút. “Không hẳn.”

“Nên có mấy cảnh nóng, chí tình đấy. Vì thế mới bán được.” Anh ta cười khúc khích rồi bước đến một cái tủ trong phòng. “Tôi sẽ uống chút rượu mạnh. Anh uống không?”

“Không, cảm ơn,” anh đang đợi Nick quay lại. “Có tin gì về Joe không?”

“Vẫn vậy. Luật sư của hắn đang kháng cáo việc dẫn độ như tôi nói với anh đợt trước và toàn bộ vụ việc đang tạm dừng, hình như thế, ai mà biết vì Thẩm phán Johnny đang đi nghỉ.”

“Nhưng hắn ta không nói gì về những gì hắn biết à?”

“Nếu thế thì tôi đã biết rồi.”

“Có lẽ hắn bị nạn ở trong tù. Không bao giờ bị dẫn độ.”

“Họ đang chăm sóc hắn rất tốt. Biệt giam, anh nhớ chứ?”

“À ừ, đúng thế.” Điều đó có vẻ hơi thuận lợi, Billy nghĩ nhưng không nói ra. Nói thế thì lại thông minh quá.

“Kiên nhẫn nào, Billy. Bình tĩnh đã. Frankie nói anh đang gặp gỡ những người hàng xóm ở Midwood.”

Ô. Anh không thấy bóng dáng Frank ở khu phố, nhưng Frank đang quan sát anh. Nick có thể kiểm tra chiếc máy tính mới của anh bất kì lúc nào và cũng để mắt đến ngôi nhà tạm màu vàng đó. Điều này lại khiến anh nghĩ về năm đó, năm 1984 .

“Đúng vậy.”

“Và cả những người trong tòa nhà nữa?”

“Chắc chắn rồi. Chủ yếu là vào bữa trưa. Ở mấy xe bán đồ ăn.”

“Nghe tuyệt đấy. Hàng xóm tối lửa tắt đèn. Anh làm tốt lắm. Tôi cá là anh cũng đã làm tốt như vậy ở Iraq?”

Đâu tôi chẳng làm tốt, Billy nghĩ. Ít nhất là như vậy sau khi giết Bob Raines.

Đã đến lúc thay đổi chủ đề rồi. “Anh từng nói về chuyện nghi binh. Và nói sẽ bàn sau. Vậy thời điểm này đủ thích hợp chưa?”

“Tất nhiên rồi.” Nick nhấp một ngụm to rượu mạnh, đảo lưỡi như súc miệng, sau đó nuốt đánh ực . “Có một ý tưởng tôi định thử với anh. Nghi binh là hai cục pháo nổ. Anh biết chứ?”

Billy biết, nhưng vẫn lắc đầu.

“Mấy nhóm nhạc rock vẫn thường sử dụng chúng đấy. Có một tiếng nổ đi kèm những tia sáng lớn. Như mạch nước phụt lên ấy. Khi tôi biết chắc rằng Joe sẽ đi về phía đông, tôi sẽ đặt một cái gần tòa án. Một cái chắc chắn ở trong con hẻm đằng sau quán cà phê ở góc đường. Paulie đề nghị đặt một cái trong nhà để xe, nhưng như vậy thì xa quá. Và hơn nữa, tên khủng bố nào lại làm nổ tung một nhà để xe chết giẫm cơ chứ?”

Billy không cố che giấu sự sửng sốt của mình. “Sắp xếp mấy chuyện này không phải việc của Hoff chứ?”

Nick không ngậm ngụm rượu thứ hai mà nuốt luôn. Anh ta ho, sau đó cười sằng sặc. “Cái gì cơ? Anh nghĩ tôi ngu đến mức giao công việc này cho một gã mồm mép như anh ta à? Nếu anh thật sự nghĩ về tôi như vậy thì tôi sẽ buồn lắm đấy. Không đâu, tôi đã cử người của tôi rồi, họ đang đến. Những chàng trai tốt. Và đáng tin tưởng.”

Anh không muốn Hoff bày nghi binh vì sợ phản chủ nhưng lại không ngại bảo anh ta mua súng và đặt nó tại hang ổ của xạ thủ, vì chuyện đó sẽ phản tôi, Billy nghĩ. Anh nghĩ tôi ngu đến thế à?

“Đến ngày đó, có thể tôi đang ở Vegas, nhưng Frankie Elvis và Paul Logan sẽ ở đây cùng hai người khác mà tôi cử tới. Nếu anh cần bất cứ điều gì, cứ nói với họ, họ sẽ lo liệu tất tần tật.” Nick rướn người về phía trước một lần nữa, nghiêm túc và mỉm cười. “Đẹp như mơ luôn. Súng nổ, ai nấy đều rúm ró. Sau đó, pháo nổ – BÙM! BÙM! – mọi người chạy tán loạn, vừa hét vừa ôm đầu. Có kẻ nổ súng! Đánh bom cảm tử! Al Qaeda [*] ! ISIS [*] ! Gì chẳng được! Nhưng vẻ đẹp thực sự của cảnh tượng đó là gì? Trừ phi có người gãy chân trong khi bỏ chạy, không ai bị thương ngoài Joel Allen. Đó là tên thật của hắn. Cả phố tòa án đều hoảng loạn và đó là điều mà tôi muốn nói với anh.”

“Được rồi.”

“Tôi biết anh đã quen với việc lên kế hoạch tự tẩu thoát, và luôn làm tốt nó – hệt Houdinni chết tiệt, như tôi đã nói – nhưng Giorgio và tôi có một chút ý tưởng. Bởi vì...” Nick lắc đầu. “Trời đất, vụ này không ngon ăn đâu, ngay cả với anh và ngay cả khi chúng tôi làm rối tung con phố bằng pháo nổ. Mà chúng tôi chắc chắn sẽ làm vậy. Nếu anh đã có dự tính rồi thì hãy cứ làm thế đi. Nhưng nếu chưa...”

“Tôi chưa.” Dù anh đang tính rồi. Billy ngoác mồm cười, nét đặc trưng của bản thể ngờ nghệch. “Tôi hân hạnh nghe đây, Nick.”

02

Billy về đến nhà – anh cho rằng căn nhà màu vàng đó là nhà, ít nhất bây giờ là vậy - lúc 11 giờ đêm. Các món đồ từ Amazon của anh được đặt gọn trong tủ quần áo. Nó sẽ yên vị ở đó cho đến khi anh nhận được tin Allen đang đi về phía đông từ Los Angeles, nhưng mọi thứ đã thay đổi. Anh cảm thấy không yên tâm.

Anh mang chúng ra xe và cất vào cốp. Anh sẽ không dành nguyên ngày mai ở văn phòng tầng năm, và điều đó ổn thôi. Điều thú vị khi trở thành một nhà văn ở Tháp Gerard là anh không phải làm việc căng thẳng và duy trì nếp sinh hoạt đều đặn. Anh có thể đến muộn và rời đi sớm. Anh có thể đi dạo nếu muốn. Nếu có người hỏi, anh có thể nói rằng anh đang tìm kiếm một ý tưởng mới. Hoặc nghiên cứu. Hoặc chỉ nghỉ ngơi một, hai giờ. Ngày mai, anh sẽ băng qua chín khối nhà để đến số 658 đường Pearson. Đó là một căn nhà ba tầng ở rìa trung tâm thành phố. Anh đã xem qua ngôi nhà trên Zillow [*] rồi, nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Anh cần mục sở thị.

