CHƯƠNG 12 01
Billy tỉnh giấc và cảm thấy mông lung. Căn phòng tối om, thậm chí không một tia sáng nào lọt vào từ bóng viền ô cửa sổ đối diện với sân sau. Trong chốc lát, anh chỉ nằm đó, nửa tỉnh nửa mê, rồi mới sực nhớ ra căn phòng này vốn không có cửa sổ. Ô cửa sổ duy nhất nằm trong phòng khách. Nơi mà anh gọi là kính tiềm vọng. Đây không phải là phòng ngủ lớn trên tầng hai ở đường Evergreen mà là phòng ngủ trong căn hộ tầng hầm ở đường Pearson. Billy nhớ ra anh đang chạy trốn.
Anh lấy nước cam từ tủ lạnh, dốc nốt một hai ngụm còn lại, sau đó vào phòng tắm giũ sạch đám mồ hôi từ hôm qua. Anh mặc quần áo, đổ sữa vào một tô ngũ cốc Alpha-Bits, sau đó bật ti-vi xem bản tin 6 giờ sáng.
Thứ đầu tiên đập vào mắt anh là Giorgio Piglielli. Không phải ảnh chụp mà là một bức vẽ nhận dạng theo mô tả của các nhân chứng, mà cũng có thể coi là một bức ảnh vì nó giống đến kinh ngạc. Billy biết ngay ai là nhân chứng phối hợp với người họa bức vẽ này. Irv Dean, nhân viên bảo vệ của Tháp Gerard, một cựu cảnh sát và có vẻ như kỹ năng quan sát của ông ta vẫn còn rất bén, ít nhất là khi ông ta không dán mắt vào tờ Motor Trend hay kiểm tra mông, ngực mấy cô nàng trên số ra áo tắm của tờ Sports Illustrated . Không có tin gì mới về Ken Hoff. Nếu cảnh sát đã móc nối anh ta vào vụ bắn Allen, họ sẽ không chia sẻ nó với báo giới. Ít nhất là chưa.
Nữ biên tập viên thời tiết có mái tóc vàng đang tươi tỉnh trình bày một bản cập nhật ngắn gọn, nói về việc thời tiết trở lạnh bất thường vào thời điểm này trong năm ra sao. Cô ta hứa hẹn về một dự báo chi tiết hơn sau, rồi nhường lời cho một phóng viên giao thông tóc vàng cảnh báo sáng nay những người đi làm hãy giảm tốc độ vì “sự hiện diện đông đúc của cảnh sát”.
Nó có nghĩa là các rào chắn. Cảnh sát cho rằng kẻ nổ súng vẫn còn ở trong thành phố, điều này chính xác. Họ cũng giả định rằng gã béo tự xưng là George Russo cũng đang ở trong thành phố. Điều này thì không. Cựu đại diện văn chương của anh đang ở Neveda, có thể bị vùi dưới đất và phần lớn cơ thể đang bắt đầu phân hủy.
Sau một quảng cáo về xe tải Chevy, bản tin trở lại với một vị thám tử đã về hưu. Ông được đề nghị suy đoán những lý do có thể khiến Joel Allen bị sát hại. Vị này nói, “Tôi chỉ xét đến một khả năng. Có kẻ muốn anh ta im miệng trước khi có thể tiết lộ thông tin để xin giảm án.”
“Anh ta có thể mong đợi loại giảm án nào, thưa ông?”, một trong những người dẫn chương trình hỏi. Chính là người phụ nữ da ngăm đen tóc vàng. Làm thế nào mà tất cả họ đều trông tươi tỉnh như vậy nhỉ? Ngáo đá à?
“Sống thay vì chết thôi,” vị thám tử đáp lời, thậm chí không cần thời gian để suy nghĩ.
Billy chắc chắn rằng điều này cũng chính xác. Câu hỏi duy nhất mà anh thắc mắc là Allen biết gì, và tại sao vụ giết người lại rầm rộ như vậy. Như một lời cảnh báo cho những kẻ như Allen sao? Bình thường, Billy sẽ không quan tâm. Bình thường, anh chỉ là một thợ máy. Tuy nhiên anh chẳng thấy điểm nào trong tình huống mà mình rơi vào lúc này là bình thường.
Các biên tập viên chuyển lời sang một phóng viên khác đang phỏng vấn John Colton, một người trong nhóm Những Luật sư Trẻ tuổi, và Billy không muốn xem cảnh đó. Mới chỉ một tuần trước, anh và Johnny cùng Jim Albright đã đấu bóng để tìm ra ai là người phải trả tiền mua taco. Họ đã cùng ở trên quảng trường, cười đùa và có một khoảng thời gian bên nhau hết sức vui vẻ. Lúc này, John trông choáng váng và vô cùng đau khổ. Cậu ta nói “Tất cả chúng tôi đều nghĩ anh ta là một người đàng hoàng” trước khi Billy tắt ti-vi.
Anh rửa sạch bát ngũ cốc của mình, rồi kiểm tra điện thoại của Dalton Smith. Có một tin nhắn từ Bucky, chỉ vỏn vẹn bốn từ: Chưa thấy chuyển tiền . Anh đã đoán trước được, nhưng chuyện này – thêm cả biểu cảm trên khuôn mặt của Johnny Colton – không phải là cách bắt đầu ngày đầu tiên – cũng có thể gọi là như vậy – bị giam cầm.
Nếu đến giờ vẫn chưa có giao dịch chuyển khoản nào thì rất có thể anh sẽ không nhận được khoản tiền đó. Anh đã được trả trước năm trăm nghìn, một khoản không nhỏ, nhưng thỏa thuận không phải vậy. Cho đến sáng nay, Billy đã quá bận đến mức không có thời gian nổi điên vì bị chính một người mà anh tin tưởng lừa, nhưng ngay lúc này, khi không có nhiều việc để làm, anh đang vô cùng giận dữ. Anh đã làm xong việc, không chỉ vào ngày hôm qua. Anh đã theo vụ này trong hơn ba tháng và chi phí cá nhân phát sinh nhiều hơn dự định. Họ đã thỏa thuận thế mà giờ ai là người lật kèo?
“Kẻ xấu.” Billy tự nhủ.
Anh truy cập vào tờ báo địa phương. Dòng tiêu đề rất lớn – VỤ ÁM SÁT XẢY RA Ở TÒA ÁN ! – nhưng trông càng lớn và đậm hơn trên màn hình iPhone. Bài báo toàn nói mấy tin mà anh đã biết, nhưng bức ảnh chính cho thấy rõ lý do tại sao trưởng nha cảnh sát Vickery không tham dự cuộc họp báo cùng cảnh sát trưởng Conlee. Bức ảnh cho thấy chiếc mũ Stetson lố bịch nằm chỏng chơ trên bậc thang dẫn lên tòa án, mà không có viên cảnh sát hạt nào cầm nó lên cả. Vickery đã bỏ chạy. Một bức ảnh hơn ngàn lời nói. Đối với ông ta, đó không phải là một cuộc họp báo mà là buổi bêu xấu nhục nhã đáng xấu hổ.
Chúc ông may mắn được bầu lại với bức ảnh đó, Billy nghĩ.