Anh khóa xe và quay vào nhà. Anh mang chiếc MacBook Pro mới coóng của mình từ văn phòng về và đặt nó lên bàn bếp. Anh mở máy và đọc những gì anh đã viết với tư cách là Benjy Compson. Chỉ vỏn vẹn vài trang, kết thúc ở cảnh Benjy bắn Bob Raines. Anh đọc nó hơn ba lần, cố gắng nhìn nó từ góc độ của Nick. Bởi vì Nick đã đọc, sau câu đùa về việc các nhà văn viết dựa trên trải nghiệm của chính họ, Billy không còn nghi ngờ gì nữa.

Anh chẳng quan tâm chuyện Nick phát hiện ra thời thơ ấu của mình, vì anh biết Nick hẳn đã kiểm tra những thông tin đó rồi. Điều Billy quan tâm là bảo vệ bản thể ngờ nghệch , ít nhất là lúc này. Anh không thể chợp mắt chừng nào chưa chắc chắn rằng không có gì trong hai hay ba trang này khiến anh ta cảm thấy anh quá thông minh. Vì vậy, anh đọc nó lần thứ tư.

Cuối cùng anh đóng máy. Anh không nghĩ có bất cứ điều gì mà một sinh viên hạng C không thể viết vài câu văn xuôi bằng tiếng Anh, giả như hầu hết những điều đó đã thực sự xảy ra. Chính tả ổn và cả dấu câu nữa, nhưng Nick phó mặc cho trình tự động sửa. Mặc dù Word không thể phát hiện ra sự khác biệt giữa can’t và cant , nhưng lại luôn biến dont thành don’t , các lỗi chính tả được gạch chân bằng màu đỏ, và thậm chí còn phát hiện ra những sai sót ngữ pháp quan trọng nhất. Thì động từ được anh dùng loạn cào cào, điều này ổn vì nó nằm ngoài khả năng của máy tính... mặc dù có thể sẽ có ngày thì cũng chỉ là chuyện nhỏ.

Nhưng lòng anh vẫn không yên.

Billy không có lý gì lại không tin tưởng Nick, hắn chắc chắn là kẻ xấu nhưng luôn chơi đẹp với anh. Lúc này anh đang không chơi đẹp, nếu anh không đóng kịch với chiếc Mac Pro. Không đóng kịch ngay từ đầu. Billy cảm thấy mình vẫn có thể cho rằng mọi việc đang diễn ra tốt đẹp, một phần tư số tiền đã được chuyển vào tài khoản ngân hàng của anh, năm trăm ngàn đô-la, nhưng về tổng thể thì vẫn có gì đó không ổn. Không nhiều lắm, chỉ khơi khơi thôi. Giống như một trong những cảnh bạn thấy trên phim, khi máy quay hơi nghiêng để tạo cảm giác mất phương hướng cho người xem. Người ta gọi đó là dutching , và đó là cảm giác mà công việc này đem lại: bị lừa. Không đến mức để không làm nữa, giờ thì anh tiến thoái lưỡng nan rồi, nhưng đủ để khiến anh lo lắng.

Nick đã bất chợt nhắc đến kế hoạch tẩu thoát. Nếu anh đã tính rồi thì cứ thế đi, anh ta đã nói như vậy. Nhưng nếu chưa, tôi và Giorgio có một ý tưởng có lẽ sẽ khá hiệu quả ấy.

Ý tưởng của Nick không phải vấn đề vì nó tệ, ngược lại mới đúng. Nó khá hay. Nhưng tẩu thoát sau khi ra tay luôn là việc của Billy, và để Nick nhúng vào như vậy thì... ừm...

“Bị lừa,” Billy lẩm bẩm với căn bếp trống trải.

Nick nói rằng sáu tuần trước, khi công việc này có vẻ chắc cú rồi, anh ta đã bảo Paul Logan đến Macon mua một chiếc van Ford Transit, không mới nhưng cũng chạy chưa quá ba năm. Transit là vật lực chính của Bộ phận Công trình Công cộng (DPW) Red Bluff. Billy đã nhìn thấy vài chiếc, được sơn hai màu xanh lam và vàng cùng khẩu hiệu CHÚNG TÔI SẴN SÀNG PHỤC VỤ ở hai bên hông xe. Chiếc Transit màu nâu mà Frank mua ở Georgia hiện đang nằm trong ga-ra ở ngoại ô thị trấn, cũng được sơn màu và khẩu hiệu của DPW.

“Tôi sẽ được cung cấp thông tin chừng nào việc dẫn độ chốt xong,” Nick nói. Anh ta nhấp thêm một ngụm rượu mạnh. “Mấy anh chàng mà tôi vừa bảo anh ấy – họ sắp đến – sẽ xài chiếc van đó, tỏ vẻ bận rộn nhưng không thực sự làm gì cả. Không đứng ở một chỗ quá lâu, nhưng phải luôn ở gần tòa án và Tháp Gerard. Chỗ này chỗ kia. Hòa vào nhịp sống, kiểu thế. Giống như anh, Billy.”

Vào ngày Allen xuất hiện, Nick nói chiếc xe giả DPW này sẽ đậu ở góc đường dẫn vào Tháp Gerard. Các công nhân thành phố giả có thể lật nắp cống và giả vờ mò mẫm bên trong. Khi đạn bay khỏi nòng, pháo nổ, mọi người chạy tán loạn. Có cả đám người lao ra từ Tháp Gerard, trong đó không thể thiếu Billy Summers, anh sẽ chạy đến góc đường và nhảy lên xe van. Trên đó sẽ có sẵn một chiếc quần yếm đồng phục DPW.

“Chiếc xe chạy một vòng đến tòa án,” Nick nói. “Cảnh sát có mặt ở hiện trường. Mấy chàng trai của tôi – và cả anh – sẽ sốt sắng hỏi xem có thể giúp gì được không. Dựng hàng rào chắn đường, hay gì đó đại loại vậy. Trong bối rối, chuyện này sẽ tự nhiên hết sức. Anh hiểu chứ?”

Tất nhiên là Billy hiểu. Liều đấy, nhưng ổn.

“Cảnh sát...”

“Chúng có thể bảo chúng tôi biến đi,” Billy nói. “Chúng tôi là công nhân thành phố nhưng cũng chỉ là dân thường. Đúng chứ?”

Nick cười phá lên và vỗ hai tay vào nhau. “Thấy chưa? Ai nghĩ anh ngu ngốc thì đúng là đần thật. Các anh chàng của tôi sẽ nói vâng thưa ngài và lái xe đi. Và anh cứ lái thôi. Sau đó đổi sang xe khác, tất nhiên là thế rồi.”

“Lái đi đâu?”

“De Pere, Wisconsin, cách đây cả ngàn dặm. Có một ngôi nhà an toàn ở đó. Anh sẽ ở đó vài ngày, thư giãn, kiểm tra số dư tài khoản ngân hàng, nghĩ xem sẽ tiêu tiền như thế nào. Sau đó thích làm gì thì tùy anh. Nghe thế nào?”

Xịn xò đấy. Xịn quá chăng? Hay một kế hoạch khả thi? Không chắc. Nếu trong vụ này có ai đó bị bẫy, thì đó là Ken Hoff. Trước đề nghị bất ngờ của Nick, vấn đề của Billy là từ trước đến giờ, anh chưa bao giờ phải nhờ ai đó dạy anh cách biến mất. Anh không thích thế nhưng giờ không phải là lúc để nói như vậy.

“Cho tôi thêm thời gian để nghĩ, được chứ?”

“Tất nhiên rồi,” Nick đáp. “Tỷ phú thời gian luôn.”

03

Billy lôi va li ra khỏi tủ quần áo trong phòng ngủ chính. Anh đặt nó lên giường và mở khóa. Chiếc va li trông có vẻ trống rỗng, nhưng thực tế thì không. Lớp lót có một khóa kéo chạy dọc mặt dưới. Anh kéo tấm lót lên và lấy ra một cái hộp dẹt nhỏ. Những người thông minh – những người đã đọc những thứ khó nhằn hơn Archie và những tờ báo về các bê bối ở làn thanh toán trong siêu thị – có lẽ sẽ gọi đây là ngăn ngách. Có một chiếc ví đựng thẻ tín dụng và bằng lái xe được cấp cho Dalton Curtis Smith, ở Stowe, Vermont.

Có rất nhiều ví và thẻ căn cước khác trong suốt sự nghiệp của Billy, không phải mỗi vụ lại có một ví nhưng ít nhất phải có cả chục cái, cái gần đây nhất thuộc về một người không có thật tên là David Lockridge. Một vài bản thể trước đây của anh có căn cước tốt, một số lại không. Thẻ tín dụng và bằng lái xe của David Lockridge đều rất tốt, nhưng thứ trong chiếc hộp dẹt xám này thậm chí còn tốt hơn. Chúng là vàng.

Dalton Smith không chỉ là một chiếc ví Lord Buxton với giấy phép lái xe hợp pháp ở bên trong; Dalton Smith là một người thật. Thẻ Master, thẻ Amex và Visa đều được sử dụng thường xuyên. Cả thẻ ghi nợ của ngân hàng Mỹ Ditto. Không phải hằng ngày, nhưng đủ thường xuyên để các tài khoản không đóng bụi. Xếp hạng tín dụng của anh ta cũng không quá xuất sắc, vốn có thể thu hút sự chú ý, nhưng rất tốt.

Có một thẻ hiến máu của Hội Chữ thập đỏ, thẻ An sinh xã hội và thẻ thành viên Cộng đồng Người dùng Apple. Không có bản thể ngờ nghệch ở đây; Dalton Curtis Smith là một kĩ thuật viên máy tính làm việc tự do với nghề tay trái khá béo bở cho phép anh ta đi bất cứ nơi nào mình muốn. Ngoài ra, trong ví còn có hình của Dalton với vợ (cả hai đã ly hôn sáu năm trước), Dalton với cha mẹ (thiệt mạng sau một vụ tai nạn xe hơi khi Dalton còn là trẻ thành niên), Dalton với người anh trai bị ghẻ lạnh của mình (hai người không nói chuyện với nhau kể từ khi Dalton phát hiện anh trai mình bỏ phiếu cho Nader trong cuộc bầu cử năm 2000).

Trong chiếc túi nhỏ đó còn có cả giấy khai sinh của Dalton và các giấy tờ khác. Một vài là giấy tờ của các cá nhân và doanh nghiệp mà Dalton đã giúp họ sửa máy tính, vài cái khác là của những người chủ mà anh ta thuê nhà ở Portsmouth, Chicago và Irvine. Một người quen của anh ở New York, Bucky Hanson, đã tạo ra các giấy tờ này. Dalton Smith không bao giờ ở một địa điểm quá lâu, nhưng khi ở lại một nơi nào đó, anh ta luôn là một người thuê nhà dễ mến: gọn gàng và yên tĩnh, luôn trả tiền thuê nhà đúng hạn.

Đối với Billy, Dalton Smith với sự thật nhẹ nhàng nhưng hoàn hảo chẳng khác nào một cánh đồng tuyết trắng xóa mà không có một dấu chân. Anh ghét ý tưởng làm xấu vẻ đẹp này bằng cách đưa Dalton thành hiện thực, nhưng đó chẳng phải là mục đích Dalton Curtis Smith được tạo ra hay sao? Chính xác là vậy. Công việc cuối cùng, công việc cuối cùng từ trước đến giờ , và Billy sẽ biến mất vào một danh tính hoàn toàn mới. Có lẽ không phải sống phần đời còn lại của anh dưới danh tính đó, nhưng điều đó có thể xảy ra, giả sử anh có thể rời khỏi thị trấn này mà không bị thiêu rụi, khoản tiền 500.000 đô-la đã thanh toán trước và được chuyển đến tài khoản ngân hàng của Dalton ở Nevis, và 500.000 đô-la là dấu hiệu lớn nhất cho thấy Nick không coi đây là chuyện đùa. Khi công việc xong xuôi, mọi chuyện cứ thế tiếp diễn thôi.

Ảnh chụp trên bằng lái xe của Dalton cho thấy anh ta trạc tuổi Billy, có thể trẻ hơn một hai tuổi gì đó, nhưng tóc anh ta vàng thay vì đen. Và anh ta để râu.

04

Sáng hôm sau, Billy đỗ xe trên tầng bốn của ga-ra gần Tháp Gerard. Sau khi chỉnh trang diện mạo, anh đi theo hướng ngược lại. Đây là chuyến đi đầu tiên của Dalton Smith.

Nếu thành phố nhỏ, thì một khoảng cách bé thôi cũng có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Đường Pearson chỉ cách ga-ra đậu xe trên phố Main chín khối nhà, đi bộ nhanh thì mất 15 phút, nhưng đây là một thế giới khác với thế giới nơi cánh đàn ông đeo cà vạt còn phụ nữ mang giày cao gót ăn trưa trong một nhà hàng mà nhân viên phục vụ sẽ cung cấp danh sách rượu cùng thực đơn.

Có một cửa hàng tạp hóa ở góc phố, nhưng nó đã đóng cửa. Giống như nhiều khu dân cư đang xuống dốc, nơi này hệt như một sa mạc khan hiếm lương thực. Có hai quán bar, một cái đã đóng cửa, một cái thì mở cho có. Một tiệm cầm đồ vừa làm dịch vụ chuyển tiền bằng séc vừa cho vay nhỏ. Một dãy các cửa hàng nhỏ ảm đạm ở phía trước. Và một loạt các ngôi nhà đang cố gắng tìm kiếm người thuê tầng lớp trung lưu nhưng có vẻ bất lực.

Billy đoán lý do cho sự xuống dốc này là khu đất trống bên kia đường đối diện với căn nhà mục tiêu của anh. Khoảng đất rộng đó toàn rác rến. Cắt ngang qua nó là những đường ray xe lửa gỉ sét bị vùi trong trong đám cỏ dại và cây cao mùa hè. Các biển báo được dán cách nhau khoảng mười lăm mét với nội dung TÀI SẢN THÀNH PHỐ và CẤM XÂM LẤN và NGUY HIỂM – TRÁNH XA. Anh nhận thấy những tàn dư của một tòa nhà gạch từng là ga xe lửa. Có thể nó từng phục vụ các tuyến đi Greyhound, Trailways và Southern. Giờ đây, vận tải đường bộ đã chuyển đến khu vực khác và khu phố này, nơi có thể từng rất đông đúc vào những thập kỷ cuối thế kỷ trước, đang trải qua một kiểu “tắc nghẽn” đô thị. Một chiếc xe đẩy hàng gỉ sét nằm lật úp trên vỉa hè bên kia đường. Một chiếc quần đùi nam rách bươm vướng vào một bên bánh xe, hai ống quần bay phất phơ trong cơn gió nóng, vốn cũng làm mái tóc giả màu vàng Dalton Smith của Billy bay lòa xòa và cổ áo sơ mi anh dựng ngược lên.