02Anh lên tầng để tưới nước cho Daphne và Walter, sau đó khựng lại với chai xịt trên tay, tự hỏi liệu có phải anh đã mất trí rồi không. Anh cần tưới nước chứ không phải dìm chúng chết. Anh kiểm tra tủ lạnh của Jensen và chẳng muốn lấy gì nhưng có một hộp bánh nướng xốp kiểu Anh trên một ngăn với một chiếc còn sót lại, anh lôi nó ra, tự nhủ nếu không ăn thì nó sẽ bị mốc mất. Ở đây có cửa sổ và anh ngồi trên quầy bar ở bếp, vừa ăn bánh nướng vừa nghĩ về những gì mình đang trốn tránh. Tất nhiên, đó là câu chuyện của Benjy. Đó là công việc duy nhất anh có thể làm vào lúc này, khi anh vừa kết thúc một công việc đưa đẩy anh đến đây. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc anh phải viết về Thủy quân lục chiến, và có quá nhiều điều cơ bản cần viết, bắt đầu với chuyến xe buýt tới Đảo Parris. Quá nhiều.
Billy rửa chiếc đĩa mình vừa dùng, lau khô, đặt nó trở lại tủ và bước xuống cầu thang. Anh trông ra cửa sổ kính tiềm vọng và chẳng thấy gì. Chiếc quần anh mặc ngày hôm qua đang nằm trên sàn phòng ngủ. Anh nhặt nó lên và sờ vào túi, gần như mong rằng mình đã đánh mất chiếc USB ở đâu đó trên đường đi, nhưng nó vẫn ở đó cùng chùm chìa khóa của anh, một trong số đó có chìa khóa chiếc Ford Fussin mà Dalton Smith thuê, đang đậu trong bãi đỗ xe ở phía bên kia thị trấn. Đậu ở đó cho đến khi anh cảm thấy đủ an toàn để rời đi. Khi tình hình lắng dịu , như trong các bộ phim về phi vụ cuối cùng luôn gặp trục trặc.
Chiếc USB nặng hơn thì phải, anh cảm thấy thế. Nhìn vào nó, một thiết bị lưu trữ kỳ diệu mà cách đây ba mươi năm, nó dường như là một điều không tưởng, có hai điều mà anh không thể tin nổi. Một là anh đã nhét vào nó bao nhiêu chữ rồi. Điều còn lại là nó có thể chứa thêm bao nhiêu nữa. Nhiều gấp đôi. Gấp bốn. Gấp mười, gấp hai mươi.
Anh mở chiếc máy tính mà cứ ngỡ mình đã đánh mất, một bùa hộ mệnh đắt tiền hơn chiếc giày trẻ em mòn vẹt, đầy bùn đất. Anh nhập mật khẩu, cắm USB vào và kéo tệp tài liệu duy nhất được lưu trữ ra ngoài màn hình máy tính.
Anh nhìn vào dòng đầu tiên – Gã đàn ông mà mẹ tôi sống cùng đã trở về nhà với một cánh tay bị gãy – và cảm thấy tuyệt vọng. Đây là một tác phẩm hay, anh chắc chắn như thế, nhưng cảm giác nhẹ nhàng lúc bắt đầu giờ lại trở nên nặng nề, vì anh có trách nhiệm phải viết phần còn lại thật hay; mà anh không chắc mình có thể làm được hay không.
Anh bước đến ô cửa sổ kính tiềm vọng và một lần nữa không nhìn thấy gì, băn khoăn liệu có phải anh vừa phát hiện ra lý do tại sao rất nhiều nhà văn không thể hoàn thành những gì mình đã bắt đầu không. Anh nghĩ về The Things They Carried , một trong những cuốn sách hay nhất từng viết về chiến tranh, lại có được danh hiệu hay nhất. Anh cho rằng viết lách cũng là một cuộc chiến, bạn phải chiến đấu với chính mình. Câu chuyện là những gì bạn mang theo, và với mỗi lần bổ sung, hành trang ấy lại trở nên nặng nề hơn.
Trên thế giới có rất nhiều cuốn sách dang dở – hồi ký, tập thơ, tiểu thuyết, các kế hoạch giảm cân hoặc làm giàu – được nhét kỹ trong ngăn kéo bàn làm việc, bởi người viết có thể cảm thấy nó nặng đến mức không thể mang theo và đành đặt nó tại đó.
Chờ đến một lúc nào đó, họ có lẽ đã nghĩ vậy. Khi bọn trẻ lớn hơn một chút, hoặc khi mình nghỉ hưu chẳng hạn.
Vậy ư? Liệu nó có quá áp lực nếu anh thử viết tiếp về chuyến xe buýt, về kiểu tóc của lính thủy đánh bộ và cả lần đầu tiên Trung sĩ Uppington hỏi anh Mày có muốn bú c* tao không, Summers? Muốn không? Vì trông mày hệt lũ bóng vậy.
Hỏi ư?
Ồ không, hắn không hề hỏi, Billy nghĩ, trừ phi nếu đó là thứ mà người ta hay gọi là một câu hỏi tu từ. Hắn hét vào mặt mình, mũi hắn chỉ cách vài phân, nước bọt hắn bắn cả lên môi mình, và mình đã đáp Thưa trung sĩ, không, tôi không muốn bú c* anh và hắn nói tiếp Mày chê c* tạo à, binh nhất Summers, mày có viện lý do như thế lúc đăng ký đi lính không?
Làm thế nào mà tất cả trở lại, và liệu anh có thể viết ra tất cả, ngay cả với tư cách là Benjy Compson không?
Billy cho là mình không thể. Anh kéo rèm và trở lại máy tính, tắt máy và dành cả ngày trước màn hình ti-vi. Xem hết Ellen DeGeneres, Hot Bench, Kelly and Ryan và The Price Is Right trước bữa trưa. Sau đó, anh chợp mắt một lát và dành cả buổi chiều cho phim truyền hình dài tập. Anh có thể kết thúc một ngày với John Law , người lúc nào cũng kè kè cái búa như Coolio trong các video âm nhạc cũ và trong phòng xử án cũng không chịu xuôi xị. Nhưng khi anh chạm vào nút tắt trên điều khiển, một suy nghĩ lóe lên trong đầu anh. Gần như có ai đó đã thì thầm vào tai anh.
Mày tự do. Mày có thể làm bất cứ điều gì mày muốn.
Nhưng không tự do về thể xác. Anh sẽ bị nhốt trong căn hộ này ít nhất cho đến khi cảnh sát quyết định dỡ các rào chắn, và thậm chí sẽ khôn ngoan hơn nếu ở lại thêm vài ngày cho chắc. Nhưng về câu chuyện của mình, anh có thể thoải mái viết bất cứ điều gì mình muốn. Và anh muốn viết như nào . Không còn ai đứng sau nhìn qua vai, theo dõi những gì anh viết, anh không cần phải đóng giả là một kẻ ngốc để viết về một kẻ ngốc. Anh có thể là một người thông minh khi viết về một thanh niên trẻ (rằng Benjy sẽ thế nào nếu Billy tiếp tục câu chuyện), một người ít học và ngây thơ nhưng không hề ngu ngốc.
Mình có thể bỏ đi phần về Faulkner chết tiệt, Billy nghĩ. Mình có thể viết he và I thay vì me và him. Mình có thể viết can’t thay vì cant. Mình thậm chí có thể thêm dấu ngoặc kép vào hội thoại nếu muốn . [*]
Nếu chỉ viết cho mình, anh có thể viết những gì quan trọng với anh và bỏ qua những gì không. Anh không cần phải viết về kiểu tóc của lính Thủy quân lục chiến, dù anh có thể. Anh không cần phải viết về việc gã Uppington đã hét vào mặt anh, dù anh có thể. Anh không cần phải viết về chàng trai – Haggerty hay Haverty gì đó, Billy cũng chẳng thể nhớ rõ – đang chạy thì lên cơn đau tim và được đưa đến bệnh xá, và Trung sĩ Uppington nói rằng cậu ta ổn và có lẽ thế thật; mà biết đâu cậu ta chết rồi.