Hầu hết các ngôi nhà ở đây đều cần sơn lại. Một vài căn cắm biển BÁN NHÀ ở phía trước. Căn số 658 cũng cần sơn, nhưng tấm biển cắm ở phía trước đề CHO THUÊ CĂN HỘ CÓ ĐẦY ĐỦ NỘI THẤT. Có số điện thoại của một đại lý bất động sản. Billy ghi lại số điện thoại, sau đó bước vào con đường xi măng nứt nẻ và nhìn vào hàng chuông cửa. Dù là một ngôi nhà ba tầng nhưng có đến bốn chuông cửa. Chỉ một trong số chúng, cái thứ hai từ trên xuống, có tên: JENSEN. Anh nhấn chuông. Vào thời điểm này trong ngày có thể sẽ không có ai ở nhà, nhưng may mắn đã mỉm cười với anh.

Có tiếng chân bước xuống cầu thang. Một phụ nữ khá trẻ ghé mắt nhìn qua ô cửa kính bẩn mờ. Những gì cô thấy là một người đàn ông da trắng trong chiếc sơ mi để mở cúc cổ và quần âu thẳng thớm. Mái tóc vàng của anh ta được cắt tỉa gọn gàng. Anh chàng đeo kính, đậm người, chưa đến mức béo phì nhưng sẽ chóng như vậy theo thời gian. Anh ta trông không giống người xấu, có vẻ là người tốt có thể giảm năm hoặc bảy cân, vì vậy cô mở cửa, nhưng chỉ hơi hé.

Như thể làm vậy thì tôi sẽ không thể len chân vào và siết cổ cô ngay tại tiền sảnh vậy , Billy nghĩ. Không có chiếc ô tô nào đậu trên đường lái hay lề đường, điều đó có nghĩa là chồng cô đang đi làm và ba cái chuông không đánh dấu tên đó chứng tỏ cô là người duy nhất sống trong ngôi nhà Victoria giả cổ này.

“Tôi không tiếp người chào hàng đâu,” Jensen lên tiếng.

“Không, thưa cô, tôi không phải là người bán hàng. Tôi mới đến thành phố và đang tìm một căn hộ. Và căn nhà này có vẻ phù hợp với ngân sách của tôi. Tôi chỉ muốn xem chỗ này có ổn không thôi. Tên tôi là Dalton Smith.”

Anh chìa tay ra. Cô đưa tay chạm vào nó, sau đó rụt lại. Nhưng cô sẵn sàng nói chuyện. “Chà, đây không phải nơi tuyệt vời nhất, như anh thấy đấy và siêu thị gần nhất cách đây một dặm, nhưng vợ chồng tôi thực sự không gặp bất kì vấn đề nào. Thi thoảng có đám thanh niên vẫn đi vào khu xe lửa cũ đó, chắc là uống rượu và chơi thuốc, và có một con chó ở góc đường hay sủa lúc nửa đêm, nhưng chỉ thế thôi.” Cô dừng lại và anh thấy cô nhìn xuống tay. “Anh không gây ồn đêm hôm chứ anh Smith? Ý tôi là tiệc tùng và nhạc nhẽo ý?”

“Không, thưa cô,” anh mỉm cười và chạm vào bụng mình. Chiếc bụng phình to giả bầu tầm sáu tháng. “Dù vậy, tôi mê ăn uống lắm.”

“Bởi có một điều khoản về tiếng ồn quá mức trong hợp đồng cho thuê.”

“Tôi có thể biết giá tiền thuê hằng tháng được không?”

“À, giá riêng. Nếu muốn sống ở đây, anh phải đến gặp Richter. Anh ấy là quản lý của nơi này. Cũng có một vài ngôi nhà khác sau nhà này... mặc dù cái này đẹp hơn. Tôi nghĩ vậy.”

“Tôi hiểu rồi, xin lỗi cô.”

Jensen giờ đã mạnh dạn hơn. “Tôi có một lời khuyên dành cho anh, đừng chọn tầng ba. Nơi đó nóng kinh khủng, ngay cả khi gió thổi vào từ phía bên kia của nhà ga xe lửa cũ.”

“Không có máy lạnh, tôi biết rồi.”

“Đúng rồi đấy. Nhưng khi thời tiết trở lạnh, hệ thống sưởi khá ổn. Nhưng anh phải trả tiền. Điện cũng vậy. Tất cả đều có trong hợp đồng. Nếu từng thuê nhà trước đây, tôi đoán anh cũng biết điều này.”

“Ôi, tất nhiên là tôi đã từng rồi,” anh vừa nói vừa đảo mắt, và cuối cùng nhận được một nụ cười từ cô. Bây giờ thì anh có thể hỏi những gì mình muốn hỏi. “Còn tầng dưới thì sao? Căn hộ tầng hầm? Vì hình như có một cái chuông...”

Nụ cười của Jensen nở rộng. “À, vâng. Đúng thế. Căn đó khá được. Đã được trang bị nội thất, như tấm biển cho biết. Dù anh biết đấy, chỉ là những món đồ cơ bản. Tôi muốn căn đó, nhưng chồng tôi nghĩ nó quá nhỏ nếu đơn của chúng tôi được chấp thuận. Chúng tôi đang cố gắng xin nhận con nuôi.”

Billy ngạc nhiên trước thông tin này. Cô gái trẻ vừa tiết lộ một phần quan trọng trong trái tim mình – trái tim của cuộc hôn nhân của cô – sau khi ngại tiết lộ số tiền thuê nhà mà vợ chồng cô phải trả. Anh hỏi cho có thôi vì câu hỏi đó có vẻ hợp lý. “Chúc hai người may mắn, có thể cô sẽ gặp tôi nhiều hơn đấy. Một ngày tốt lành nhé!”

“Anh cũng thế. Rất vui khi được gặp anh.” Lần này thì cô đưa tay ra bắt tay thật sự, và Billy nghĩ lại về những gì Nick từng nói – Anh hòa đồng với mọi người mà không màng nhận lại. Thật vui khi biết rằng điều này vẫn hiệu quả ngay cả khi anh ở trong bộ dáng béo ú thế này.

Khi anh bước xuống vỉa hè, Jensen gọi với theo, “Tôi cá rằng căn hộ tầng hầm vẫn đẹp và mát mẻ ngay cả khi thời tiết nóng nực nhất! Giá mà chúng tôi đã lấy căn đó.”

Anh giơ ngón tay cái lên tỏ ý đồng tình với cô và quay trở lại trung tâm thành phố. Anh đã thấy tất cả những gì mình cần thấy và đi đến quyết định. Đây là nơi anh muốn, và Nick Majarian không cần biết gì về nơi này.

Nửa đường về nhà, anh rẽ vào một cửa hàng nhỏ khuất bán bánh kẹo, thuốc lá, tạp chí, đồ uống lạnh và điện thoại sim rác xếp theo vỉ. Anh mua một cái, thanh toán tiền mặt, sau đó ngồi trên băng ghế xe buýt và khởi động máy. Anh sẽ dùng nó lâu nhất có thể, sau đó bỏ đi. Mọi người đều vậy. Giả sử kế hoạch không thành, lũ cớm biết ngay rằng chính David Lockridge đã ám sát Joel Allen. Sau đó, họ sẽ phát hiện ra rằng David Lockridge là bí danh của William Summers, một cựu binh thủy quân lục chiến giỏi bắn tỉa và giết người bằng kỹ năng đó. Họ cũng sẽ khám phá ra mối liên kết giữa Summers với Kenneth Hoff; một kẻ giương đầu chịu báng được chọn trước. Nhưng họ không biết rằng Billy Summers, hay còn gọi là David Lockridge, đã biến mất bằng danh tính Dalton Smith. Nick cũng không bao giờ biết được điều đó.

Anh gọi cho Bucky Hanson ở New York và nhờ Bucky gửi chiếc hộp để Đồ bảo mật đến địa chỉ phố Evergreen của mình.

“Vậy là thế hả? Cậu thực sự chốt rồi à?”

“Chắc thế,” Billy đáp. “Nhưng bọn tôi cần bàn thêm vài điều nữa.”

“Tất nhiên rồi. Xử lý gọn ghẽ nhé, anh bạn.”

Billy kết thúc cuộc gọi và thực hiện một cuộc gọi khác. Cho Richter, anh chàng cho thuê căn nhà số 658 đường Pearson.

“Tôi biết căn đó đã có đủ đồ. Nhưng có bao gồm cả wifi không?”

“Đợi tôi một giây,” Richter nói, nhưng dường như phải mất cả phút. Billy nghe thấy tiếng giấy sột soạt. Cuối cùng, Richter lên tiếng, “Có. Đã được lắp đặt hai năm trước. Nhưng không có ti-vi, anh phải tự lắp.”

“Được rồi,” Billy đáp. “Tôi muốn thuê. Liệu tôi có thể ghé qua văn phòng của anh không?”

“Tôi sẽ gặp anh ở đó, để anh xem qua.”

“Không cần đâu. Tôi chỉ muốn có chỗ ra vào thôi mà. Có thể là một năm, mà cũng có thể là hai. Tôi đi suốt ấy. Điều quan trọng là khu này có vẻ yên tĩnh.”

Richter phá lên cười. “Vì họ đã phá hủy nhà ga xe lửa, anh biết đấy. Nhưng nhiều người ngoài kia có thể sẵn sàng đánh đổi sự yên tĩnh lấy chút thương mại.”

Họ hẹn gặp nhau vào thứ Hai tuần sau và Billy quay trở lại tầng bốn của ga-ra, nơi chiếc Toyota của anh đỗ ở điểm chết mà camera an ninh không chiếu tới. Anh tháo tóc giả, ria mép, kính và bụng bầu giả, xếp chúng vào một chiếc thùng đặt phía sau xe, rồi đi bộ một đoạn ngắn trở lại Tháp Gerard.

Anh có mặt kịp lúc để mua một chiếc burrito từ xe bán đồ ăn Mexico. Anh ăn cùng Jim Albright và John Colton, các luật sư ở tầng năm. Họ nhìn thấy Colin White, anh chàng chưng diện làm việc cho Các giải pháp Kinh doanh. Hôm nay, anh ta trông rất dễ thương trong bộ đồ thủy thủ.

“Anh chàng đó,” Jim nói và cười, “trông khá bảnh tỏn, đúng không?”

“Đúng thế,” Billy đồng tình và nghĩ, Một anh chàng bảnh tỏn vừa khớp với chiều cao của tôi.

05

Trời đổ mưa suốt cuối tuần. Sáng thứ Bảy, Billy đến Walmart mua hai chiếc va li cũng rất nhiều quần áo giá rẻ phù hợp với thân hình thừa cân của Dalton Smith, thanh toán bằng tiền mặt. Tiền mặt không lưu lại dấu vết gì.

Chiều hôm đó, anh ngồi bên ngoài hiền của ngôi nhà màu vàng, ngắm bãi cỏ trước sân. Anh không chỉ nhìn mà đang quan sát nó, vì anh gần như có thể thấy cỏ đang nhú lên tua tủa. Đây không phải là nhà anh, không phải thị trấn cũng như tiểu bang của anh, anh sẽ rời đi mà không một lần ngoảnh lại hay tiếc nuối, nhưng anh vẫn cảm thấy tự hào với công trình của mình. Cỏ không cần cắt trong vài tuần tới, thậm chí có thể không cần cho đến tháng Tám, nhưng anh có thể đợi. Và khi ngồi ở bên ngoài, thoa một lớp kem mỡ lên mũi, mặc quần đùi và áo sát nách (có lẽ thêm cả một chiếc sơ mi cộc tay), anh sẽ tiến thêm một bước nữa để thuộc về nơi này. Để hòa mình vào khung cảnh.

“Chú Lockridge?”

Anh nhìn sang ngôi nhà bên cạnh. Hai đứa trẻ, Derek và Shanice Ackerman, đang đứng trên hiên, nhìn anh qua màn mưa. Cậu nhóc lên tiếng, “Mẹ cháu làm bánh quy ngào đường. Mẹ nhờ cháu hỏi xem chú có muốn một ít không ạ.”

“Nghe tuyệt quá,” Billy đáp. Anh đứng dậy, chạy ào qua màn mưa. Shanice, tám tuổi, rụt rè nắm tay và dẫn anh vào trong, mùi thơm của bánh quy mới nướng khiến bụng dạ Billy sôi sục.

Đó là một ngôi nhà nhỏ gọn gàng, ngăn nắp. Có cả trăm bức ảnh được đóng khung treo trong phòng khách, hàng chục khung gắn phía trên chiếc đàn piano lưu giữ những khoảnh khắc đầy tự hào. Corinne đang ở trong bếp, vừa lấy một khay bánh ra khỏi lò nướng. “Chào anh, anh hàng xóm. Anh có cần khăn lau tóc không?”

“Không cần đâu, cảm ơn cô. Vài hạt mưa thôi ấy mà.”

Cô cười. “Vậy, bánh quy đây. Bọn trẻ uống sữa. Anh có muốn một ly không? Ngoài ra còn có cả cà phê, nếu anh thích.”

“Sữa đi. Nhưng chỉ một chút thôi nhé.”

“Gấp đôi ư?” Cô cười.

“Có vẻ hợp lý,” anh mỉm cười đáp lại.

“Vậy anh ngồi xuống đi.”

Anh kéo ghế ra rồi ngồi xuống cạnh lũ trẻ. Corinne đặt một đĩa bánh quy lên bàn. “Cẩn thận nhé các con, vẫn còn nóng lắm đấy. Tôi đang nướng thêm để anh có thể mang về, David.”

Hai đứa nhóc nhanh tay nhào vào đĩa bánh. Billy cũng lấy cho mình một chiếc. Ngọt ngào và ngon tuyệt. “Ngon quá, cô Corinne. Cảm ơn cô. Mưa gió thì món này là số dzách.”

Corinne rót sữa vào cốc lớn cho hai con, rót cho Billy vào một chiếc cốc nhỏ. Cô cũng rót cho mình một ly và ngồi xuống cùng tham gia. Mưa đập vào mái nhà như tiếng trống. Một chiếc xe hơi chạy ngang qua.

“Cháu biết cuốn sách của chú là tuyệt mật,” Derek nói, “nhưng...”

“Con phải nuốt hết bánh trong miệng đã,” Corinne nói. “Bánh vương khắp nơi rồi kìa.”