Billy phát hiện ra rằng nỗi tuyệt vọng nơi anh đã nhường chỗ cho cảm xúc háo hức dâng trào. Thậm chí có chút kiêu ngạo. Và nếu vậy thì sao? Anh có thể viết những gì mình muốn. Và anh sẽ làm vậy.
Anh sẽ thay đổi toàn bộ, đổi Benjy thành Billy và Compson thành Summers.
03Tôi bắt đầu tham gia khóa đào tạo cơ bản ở Đảo Parris. Lý ra phải ở đó ba tháng nhưng tôi chỉ ở đó tám tuần. Thường xuyên có người bị đánh, bị phạt; một số từ bỏ, một số đào ngũ nhưng tôi không phải là một trong số đó. Những kẻ đào ngũ và bị loại bỏ có thể còn nơi nào đó để về, còn tôi thì không.
Tuần thứ sáu là Tuần lễ Cỏ [*] , trong thời gian này chúng tôi học cách tháo rời các bộ phận của súng rồi lắp lại. Tôi thích việc này, và thậm chí còn giỏi là đằng khác. Khi Trung sĩ Uppington yêu cầu chúng tôi thực hiện điều mà hắn gọi là “một cuộc chạy đua vũ trang”, tôi luôn là người hoàn thành trước nhất. Rudy Bell, mọi người hay gọi cậu ta là Taco, thường đứng ở vị trí thứ hai. Cậu ta chẳng bao giờ đánh bại tôi, nhưng thỉnh thoảng cũng suýt soát. George Dinnerstein thường về bét và phải chịu phạt hít đất 25 lần, với chân của gã Up gác lên mông George trong suốt thời gian đó.
Nhưng George bắn tốt. Không tốt bằng tôi, nhưng đúng thế, cậu ta có thể đưa ba trong số bốn viên đạn vào khối tâm của mục tiêu bằng giấy ở tầm xa gần 300m, lần nào cũng vậy.
Dù vậy, chẳng có buổi bắn súng nào trong Tuần lễ Cỏ. Tuần đó, chúng tôi cứ tháo rồi lắp súng, vừa hô vang Kinh tin kính Rifleman [*] : “Đây là khẩu súng trường của tôi. Có nhiều khẩu súng như này, nhưng đây là súng của tôi. Súng là người bạn tốt nhất của tôi. Là cuộc sống của tôi.” Và cứ như thế. Phần tôi nhớ nhất là “Không có tôi, súng thật vô dụng. Nếu không có súng, tôi cũng vô dụng.”
Một việc khác mà chúng tôi làm trong suốt Tuần lễ Cỏ là ngồi bệt trên bãi cỏ. Có lần suốt sáu tiếng đồng hồ.
Billy dừng lại ở đó, khẽ mỉm cười và nhớ về Pete “Donk” Cashman. Có lần, Donk ngủ gật khi ngồi trên bãi cỏ cao ở Nam Carolina và Up Yours đã quỳ xuống, hét vào mặt để đánh thức anh ấy. Việc này khiến mày chán quá à?
Donk đứng bật dậy, nhanh và mạnh đến nỗi suýt chút nữa bổ nhào, hét lên Không thưa ngài! ngay cả trước khi anh ấy tỉnh táo hẳn. Anh ấy là bạn thân của George Dinnerstein và chọn biệt danh Donk (thổi) vì anh ấy có thói quen nắm đũng quần và luôn miệng hét Honk my donk (Thổi còi anh đi). Tuy nhiên, anh ấy chưa bao giờ bảo Up thổi cả.
Những ký ức cứ thi nhau ào ạt kéo về như Billy nghĩ – anh biết, thực sự là thế – nhưng anh không muốn viết về Tuần lễ Cỏ. Anh cũng chẳng muốn viết về Donk lúc này, có thể là viết sau. Anh muốn viết về Tuần thứ 7, và tất cả những gì đã xảy ra sau đó.
Billy cúi xuống máy tính. Nhiều giờ đã trôi qua, không nhìn thấy gì và không cảm thấy gì. Căn phòng này như có bùa ám. Anh hít vào rồi thở ra.
04Sau Tuần lễ Cỏ là Tuần lễ Bắn súng. Chúng tôi sử dụng M40A, một phiên bản quân sự của Remington 700. Vòng bi năm viên, giá đỡ ba chân, đạn thắt cổ chai NATO.
“Ta phải nhìn thấy địch nhưng không được để địch nhìn thấy ta,” Up nhắc đi nhắc lại điều đó. “Và dù các cậu nhìn thấy gì trên phim, lính bắn tỉa không hoạt động một mình .”
Dù nơi đó không phải Trường dạy Bắn tỉa, nhưng Up chia chúng tôi thành từng nhóm hai người, một người chuyên phát hiện mục tiêu và một người ngắm bắn. Tôi ở cùng đội với Taco và George cùng đội với Donk. Tôi nhắc đến họ bởi chúng tôi đồng hành cùng nhau ở Fallujah, cả Vigilant Resolve vào tháng Tư năm 2004 và Chiến dịch Phantom Fury vào tháng Mười một cùng năm đó. Toai [*] và Taco
Billy dừng lại, lắc đầu, nhớ về bản thể ngờ nghệch của mình trong quá khứ. Anh xóa nó đi và bắt đầu lại.
Taco và tôi đổi vai qua lại trong suốt Tuần lễ Bắn súng, tôi bắn còn anh ấy phát hiện mục tiêu, sau đó anh ấy bắn và tôi phát hiện mục tiêu. George và Donk cũng làm tương tự, nhưng Up bảo họ ngừng lại. “Mày bắn, Dinner Winner. Còn Cash, mày chỉ phát hiện mục tiêu thôi.”
“Thưa ngài, tôi cũng muốn bắn!” Donk hét lớn. Bạn phải hét lên nếu muốn Up Yours chú ý. Thủy quân lục chiến phải vậy.
“Còn tao thì muốn lột ngực của mày ra rồi nhét vào bàn tọa gớm ghiếc của mày,” Up trả lời. Vì vậy, kể từ đó, George là người bắn súng còn Donk là người phát hiện mục tiêu. Vai trò đó không đổi dù là ở Trường dạy Bắn tỉa hay ở Iraq.
Khi Tuần lễ Bắn súng gần kết thúc, Trung sĩ Uppington gọi tôi và Taco vào văn phòng, nơi chẳng có gì nhiều nhặn ngoài một cái tủ. Hắn nói, “Hai đứa mày là hai thằng kỳ quái, nhưng mày có thể bắn. Mày có lẽ còn có thể học cách lướt sóng nữa.”
Đó là cách tôi và Taco được chuyển đến Doanh trại Pendleton, và cũng là cách chúng tôi kết thúc khóa đào cơ bản của mình, thời gian sau đó chúng tôi chủ yếu bắn súng vì chúng tôi được đào tạo để trở thành lính bắn tỉa. Chúng tôi bay đến California bằng máy bay của hãng hàng không United Airlines. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được đi máy bay.
Billy dừng tay. Anh có muốn viết về Pendleton không? Không. Không có lướt sóng, ít nhất thì nó không dành cho anh. Làm sao anh có thể lướt sóng khi chưa bao giờ học bơi cơ chứ: Anh mua cho mình một chiếc áo phông có in dòng chữ CHARLIE KHÔNG LƯỚT SÓNG và mặc nó nhiều đến nỗi sờn rách cả. Anh đã mặc nó vào cái ngày anh nhặt được chiếc giày trẻ em và buộc nó vào thắt lưng bên hông phải của mình.