“Con thì không ạ,” Shanice chen vào.

“Đúng thế, con ngoan lắm,” Corinne nói với con, sau đó liếc sang anh: “Mời anh.”

Derek không quan tâm đến việc phải nói sao cho đúng ngữ pháp. “Nhưng chú hãy bật mí một điều đi. Có máu trong đó không ạ?”

Billy nghĩ về Bob Raines và ngả người về phía sau. Anh nghĩ về em gái mình, với toàn bộ xương sườn bị gãy – đúng thế, gãy toàn bộ, không chừa chiếc nào. “Không, làm gì có máu.” Anh cắn một miếng bánh quy.

Shanice vươn tay ra lấy thêm một chiếc bánh. “Con có thể ăn cái đó,” mẹ con bé nói, “và thêm một cái nữa. Con cũng vậy, D. Còn đâu là của chú Lockridge và để hôm sau ăn. Con biết bố con cũng thích ăn bánh này chứ.” Và cô quay sang Billy, nói: “Jamal làm việc sáu ngày một tuần và tăng ca bất cứ lúc nào có thể. Gia đình Fazio chăm sóc hai đứa rất tốt trong khi cả hai chúng tôi đi làm. Khu phố này không hẳn là tệ, nhưng chúng tôi đang muốn chuyển đến một khu phố tốt hơn.”

“Cố lên nhé,” Billy nói.

Corinne cười và gật đầu.

“Con không muốn chuyển đi đâu cả,” Shanice lên tiếng, sau đó nói thêm với vẻ nghiêm trang đáng yêu của một đứa trẻ: “Ở đây con có bạn mà.”

“Con cũng thế,” Derek nói. “Chú Lockridge ơi, chú có biết chơi cờ tỉ phú không ạ? Shan và cháu định chơi, nhưng chỉ có hai người thì chán lắm mà mẹ cháu cũng chẳng chơi cùng đâu.”

“Đúng thế đấy,” Corinne đáp lời con mình. “Trò chơi tẻ nhạt nhất thế giới. Hãy rủ bố con chơi cùng vào tối nay ấy. Bố sẽ chơi, nếu không mệt.”

“Nhưng còn lâu nữa bố mới về mà,” Derek nói. “Và bây giờ thì con đang siêu chán.”

“Con cũng thế,” Shan đồng tình. “Nếu con có điện thoại, con có thể chơi Crossy Road [*] .”

“Năm sau,” Corinne trả lời và đảo mắt khiến Billy nghĩ cô bé đã xin xỏ để được mua một chiếc điện thoại một thời gian rồi. Có lẽ là từ hồi năm tuổi ấy chứ.

“Chú có chơi không ạ?” Derek hỏi, dù không hy vọng nhiều lắm.

“Chú sẽ chơi với hai đứa,” Billy đáp, sau đó hơi trườn người qua bàn, nhìn chằm chằm vào Derek Ackerman. “Nhưng chú phải cảnh báo cháu rằng chú chơi giỏi lắm đấy nhé. Và chú không nhường đâu.”

“Cháu cũng thế!” Derek mỉm cười với bộ ria mép làm từ sữa.

“Cháu cũng vậy ạ!” Shanice nói.

“Chú không nhẹ tay chỉ vì hai đứa còn bé và chú là người lớn đâu,” Billy nói. “Chú sẽ xử cháu bằng tài sản cho thuê của chú, sau đó tùng xẻo cháu bằng các khách sạn. Nếu định chơi, cháu phải biết trước điều đó.”

“Được rồi!” Derek nói, nhảy dựng lên và suýt làm đổ hết cốc sữa của mình.

“Được rồi ạ!” Shanice cũng la và nhảy dựng lên.

“Hai cháu có khóc khi chú thắng không đấy?”

“Không ạ!”

“Không đâu ạ!”

“Được rồi. Miễn là chúng ta đã nói rõ với nhau về chuyện đó.”

“Anh có chắc không?” Corinne hỏi anh. “Tôi thề là trò đó mất cả ngày đấy.”

“Vậy thì tôi sẽ mạo hiểm thử xem sao.”

“Chúng ta sẽ chơi ở tầng dưới ạ,” Shanice nói và một lần nữa nắm tay anh.

Căn phòng dưới nhà có cùng kích thước với căn phòng bên nhà Billy, nhưng chỉ bằng một nửa chốn ở cho cánh mày râu mà thôi. Ở đây, Jamal đã sắp đặt một không gian làm việc với các thiết bị được vít chặt vào tường. Ngoài ra còn có một cái cưa sắt và Billy đồng ý về việc có một nắp bảo vệ trên công tắc bật/tắt. Một nửa căn phòng của bọn trẻ bày đầy đồ chơi và sách tô màu. Có một chiếc ti-vi nhỏ được kết nối với máy chơi game giá rẻ sử dụng băng cát-sét. Billy thấy có vẻ nó đã được mua ở một sự kiện giảm giá. Các trò chơi Board Game được xếp chồng lên nhau dựa vào tường. Derek lấy hộp cờ tỷ phú và đặt bảng lên một chiếc bàn cỡ trẻ em.

“Chú Lockridge to quá, không ngồi vừa ghế của chúng cháu rồi,” Shanice nói, có vẻ thất vọng.

“Chú sẽ ngồi trên sàn.” Billy nhấc một chiếc ghế ra và ngồi bệt xuống sàn. Hai chân khoanh tròn để dưới gầm bàn.

“Chú muốn mảnh nào ạ?” Derek hỏi. “Cháu thường lái xe đua khi chỉ có cháu và Shan, nhưng chú có thể lấy nó nếu muốn.”

“Không sao đâu. Cháu thích cái nào, Shan?”

“Cháu muốn ống đựng đồ,” Shan đáp, sau nói tiếp một cách miễn cưỡng: “Trừ khi chú cũng muốn nó.”

Billy lấy chiếc mũ cao. Trò chơi bắt đầu. Bốn mươi phút sau, khi lại đến lượt mình, cậu nhóc Derek hét lên: “Mẹ, con cần lời khuyên!”

Corinne xuống tầng và chống tay lên hông, quan sát bảng và phân phối tiền. “Mẹ không muốn nói các con đang gặp rắc rối đâu, nhưng đúng là thế đấy.”

“Chú đã nói rồi mà,” Billy nói.

“Con muốn hỏi mẹ gì thế, D? Hãy nhớ rằng mẹ của con hiếm khi trả được Home Economics trong ngày.”

“Ồ, vấn đề của con đấy,” Derek suy tính. “Chú ấy có hai ô màu xanh, Pacific và Pennsylvania, nhưng con có Bắc Carolina. Chú Lockridge nói rằng chú sẽ đưa con 900 đô-la. Gấp ba lần, nhưng...”

“Nhưng?” Corinne tò mò.

“Nhưng?” Billy lặp lại.

“Nhưng sau đó chú ấy có thể đặt nhà trên ô màu xanh. Và chú ấy đã có các khách sạn ở Công viên và lối đi rồi!”

“Vậy?” Corinne chờ đợi.

“Vậy?” Billy tiếp tục nói theo và mỉm cười.

“Con phải đi vệ sinh đã, con sắp tè ra quần rồi,” Shanice nói và đứng dậy.

“Con yêu, con không cần phải thông báo với mọi người chuyện đó đâu. Con chỉ cần nói xin phép là được rồi.”

Shanice làm theo, cũng với vẻ nghiêm trang quyến rũ đáng yêu đó: “Con sẽ đi gặp Mẹ Thiên nhiên một lát ạ!”

Billy phá lên cười lớn. Corinne cũng vậy. Derek không chú ý. Cậu nhóc đang nghiên cứu bàn cờ, sau đó ngước nhìn mẹ mình. “Bán hay không ạ? Con hết sạch tiền rồi!”

“Được ăn cả, ngã về không,” Billy nói. “Có nghĩa là cháu phải quyết định giữa việc chấp nhận cơ hội hay từ chối. Giữa chú và cháu, D, chú thấy cháu sắp phá sản rồi.”

“Chú ấy nói đúng đó, con yêu,” Corinne thêm vào.

“Chú ấy thực sự may mắn,” Derek nói với mẹ. “Chú ấy có đất ở khu Đậu xe Miễn phí và có toàn bộ số tiền và đó là một món khổng lồ !”

“Chú cũng chơi hay nữa chứ,” Billy nói. “Cháu phải thừa nhận điều đó đi.”

Derek cố gắng quắc mắt cau có nhưng cũng không xoay xở được lâu. Cậu nhóc giữ tờ chuyển nhượng có sọc xanh. “1200.”

“Chốt!” Billy kêu lên, và đưa tiền.

Hai mươi phút sau, bọn trẻ phá sản và trò chơi kết thúc. Đầu gối Billy tê rần rần khi anh đứng dậy, và bọn trẻ phá lên cười trước cảnh tượng mình vừa trông thấy. “Các cháu thua nên sẽ là người dọn dẹp, đúng chứ?”

“Bố cháu cũng y như vậy,” Shanice nói. “Nhưng thỉnh thoảng bố cũng để tụi cháu thắng.”

Billy cúi xuống, mỉm cười. “Nhưng chú sẽ không thế đâu.”

“Chú bắt nạt con nít,” cô bé nói và cười khúc khích với tay che miệng.

Danny Fazio sột soạt bước xuống cầu thang trong chiếc áo mưa trùm thân màu vàng và giày đi mưa không kéo khóa. “Cháu chơi với được không ạ?”

“Lần sau đi,” Billy nói. “Luật lệ của chú là chỉ đánh bại trẻ em một lần một tuần.”

Chỉ là một câu bông đùa, mà đám nhóc này chắc sẽ gọi là cà khịa, nhưng anh đột nhiên nhìn thấy những chiếc bánh quy cháy nằm rải rác trên sàn nhà trước lò nướng trên chiếc xe moóc và cánh tay của Bod Raines đập thẳng vào một bên mặt của Cathy, và chẳng còn gì buồn cười nữa. Ba đứa nhóc vẫn cười vì đối với chúng mọi chuyện vẫn vui. Không ai trong số chúng phải chứng kiến cảnh em gái mình bị một gã quái vật say xỉn với hình xăm nàng tiên cá đang mờ dần trên cánh tay giày xéo đến chết.

Trên lầu, Corinne đưa cho anh một túi bánh quy và nói, “Cảm ơn anh đã khiến một ngày mưa của chúng có thật nhiều niềm vui.”

“Tôi cũng rất vui.”

Đúng là anh đã như vậy. Cho đến khi gần kết thúc. Về đến nhà, anh lập tức ném túi bánh quy vào sọt rác. Corinne Ackerman làm bánh quy rất ngon, nhưng anh không thể nghĩ đến việc mình sẽ ăn chúng. Anh thậm chí còn không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy chúng vào lúc này.

06

Thứ Hai, Billy đến gặp đại diện bên cho thuê ở văn phòng của anh ta nằm trong dãy các cửa hàng nhỏ ảm đạm cách căn nhà số 658 ba khối nhà. Văn phòng của Merton Richter là một không gian được ngăn đôi không dễ nhìn thấy từ bên ngoài, nằm giữa một thẩm mỹ viện và tiệm xăm Jolly Roger. Có một chiếc SUV màu xanh, khá cũ đậu phía trước cùng biển hiệu BẤT ĐỘNG SẢN RICHTER ở một bên và bên kia có một vết rách rất dài. Anh ta xem qua các giấy tờ liên quan mà Dalton Smith đưa, sau đó đưa lại chúng cùng một hợp đồng cho thuê. Những chỗ mà Billy phải kí đã được đánh dấu bằng mực vàng.

“Anh có thể nói chúng tôi quảng cáo hơi quá,” Richter nói, như thể Billy vừa từ chối, “và anh có thể đúng, nhưng chỉ một chút thôi, nếu xét về đồ đạc và wifi. Và không được đậu xe trên đường cho đến 6 giờ tối, tốt hơn hết là anh cứ đậu xe trên đường lái. Tất nhiên là anh phải chia sẻ với nhà Jensen...”

“Tôi định để xe của mình chủ yếu ở ga-ra trong thành phố. Tiện thể tập thể dục.” Anh vỗ nhẹ vào chiếc bụng giả của mình. “Giá thuê có vẻ hơi cao, nhưng tôi muốn địa điểm là chính.”

“Anh đã xem đâu,” Richter nói.

“Cô Jensen đã nói với tôi rồi.”

“À vâng, tôi hiểu rồi. Nếu đồng ý...?”

Billy ký vào hợp đồng và viết tấm séc đầu tiên dưới tên Dalton Smith: tháng đầu tiên, tháng cuối cùng, và một khoản tiền đặt cọc thái quá như thể toàn bộ đồ bếp đều là của hãng All-Clad [*] và đèn Tiffany [*] không bằng.

“Dân IT, hử?” Richter nói, cất tấm séc vào ngăn bàn. Anh ta đẩy một phong bì ghi CHÌA KHÓA lên bàn, sau đó đập mạnh vào chiếc máy tính để bàn cũ như thể đập một con chó dù không muốn mà nó cứ quấn lấy bạn. “Tôi chắc chắn sẽ cần đến vài sự giúp đỡ với thứ chết giẫm khốn kiếp này.”

“Tôi nghỉ rồi,” Billy đáp. “Nhưng tôi có thể cho anh một vài lời khuyên.”

“Gì thế?”

“Hãy thay cái mới trước khi anh mất tất cả. Tôi có máy sưởi, điện, nước và truyền hình cáp không?”

Richter mỉm cười như thể vừa trao giải cho Billy. “Không, anh tự lo hết, người anh em.” Nói đoạn anh ta chìa tay ra.

Billy có thể hỏi Richter xem anh ta đã thực sự làm được gì để đổi lấy khoản hoa hồng của mình, vì hợp đồng rõ ràng là một biểu mẫu được tải xuống từ trên mạng, chỉ thay đổi chút thông tin, nhưng anh có bận tâm không? Không, chẳng hề.

07

Billy muốn viết tiếp câu chuyện của mình (có vẻ như còn quá sớm để có thể gọi nó là một cuốn sách, và có thể là không bao giờ có may mắn đó), nhưng anh còn nhiều việc khác phải làm. Khi ngân hàng mở cửa vào thứ Ba, anh đến Southern Trust và rút một khoản tiền đã được gửi vào tài khoản ngân hàng của David Lockridge. Anh đến ba chuỗi cửa hàng khác nhau và mua thêm ba chiếc máy tính xách tay, tất cả đều được thanh toán bằng tiền mặt và đều là loại giá rẻ như AllTech. Anh cũng mua một chiếc ti-vi để bàn giá rẻ. Trả bằng thẻ tín dụng của Dalton Smith.