Anh có muốn viết về Chiến dịch Đất nước Iraq Tự do [*] không? Không. Khi anh đến Baghdad, chiến tranh đã kết thúc. Tổng thống Bush đã nói như vậy, từ trên boong tàu USS Abraham Lincoln . Ông nói rằng nhiệm vụ đã được hoàn thành, và điều đó khiến Billy và những người lính khác trong trung đoàn trở thành “những người gìn giữ hòa bình”. Ở Baghdad, anh cảm thấy mình được chào đón, thậm chí là yêu mến. Phụ nữ và trẻ em ai ai cũng tung bông. Còn đàn ông thì đua nhau hò hét nahn nihubu amerikaan, chúng tôi yêu nước Mỹ.
Chuyện đó không kéo dài được lâu, Billy nghĩ, vì vậy, đừng bận tâm đến Baghdad nữa. Hãy bắt đầu với những chuyện tệ hại. Và anh bắt đầu viết tiếp.
Mùa thu năm 2003, tôi đóng quân ở Ramadi, vẫn đang gìn giữ hòa bình, dù đôi khi các vụ nổ súng vẫn xảy ra và các giáo sĩ Hồi giáo bắt đầu thêm cụm từ “cái chết cho nước Mỹ [*] ” vào các bài thuyết giảng của họ được phát đi từ các nhà thờ Hồi giáo và đôi khi là từ các mặt tiền cửa hàng. Tôi thuộc Tiểu đoàn 3, được biết đến với cái tên Hắc Mã. Đại đội Echo. Chúng tôi bắn tập rất nhiều mục tiêu trong khoảng thời gian đó. George và Donk ở một nơi khác, nhưng Taco và tôi vẫn ở cùng một đội.
Ngày nọ, một trung tá mà tôi không biết là ai đã ghé qua để xem chúng tôi bắn. Lúc đó, tôi đang sử dụng khẩu M40, mục tiêu là các lon bia dựng thành hình kim tự tháp cách đó hơn 700m, bắn hạ từng lon một từ trên xuống dưới. Bạn phải kiểm soát lực để đánh đổ lon, nếu không cả kim tự tháp lon sẽ đổ nhào.
Vị trung tá đó, Jamieson, bảo tôi và Taco đi cùng mình. Hắn chở chúng tôi trên một chiếc xe Jeep không được bọc thép lên một ngọn đồi nhìn ra nhà thờ Hồi giáo al-Dawla. Đó là một nhà thờ rất đẹp. Bài thuyết giáo vang lên từ loa phóng thanh không hay lắm. Thật nhảm nhí khi người Mỹ cho rằng họ có thể cho phép người Do Thái lập thuộc địa ở Iraq, đạo Hồi bị cấm, người Do Thái sẽ điều hành chính phủ còn Mỹ sẽ lấy được dầu. Chúng tôi không hiểu biệt ngữ, nhưng cái chết cho nước Mỹ được nhắc đến bằng tiếng Anh, và chúng tôi đã nhìn thấy các tờ rơi đã được dịch bởi các giáo sĩ Hồi giáo hàng đầu. Quân nổi dậy tung ra hàng loạt những tờ rơi này. Bạn sẽ hy sinh vì Tổ quốc? Bạn sẽ hy sinh thân mình vì vinh quang Hồi giáo?
“Phát súng đến đó bao xa?” Jamieson hỏi, chỉ tay về phía mái vòm của nhà thờ Hồi giáo.
Taco nói rằng khoảng 1000m. Tôi nói khoảng 900, sau đó cẩn thận nói thêm một cách kính cẩn với Jamieson rằng chúng tôi bị cấm nhắm mục tiêu vào các địa điểm tôn giáo. Nếu vị trung tá có suy nghĩ như vậy trong đầu.
“Dẹp suy nghĩ đó đi,” Jamieson nói. “Tôi không bao giờ yêu cầu lính của mình nhắm mục tiêu vào một trong những thứ liên quan đến tín ngưỡng của họ. Nhưng những gì phát ra từ những cái loa đó là chính trị , chứ không phải tôn giáo. Vậy ai trong số hai cậu muốn thử hạ gục một trong số chúng? Mà không làm thủng một lỗ trên mái vòm? Nếu thế thì sai lắm và chúng ta có thể chết trong tay quân nổi dậy.”
Taco ngay lập tức đưa súng trường cho tôi. Không có giá đỡ ba chân ở đó nên tôi đặt nòng súng lên mui xe Jeep và bắn. Jamieson sử dụng ống nhòm, nhưng tôi không cần cũng nhìn thấy một trong những chiếc loa phát thanh rơi xuống đất, kéo theo cả dây. Không để lại lỗ trên mái vòm và không có tiếng hô hoán nào xuất hiện, ít nhất là từ phía đó.
“Trúng rồi!” Taco hét lên. “Trúng nó rồi!”
Jamieson nói rằng chúng tôi nên cuốn xéo trước khi ai đó nổ súng về phía chúng tôi, vì vậy chúng tôi đã làm vậy.
Tôi nhìn lại chuyện đó và nghĩ ngày hôm đó đã tổng hợp mọi sai lầm ở Iraq, tại sao “chúng tôi yêu nước Mỹ” lại đổi thành “cái chết cho nước Mỹ”. Vị trung tá đã quá mệt mỏi khi nghe những điều tào lao vô tận đó nên hắn bảo chúng tôi nhắm vào một trong hai cái loa, điều này thật ngu ngốc và vô nghĩa khi bạn biết rằng có ít nhất sáu cái nữa đang chỉa về các hướng khác.
Tôi nhìn thấy những người đàn ông đứng ở cửa ra vào và những phụ nữ đang nhìn qua các ô cửa sổ khi chúng tôi lái xe trở về căn cứ. Biểu cảm trên khuôn mặt họ không vui vẻ kiểu chúng tôi yêu nước Mỹ . Không có ai bắn súng về phía chúng tôi – vào ngày hôm đó – nhưng những khuôn mặt như muốn nói rằng ngày đó sẽ không xa. Trong mắt họ, chúng tôi không bắn vào một cái loa. Chúng tôi đang nhắm vào nhà thờ Hồi giáo. Không có cái lỗ nào trên mái nhà, nhưng có lẽ chúng tôi đã nổ súng vào đức tin của họ.
Các cuộc tuần tra của chúng tôi ở Ramadi bắt đầu trở nên nguy hiểm hơn. Cảnh sát địa phương và Lực lượng Vệ binh Quốc gia Iraq đang dần mất kiểm soát trước quân nổi dậy, nhưng các lực lượng của Mỹ không được phép thế chỗ họ vì các chính trị gia, cả ở Washington và Baghdad, đều tận tâm với ý muốn tự trị. Chúng tôi chủ yếu ngồi ngoài doanh trại, hy vọng không phải làm nhiệm vụ bảo vệ trong khi đội sửa chữa đang sửa lại mạch nước bị vỡ (hoặc bị phá hoại), hoặc một nhóm kỹ thuật viên người Mỹ và Iraq cố gắng sửa chữa nhà máy điện bị chập chờn (hoặc bị phá hoại) hoạt động trở lại. Nhiệm vụ bảo vệ chỉ là yêu cầu nhắm bắn, và đến cuối năm 2003 chúng tôi có năm, sáu lính thủy đánh bộ KIA, và nhiều người bị thương. Các tay súng bắn tỉa của quân nổi dậy thì khá phèn, nhưng IED [*] của chúng khiến chúng tôi khiếp sợ.