Điều cần làm tiếp theo trong danh sách là thuê một chiếc xe hơi. Anh cất chiếc Toyota mà anh sử dụng với tư cách là David Lockridge ở một ga-ra ở phía bên kia thành phố, vì anh không muốn bất kỳ ai trong tòa nhà nhìn thấy anh trong hình hài Dalton Smith. Khả năng này rất thấp, vào thời điểm này trong ngày, người ta còn mải làm việc, nhưng sểnh ra chút cũng không nên. Người ta sa chân cũng vì lẽ đó.

Sau khi đội tóc giả, đeo kính, dán ria mép và gắn bụng bầu, anh gọi Uber và yêu cầu tài xế đưa mình đến McCoy Ford ở rìa Tây thành phố. Ở đây, anh thuê một chiếc Ford Fusion trong ba năm. Bên cho thuê nhắc anh rằng nếu anh lái quá 10.500 dặm mỗi năm, anh phải thanh toán một khoản phụ phí khá đắt đỏ. Billy nghĩ khéo có khi anh chỉ lái ba trăm dặm thôi ấy chứ. Điều quan trọng là Nick biết xe của Billy nhưng không biết xe của Dalton Smith. Chuyện này đề phòng trường hợp Nick định lươn lẹo, nhưng còn hơn cả thế. Nó giúp Dalton Curtis Smith không liên quan gì đến những chuyện sẽ xảy ra trên các bậc thềm dẫn lên tòa án đó. Giữ cho anh trong sạch.

Billy đậu chiếc xe mới của mình hệt như cách làm với chiếc xe cũ (khác ga-ra, cùng một điểm mù ở tầng trên) đủ lâu để chuyển ti-vi và máy tính xách tay mới sang chiếc Fusion. Cả những chiếc va li giá rẻ mà anh cất giấu trong thùng chiếc Toyota vào đêm qua. Chúng nêm chặt quần áo giá rẻ mua ở Walmart. Anh lái chiếc Fusion đến căn nhà số 658 đường Pearson và dừng lại ở đường lái, ngay đầu con đường nhựa có cỏ mọc ở giữa. Anh hy vọng Jensen sẽ nhìn thấy anh chuyển vào và không phải thất vọng.

Dalton Smith có thấy cô đang nhìn xuống từ ô cửa sổ trên tầng hai không? Billy cho là không. Dalton là một con mọt máy tính, đắm chìm trong thế giới của riêng mình. Anh chật vật lôi hai chiếc va li đến cửa và mở khóa bằng chìa mới. Bước xuống chín bậc thềm sẽ đưa anh đến cánh cửa căn hộ mới của Dalton Smith, và tại đây anh cần sử dụng một chiếc chìa khóa khác. Cửa dẫn thẳng vào phòng khách. Anh thả những chiếc túi xuống tấm thảm công nghiệp và đi xung quanh, kiểm tra bốn phòng – à không, năm, tính cả phòng tắm.

Nội thất khá đẹp, Richter đã nói như thế. Không đúng lắm, nhưng cũng không đến nỗi. Nó làm anh nghĩ đến từ tạm được . Một chiếc giường đôi, và khi Billy ngả người ra giường, nó phát ra những tiếng cọt kẹt nhưng không thấy lò xo chọc vào người, vậy là xịn lắm rồi. Có một chiếc ghế tựa đặt trước tủ chè dùng để kê một chiếc ti-vi nhỏ, giống chiếc mà anh đã mua ở Cửa hàng Điện tử Giảm giá. Chiếc ghế thì ổn, nhưng những vệt vằn vện khiến anh tức mắt. Anh muốn lấy gì đó che nó lại.

Nhìn chung, anh hài lòng với chỗ này. Anh bước đến một ô cửa sổ hẹp, nằm ngang với bãi cỏ. Như thể nhìn qua kính tiềm vọng vậy , Billy nghĩ. Anh chú ý tới luật xa gần. Bằng cách nào đó, nó mang lại cảm giác ấm cúng. Anh rất quý mến những người hàng xóm ở Midwood, đặc biệt là gia đình Ackerman, nhưng anh nghĩ mình thích nơi này hơn. Nó đem đến cảm giác an toàn. Có một chiếc ghế dài tuy cũ nhưng trông khá thoải mái và anh quyết định sẽ thế nó vào chỗ chiếc ghế sọc vằn, để anh có thể ngồi đó ngắm phố. Những người bước đi trên vỉa hè có thể nhìn vào căn nhà, nhưng hầu hết sẽ chẳng ai liếc xuống cửa sổ tầng hầm này và thấy anh đang trông ra ngoài. Đây là một cái hang , Billy nghĩ. Nếu phải xuống đất, đây là nơi mình nên ở, chứ không phải một nơi nào đó an toàn ở Wisconsin. Bởi nơi này thực sự nằm trong đ...

Có tiếng gõ cửa nhẹ phía sau lưng anh, thực ra giống tiếng lạch cạch hơn. Anh quay lại và thấy Jensen đang đứng ở cánh cửa mà anh để mở, móng tay gẩy vào tay nắm cửa.

“Chào, anh Smith.”

“Ồ, xin chào.” Giọng của Dalton Smith cao hơn một chút so với Billy Summers và David Lockridge. Nghe rõ cả tiếng thở, như mắc bệnh hen. “Vậy là cô đã thấy tôi chuyển vào rồi đấy, Jensen.” Anh ra hiệu về phía những chiếc va li của mình.

“Vì chúng ta đã là hàng xóm của nhau rồi, sao anh không gọi tôi là Beverly nhỉ?”

“Được rồi, cảm ơn cô. Cứ gọi tôi là Dalton. Xin lỗi, tôi không thể mời cô cà phê hay gì khác, vẫn chưa có đồ dùng gì...”

“Tôi hiểu mà, không sao đâu. Chuyển nhà đau đầu thật sự phải không?”

“Chắc chắn rồi. Vì tôi đi đây đó suốt nên cũng không có nhiều đồ đạc. Với tôi, khách sạn mới là nhà. Tuần này thì Lincoln, Nebraska, sau đó là Omaha.” Billy nhận ra một điều rằng nếu anh nói dối về các chuyến công tác đến các thành phố có quy mô và tầm quan trọng trung bình trong kế hoạch phát triển kinh tế, thì mọi người sẽ tin. “Tôi cần mang thêm đồ vào, vì vậy thứ lỗi cho tôi...”

“Anh có cần tôi giúp đỡ gì không?”

“Không cần đâu, tôi ổn,” anh đáp, sau đó cân nhắc lại. “À...”

Họ cùng nhau bước ra ngoài về phía chiếc Fusion. Billy đưa cho cô ba chiếc máy tính không thương hiệu. Ôm những chiếc hộp trong tay, Jensen trông như một nữ nhân viên giao pizza Domino’s. “Chúa ơi, tôi phải cẩn thận để không đánh rơi những thứ này, chúng còn mới tinh. Và có lẽ là cả một gia tài.”

Chúng chỉ có giá khoảng 900 đô-la, nhưng Billy không phủ nhận điều cô nói. Anh hỏi liệu chúng có quá nặng không.

“Ồ, vẫn nhẹ hơn một giỏ quần áo ướt. Anh tự lắp đặt những thứ này hết sao?”

“Ngay sau khi có điện,” Billy đáp. “Tôi thường làm thế. Nhưng chỉ vài việc thôi. Còn đâu tôi thuê