Toàn bộ các ván bài chính trị đều bị lật đổ vào ngày cuối cùng của tháng Ba năm 2004.
Được rồi , Billy nghĩ, đây là lúc câu chuyện thực sự bắt đầu. Và để đến được đây mình cũng phải trải qua những điều nhảm nhí (nhưng ít nhất cũng ở mức tối thiểu), như Up Yours từng nói.
Sau đó, chúng tôi chuyển từ Ramadi đến Doanh trại Baharia, còn có một cái tên mỹ miều là Dreamland – Vùng đất mơ mộng. Nó thuộc vùng nông thôn, cách Fallujah hai dặm, nằm ở phía tây sông Euphrates. Mấy đứa nhóc nhà Saddam [*] từng đến đây cắm trại, chúng tôi nghe nói vậy. George Dinnerstein và Donk Cashman đã quay trở lại và nhập hội với chúng tôi trong đại đội Echo.
Bốn người chúng tôi đang chơi poker thì nghe thấy tiếng súng nổ vang lên từ bên kia cái mà chúng tôi gọi là Cầu Brooklyn. Không phải chỉ một hai tiếng rời rạc mà cả tràng dài.
Đến đêm, những tin đồn lắng dịu và chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Bốn nhà thầu của Blackwater cung cấp lương thực cho quân đội – gồm các bữa ăn của chúng tôi ở Dreamland – đã quyết định đi đường tắt qua Fallujah thay vì đi vòng, như một nghi thức ngoại giao thông thường. Họ bị phục kích ngay cây cầu bắc qua sông Euphrates. Tôi đoán những chiếc xe đều được bọc thép, nhưng không gì có thể cứu họ khỏi cơn mưa đạn như muốn thổi bay hai chiếc xe Mitsubishi mà họ đang lái.
“Lạy Chúa, điều gì đã khiến họ nghĩ có thể lái xe qua trung tâm thành phố, ngang nhiên như ở Omaha vậy chứ? Thật là ngu ngốc hết sức,” Taco nói.
George tán thành, rồi nói dù ngu ngốc hay không, họ đã phải trả giá. Tất cả chúng tôi đều nghĩ thế. Vụ giết chóc đã đủ tồi tệ nhưng đám du thủ du thực không chịu dừng lại ở đó. Chúng lôi những thi thể ra khỏi hai chiếc xe, rưới xăng và châm lửa. Hai trong số họ bị lôi ra chẳng khác nào con gà quay. Hai người còn lại bị treo trên cầu như thể hình nộm của Guy Fawkes [*] .
Hôm sau, trung tá Jamieson xuất hiện khi đội chúng tôi chuẩn bị đi tuần. Hắn ra lệnh cho tôi và Taco đi xuống phía sau chiếc Hummer mà chúng tôi đang ngồi và bảo chúng tôi đi cùng hắn vì có một người đàn ông muốn gặp mặt chúng tôi.
Người đàn ông đó đang ngồi trên đống lốp xe trong ga-ra trống, mùi hôi của dầu máy và khí thải sực lên. Ở đây nóng chẳng khác gì địa ngục vì tất cả các cửa đều đóng kín mít và tất nhiên làm gì có máy lạnh. Hắn đứng dậy khi chúng tôi bước vào và nhìn chúng tôi một lượt. Hắn mặc áo khoác da, thật là một điều ngớ ngẩn trong một căn phòng hôi hám mà nhiệt độ khéo có khi lên đến 30 độ C như thế này. Trên ngực của chiếc áo khoác là biểu tượng của Tiểu đoàn Hắc Mã: dòng chữ CONSUMMATE PROFESSIONALS ở phía trên và GET SOME ở phía dưới [*] . Nhưng chiếc áo khoác chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Tôi nhận ra điều đó ngay lập tức và Taco sau đó cũng nói rằng anh ta cũng biết điều đó. Bạn chỉ cần nhìn vào người đàn ông đó là biết hắn là “Chết tiệt-Tình báo Trung ương, Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA)”. Hắn hỏi ai trong hai cậu là Summers và tôi lên tiếng. Hắn nói tên mình là Hoff.
Billy dừng lại một chút, cảm thấy rất đỗi ngạc nhiên. Anh vừa mới lẫn lộn giữa đời thực và quá khứ tệ hại. Có phải Robert Stone đã nói tâm trí hệt như một con khỉ [*] không? Chắc chắn là như thế, trong Dog Soldiers . Trong tác phẩm của mình, Stone cũng nói rằng những gã đàn ông săn voi bằng súng máy từ trên trực thăng Huey thực chất chỉ là những kẻ muốn lên hương. Ở Iraq, lính bộ binh Mỹ và lính thủy đánh bộ đôi khi còn hạ cả lạc đà. Nhưng tất nhiên, là từ trên cao.
Anh xóa câu cuối và nhớ lại. Sau khoảng vài giây, anh đã nghĩ ra một cái tên phù hợp và cho rằng sai lầm vừa rồi hoàn toàn có thể tha thứ. Ít nhất thì tên này cũng na ná Hoff.
Hắn nói tên mình là Foss. Hắn không đề nghị bắt tay, chỉ ngồi xuống đống lốp xe như ban nãy, điều đó chắc chắn sẽ khiến mông quần hắn bám bẩn. Hắn lên tiếng, “Summers, tôi nghe nói cậu là người giỏi nhất trong đội.”
Bởi đó không phải là một câu hỏi nên tôi không nói gì cả, chỉ yên lặng đứng đó.
“Cậu có thể nhắm bắn từ khoảng cách hơn một ki-lô-mét qua sông từ bên ta không?”
Tôi liếc nhanh Taco và thấy anh ấy cũng nghe thấy điều đó, và biết nó có nghĩa là gì. Bên ta có nghĩa là mục tiêu là bất cứ thứ gì ở bên ngoài thị trấn. Và nếu có các bên, thì điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ nhắm vào địa phận của bên kia.
“Có phải ngài đang nói về việc hạ mục tiêu là con người không, thưa ngài?”
“Đúng thế. Cậu nghĩ tôi đang nói về mục tiêu là một lon bia à?”
Một câu hỏi tu từ mà tôi không ngại trả lời. “Vâng, thưa ngài, tôi có thể.”
“Đó là câu trả lời của lính Thủy quân lục chiến hay đó là câu trả lời của cậu, Summers?”
Trung tá Jamieson cau mày trước câu hỏi đó, như thể hắn tin rằng không có bất cứ câu trả lời nào khác ngoại trừ câu trả lời là Thủy quân lục chiến, nhưng Jamieson không nói gì cả.
“Cả hai, thưa ngài. Không chắc vào một ngày gió lộng, nhưng chúng tôi...” - tôi nhếch mép cười với Taco - “chúng tôi có thể điều chỉnh theo gió. Bụi cát là một chuyện khác.”
“Vận tốc gió vào ngày mai được dự báo là 0-10,” Fosss nói. “Không vấn đề chứ?”
“Không, thưa ngài.” Đoạn, tôi hỏi một câu hỏi tôi thực lòng không muốn, nhưng tôi phải biết. “Có phải chúng ta đang nói về đám quân nổi dậy không, thưa ngài?”
Trung tá nói tôi lạc đề rồi, nhưng Foss xua tay và Jamieson im bặt.
“Cậu từng tỉa người nào trước đây chưa, Summers?”
Tôi trả lời rằng chưa, và điều đó đúng. Tỉa ở đây có nghĩa là bắn tỉa, và khi bắn Bob Raines, tôi ở một vị trí rất gần.
“Vậy thì đây sẽ là cơ hội tuyệt vời để cậu bắt đầu sự nghiệp, bởi vì đúng thế, đó là một đám quân nổi dậy khốn nạn. Hẳn là cậu đã biết chuyện xảy ra vào ngày hôm qua.”
“Chúng tôi biết, thưa ngài,” Taco nói.
“Những nhà thầu đó đi qua trung tâm thành phố Fallujah vì theo nguồn tin đáng tin cậy của họ thì việc đó an toàn. Họ được cho biết người Mỹ nhận được nhiều thiện ý hơn rồi. Họ cũng được cảnh sát Iraq hộ tống. Chỉ có điều người hộ tống cho họ hoặc là quân nổi dậy đóng giả trong trang phục ăn cắp được, hoặc một cảnh sát phản bội hay cảnh sát thực sự nhưng hèn nhát, bỏ của chạy lấy người khi nhìn thấy một đám đông ập đến. Và bọn họ không dám nổ súng. Đó là việc mà bốn chục tên xấu xa cầm AK đã làm, những kẻ... cậu nghĩ sao, hai cậu? Các cậu có nghĩ chúng tình cờ xuất hiện tại hiện trường không?”
Tôi nhún vai như thể mình không biết và để Taco trả lời. Mà đúng là cậu ấy đã làm thế. “Có vẻ như không có khả năng đó, thưa ngài.”
“Không, không có khả năng nào hết. Đám quân nổi dậy đã phục sẵn. Chờ đợi. Vài chiếc bán tải chắn ngang đường vận chuyển. Ai đó đã lên kế hoạch cho cuộc phục kích, và chúng tôi biết đó là ai, vì chúng tôi đã theo dõi điện thoại di động của hắn ta. Cậu theo kịp chứ?”
Taco nói rằng có, còn tôi nhún vai lần nữa.
“Đó là một con chồn bịt khăn shamagh [*] , tên là Ammar Jassim. Chừng sáu mươi hay bảy mươi tuổi gì đó, không ai biết chắc, có lẽ chính hắn cũng không biết. Hắn sở hữu một cửa hàng máy tính và máy ảnh lớn gấp đôi tiệm cà phê Internet và gấp ba phòng game, nơi đám choai choai có thể chơi Pac-Man và Frogger khi không chế tạo mìn tự nổ và đặt chúng dọc đường.”
“Tôi biết chỗ đó,” Taco nói. “Tiệm Pronto Pronto Photo Photo. Tôi đã thấy nơi đó khi đi tuần tra.”
Đã thấy ư? Chết tiệt, chúng tôi đã đến đó, chơi Donkey Kong và Madden. Khi chúng tôi bước vào, tất cả đám thanh niên địa phương đều sực nhớ ra mình có công chuyện ở nơi khác và xỏ giày vào. Taco không tự nguyện và tôi cũng vậy.
“Jassim theo đuổi chủ nghĩa Phục hưng [*] từ lâu và gần đây đứng đầu cuộc nổi dậy. Chúng tôi muốn hắn. Rất muốn. Không thể gọi đội LGB [*] vì chúng ta có thể sẽ kết liễu một đám nhóc đang chơi điện tử, khiến cánh phóng viên của kênh tin tức Al Jazeera chĩa mũi dùi về phía chúng ta. Không thể như thế được. Cũng không thể chờ đợi thêm nữa, vì Tổng thống Bush sẽ bật đèn xanh cho chiến dịch thanh lọc trong vài ngày tới, và nếu cậu nói với ai chuyện này, tôi buộc phải ra tay với cậu.”
“Ông sẽ không có cơ hội làm thế đâu, vì tôi sẽ ra tay trước,” Jamieson cướp lời.
Foss phớt lờ hắn. “Khi tình thế nguy cấp, Jassim sẽ vòng ra con đường phía sau với khẩu súng của mình. Chúng ta cần hạ được hắn trước khi hắn có thể làm vậy và trừng phạt con dê Judas dẫn lối khốn khiếp đó.”
Taco hỏi con dê Judas có nghĩa là gì. Tôi có thể giải thích cho cậu ta nhưng lại im lặng để Foss làm điều đó. Sau đó, hắn quay sang tôi, một lần nữa hỏi xem tôi có thể làm được không và tôi nói có, thưa ngài. Tôi hỏi tôi sẽ bắn súng từ đâu và hắn cho tôi biết. Chúng tôi từng đến đó rồi, chở thực phẩm từ máy bay trực thăng tiếp tế. Tôi hỏi liệu tôi có thể đổi ống ngắm trên khẩu súng trường của mình sang ống ngắm Leupold mới không hay tôi sẽ phải tận dụng những gì mình có. Foss đưa mắt nhìn Jamieson và Jamieson nói, “Chúng tôi sẽ đáp ứng.”
Lúc quay trở lại doanh trại – đội tuần tra đã rời đi mà không có chúng tôi – Taco hỏi tôi rằng làm thế nào mà tôi chắc chắn mình có thể thực hiện được phát súng đó. Tôi đáp, “Nếu không làm được, tôi sẽ đổ lỗi cho người nhắm mục tiêu của mình.”
Anh ấy đập mạnh vào vai tôi. “Đồ khốn. Tại sao cậu lúc nào cũng giả ngu như thế chứ?”
“Tôi chẳng hiểu anh đang nói gì cả.”
“Thôi được rồi.”
“Như thế an toàn hơn. Họ không biết về anh thì sẽ không thể khiến anh tổn thương. Hoặc quay lại để ám ảnh anh.”
Taco ngẫm nghĩ một lúc, đoạn lên tiếng, “ừ, cứ cho là cậu thành công với phát súng đó, được rồi, nhưng ý tôi không phải vậy. Chúng ta đang nói đến mục tiêu là con người thực sự. Cậu có chắc mình làm được không? Găm đạn vào hộp sọ và tước đi mạng sống của hắn ta?”
Tôi nói với Taco rằng mình chắc. Tôi không nói với anh rằng tôi biết mình có thể tước đi mạng sống của hắn vì tôi có kinh nghiệm rồi. Tôi đã bắn vào ngực Bob Raines. Trường dạy Bắn tỉa đã dạy tôi lúc nào cũng phải nhắm bắn vào đầu.
05Billy lưu lại những gì mình vừa viết, đứng dậy và hơi loạng choạng vì đôi chân của anh như thể đang ở trong một không gian khác. Anh đã ngồi đây bao lâu rồi? Anh nhìn đồng hồ và kinh ngạc khi thấy đã gần 5 giờ. Anh cảm thấy mình như vừa bước ra khỏi một giấc mơ sống động. Anh đặt hai tay vào thắt lưng, kéo căng cho đỡ mỏi, cảm giác râm ran như kim châm chạy dọc xuống chân. Từ phòng khách, anh bước vào nhà bếp rồi ra phòng ngủ, sau đó trở lại phòng khách. Anh lặp lại lần nữa, rồi lần thứ ba. Khi nhìn thấy căn hộ này lần đầu tiên, anh thấy kích thước vừa chuẩn là nơi hoàn hảo để anh ẩn thân chờ mọi chuyện lắng dịu và anh có thể lái chiếc xe thuê của mình về phía bắc (mà cũng có thể là phía tây). Bây giờ thì căn hộ có vẻ nhỏ, như thể đống quần áo nở ra vậy. Anh muốn ra ngoài và đi bộ, thậm chí chạy bộ nữa kìa, nhưng đó sẽ là một ý tưởng cực kỳ tồi tệ cho dù anh có ngụy trang thành Dalton Smith đi chăng nữa. Vì vậy, anh đi đi lại lại trong căn hộ, và khi cảm thấy chưa đủ, anh bắt đầu chống đẩy trên sàn phòng khách.
Thấp xuống và làm thêm 25 cái nữa cho tao , anh nghĩ đến câu nói của Trung sĩ Up Yours. Đừng nghĩ đến cái chân tao trên đít mày, đồ vô dụng.
Billy mỉm cười. Anh nhớ lại rất nhiều chuyện. Nếu anh viết ra tất cả, chắc câu chuyện của anh sẽ dài cả nghìn trang mất.
Những động tác chống đẩy khiến anh bình tĩnh hơn. Anh nghĩ đến việc mở ti-vi để xem diễn biến của cuộc điều tra hay kiểm tra điện thoại để cập nhật tin tức trên báo (báo chí có thể có khuyết điểm, nhưng Billy nhận thấy họ có vẻ vẫn nắm được các sự kiện nổi bật). Nhưng rồi anh gạt suy nghĩ đó đi. Anh chưa sẵn sàng để hiện thực trở lại. Anh tính kiếm gì đó để ăn, nhưng anh không đói. Anh pha cho mình một tách cà phê đen và uống luôn trong khi vẫn đứng ở bếp. Đoạn anh trở lại máy tính, tiếp tục những gì đang viết dở.
06Sáng hôm sau, đích thân Trung tá Jamieson chở tôi và Taco đến giao lộ đường số 10 và đường bắc-nam mà Thủy quân lục chiến gọi là Cao tốc đến Địa ngục, sau khi nghe bài hát của ban nhạc AC/DC. Chúng tôi ngồi trên chiếc wagon station [*] Eagle của viên trung tá, một thứ rất đỗi đặc biệt với hắn. Có một tấm đề-can hình con hắc mã với đôi mắt đỏ được dán ở đuôi xe. Tôi không thích nó, vì tôi nghĩ đến việc những tên lính chuyên phát hiện mục tiêu có thể chú ý đến, thậm chí là chụp ảnh nó.
Không thấy Foss đâu cả. Hắn có lẽ đã trở về chỗ mà những gã như hắn ngồi tính toán mưu sự. Đậu bên ngoài trên đỉnh đồi là hai chiếc xe tải của Công ty Điện lực và Đèn Iraq, hoặc ít nhất là như thông tin được viết ở sườn xe cho hay. Trông chúng như những chiếc xe tải nhỏ, không mui, thành thấp của Mỹ, chỉ có điều nhỏ hơn và được sơn màu xanh táo thay vì màu vàng. Lớp sơn ở hai bên dày hơn nhiều, nhưng dù vậy cũng không thể che khuất hoàn toàn khuôn mặt tươi cười của Saddam Hussein, giống như một bóng ma cứng đầu không chịu rời đi. Ngoài ra, chiếc xe còn có cần cẩu có khớp nối Genie cùng với bệ đỡ.
Ở giao lộ các con đường, có hai cột điện được gắn các máy biến áp lớn để hạ tải điện cho các khu dân cư ở Fallujah và các vùng ngoại ô xung quanh. Các chàng trai đội kefiyeh [*] đang nhốn nháo xung quanh đó, cộng thêm cả vài người đội mũ kufi. Tất cả đều mặc áo khoác công nhân màu cam. Dù vậy, không có ai đội mũ xây dựng. Tôi đoán Cơ quan Quản lý An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp OSHA không bao giờ tìm đường đến tỉnh Al-Anbar. Nhìn từ bên kia sông, những người đàn ông đó trông giống bất kỳ nhóm công nhân cấp thấp nào của chính phủ, nhưng khi tiến gần hơn 50m, bạn có thể thấy họ là người của chúng tôi. Albie Stark, một thành viên trong nhóm đó đến gặp tôi, vỗ nhẹ chiếc mũ anh ta đang đội trên đầu và hát vang bài hát về việc bạn đừng giẫm lên áo choàng của Superman. Sau đó, anh ta nhìn thấy viên trung tá và cất tiếng chào.
“Hãy tìm chỗ nào đó và kiếm việc làm đi,” Jamieson nói với anh ta. “Và lạy Chúa, đừng ông ổng hát nữa.” Nói đoạn hắn quay sang tôi và Taco, nhưng nói với Taco vì hắn cho rằng Tac là một kẻ thông minh. “Trình bày lại cho tôi, hạ sĩ Bell.”
“Hầu hết các ngày, Jassim đều ra ngoài vào khoảng 10 giờ để hút thuốc và nói chuyện với đám người hâm mộ hắn, trong đám đó có lẽ có vài kẻ đã nổ súng vào các nhà thầu. Hắn sẽ đội mũ keffiyeh màu xanh. Billy hạ hắn. Hết chuyện.”
Jamieson quay sang tôi. “Nếu cậu giết được hắn, tôi sẽ tuyên dương cậu. Còn nếu trượt, hoặc bắn trúng những người xung quanh, một điều tệ hơn, tôi sẽ thọc chiếc giày ống của tôi vào bàn tọa của cậu thật mạnh và thật sâu. Cậu hiểu chứ, Thủy quân lục chiến?”
“Vâng, thưa ngài.” Điều tôi đang nghĩ là Trung sĩ Uppington hẳn có thể nhấn những lời ấy mạnh mẽ và thuyết phục hơn nhiều. Tuy nhiên, tôi phải cố thể hiện sự vâng lời và tôn trọng viên trung tá. Nhiều tháng sau, hắn ta mất gần hết khuôn mặt và toàn bộ thị lực vì một quả bom bên vệ đường.
Jamieson ra hiệu cho Joe Kleczewski, cũng là thành viên của nhóm mà chúng tôi gọi là Hot Nine . Hầu hết các “công nhân sửa chữa” đều giống anh ta. Họ tình nguyện làm công việc này. Họ phải làm vậy vì Taco đã bảo họ phải làm vậy.
“Trung sĩ, cậu có biết phải làm gì ngay sau khi Summers bắn không?”
Klew cười lớn, để lộ khoảng trống trên răng cửa. “Đưa họ xuống càng nhanh càng tốt, sau đó cúp đuôi thật nhanh về khu vực an toàn, thưa ngài.”
Dù tôi có thể nhìn ra Jamieson đang lo lắng – tôi nghĩ ai trong chúng tôi đều cũng có thể nhìn ra – câu trả lời đó khiến hắn ta mỉm cười. Lần nào Klew cũng có thể nở nụ cười trên khuôn mặt đơ như thạch ấy. “Thế là đủ rồi.”
“Nếu hắn không xuất hiện thì sao, thưa ngài?”
“Mai mốt thôi. Giả sử cuộc tấn công không diễn ra vào ngày mai. Cứ chờ đi, Thủy quân lục chiến.” Hắn giơ ngón tay cái về phía sông Euphrates và thành phố giờ đang rơi vào tình thế nguy hiểm ở phía bên kia. “Giống như lời bài hát ấy – Voices Carry.”
Albie Stark và Big Klew cố nhét mình vào giá đỡ. Nó được cho là đủ lớn để vừa hai người, nhưng không phải khi một trong hai người đó có kích cỡ dáng người như Kleczewski. Anh ta suýt hất ngã Albie qua một bên. Tất thảy mọi người trừ Jamieson đều phá lên cười. Chẳng khác nào bộ đôi hài kịch Abbott và Costello cả.
“Tránh ra, đồ ngu,” viên trung tá lớn tiếng với Klew. “Lạy Chúa!” Hắn ra hiệu cho Donk, người mà đôi giày chiến màu nâu của anh đang thò ra bên dưới chiếc quần quá ngắn. Điều này cũng thật buồn cười, vì anh ta trông chẳng khác nào một đứa nhóc đang mang giày của bố cả. “Cậu. Tầm thường đó đó. Tên cậu là gì?”
“Thưa ngài, tôi là Pfc Peter Cashman, và tôi...”
“Không cần chào hỏi, ngớ ngẩn vừa thôi, không phải trong những lúc như thế này. Cậu mất não từ nhỏ à?”
“Không, thưa ngài, tôi không nhớ...”
“Vào trong giá đỡ với cái-thằng-chết-tiệt đó đi, và khi cậu lên đến đó..” Hắn nhìn quanh. “Chúa ơi, tấm vải niệm chết tiệt đó đâu rồi?”
Xét về mặt kỹ thuật, hắn có vẻ đã dùng đúng từ, nhưng sai trong mọi khía cạnh khác. Tôi nhìn thấy Klew đưa hai tay lên làm dấu thành hình chữ X.
Albie, vẫn còn đứng trong giá đỡ, nhìn xuống. “Tôi nghĩ là mình đang đứng trên nó đây rồi, thưa ngài.”
Jamieson lau trán. “Thôi được rồi, được rồi, ít nhất thì có người đã nhớ và mang theo nó.”
Và người đó chính là tôi.
“Vào đi, Cashman. Khẩn trương lên. Thời giờ có hạn đấy.”
Giá đỡ dần nâng lên cao trong âm thanh rên rỉ của thủy lực. Ở độ cao tối đa, chừng mười hay mười hai mét gì đó, nó giật mạnh một cái rồi dừng lại cạnh một trong các máy biến áp. Albie và Donk nhún nhảy xung quanh, giật mạnh tấm vải niệm và cố lôi nó ra từ dưới chân họ. Sau đó, vừa lầm bầm vài lời nguyện sáng tạo – gồm cả những lời học được từ đám trẻ Iraq đến xin kẹo và thuốc – họ nhanh chóng triển khai. Kết quả là một hình trụ bằng vải bạt bao quanh giá đỡ và máy biến áp. Nó được giữ ở phía trên cùng bằng cách móc vào một thanh chéo của cột và bắt vào nhau xuống một bên, giống như cách cài cúc chiếc quần jean 501 của Levi’s. Bên ngoài được tô điểm bằng một loạt các móc nối màu vàng tươi. Tôi không nghe thấy họ nói chuyện gì với nhau và cũng chẳng quan tâm, miễn là nó không phải ĐỘI BẮN TỈA ĐANG LÀM VIỆC.
Giá đỡ được hạ xuống, bỏ lại hình trụ ở phía sau. Trông nó chẳng khác nào một tấm vải niệm khi thanh ray cao đến thắt lưng của giá đỡ không còn chìa ra hai bên nữa. Tay Donk chảy máu và trên mặt Albie xuất hiện vết xước, nhưng ít nhất thì cả hai đều không té lộn đầu ra bên ngoài giá đỡ. Đôi ba lần họ đã suýt bổ nhào.
Taco nghển cổ nhìn lên. “Thứ đó để làm gì vậy, thưa ngài?”
“Chắn cát,” Jamieson đáp, đoạn nói thêm, “Tôi tin là thế.”
“Thật phô trương,” Taco nhận xét. Lúc này, anh ta đang nhìn ra phía sông với một bên bờ là những ngôi nhà san sát chen chúc nhau, và bên còn lại là các cửa hàng, nhà kho và nhà thờ Hồi giáo. Đó là phần phía tây nam của thị trấn mà chúng tôi gọi là Queens. Khoảng hơn 100 lính thủy đánh bộ được khiêng ra khỏi đó trong túi đựng thi thể. Hàng trăm người khác được đỡ ra trong tình trạng các bộ phận cơ thể ít hơn so với khi bước vào.
“Khi cần ý kiến của cậu, tôi sẽ hỏi,” viên trung tá nói – một điều dù đã cũ nhưng vẫn có ích. “Lấy đồ của cậu và lên đó ngay đi. Mặc áo khoác màu cam nữa trước khi bước lên giá đỡ để tránh gây sự chú ý. Những người còn lại sẽ tỏ vẻ bận rộn. Đừng để bất kỳ ai thấy khẩu súng trường đó. Summers, hãy quay lưng về phía sông cho đến khi cậu vẫn chưa được.. ” Hắn dừng lại. Hắn không muốn nói thành lời cụm “cho đến khi cậu vẫn chưa được tấm vải niệm che khuất” và tôi cũng không muốn nghe nó. “Cho đến khi cậu chưa được che khuất.”
Tôi nói rõ và đi lên giá đỡ, ôm rịt khẩu M40 trong cẳng tay và quay lưng lại phía thành phố, Taco chụm hai chân lại để che chắn đống đồ dành cho việc phát hiện mục tiêu. Lính bắn tỉa trông rất đỗi hấp dẫn, trong các bộ phim và tiểu thuyết của Stephen Hunter cũng thế, nhưng người phát hiện mục tiêu mới thực sự là những người làm nên công chuyện.
Tôi không biết tấm vải niệm có mùi thế nào, nhưng cái trụ được bọc vải bạt bên ngoài bốc mùi hôi thối như cá chết. Tôi tháo ba trong số các móc nối để tạo khe bắn, nhưng nó ở sai hướng khi tôi muốn hạ chú dê lang thang ở hướng Ramadi. Hai người chúng tôi xoay xở để giải quyết chuyện đó, càu nhàu, chửi thề và cố gắng giữ cái thứ chết tiệt trên ít nhất hai cái móc xà ngang như chúng tôi đã làm. Tấm bạt đập vào mặt chúng tôi. Mùi cá chết sực lên ngày càng nặng. Lần này, tôi là người suýt nhào đầu qua giá đỡ. May sao, Taco nhanh chóng túm được chiếc áo khoác màu cam của tôi bằng một tay và tay kia nắm lấy dây đeo súng trường.
“Làm gì trên đó vậy hả?” Jamieson gọi với lên. Ở bên dưới, tất cả những gì mà hắn cùng những người khác nhìn thấy là đôi chân của chúng tôi đảo như rang lạc một cách vụng về, chẳng khác nào hai đứa nhóc đang học nhảy điệu van-xơ.
“Chút việc riêng, thưa ngài,” Taco đáp vọng xuống.
“Chà, vậy thì tôi đề nghị cậu dừng ngay việc riêng lại rồi chuẩn bị đi. Gần 10 giờ rồi.”
“Có phải lỗi của chúng ta đâu, những tên ngốc đó đã đặt khe hở sai hướng,” Taco càu nhàu với tôi.
Tôi kiểm tra ống ngắm mới và khẩu súng trường của mình – có nhiều khẩu giống nó, nhưng đây là khẩu súng của mình – và dùng một miếng da sơn dương để lau sạch. Thật tệ hại, cát và bụi len lỏi vào mọi ngóc ngách. Tôi đưa nó cho Taco để anh ấy kiểm tra lại, một công đoạn bắt buộc. Xong xuôi, anh ấy đưa nó lại cho tôi, đoạn liếm ướt lòng bàn tay mình rồi thò ra bên ngoài khe bắn.
“Không có gió, cậu bé Billy ạ. Tôi hy vọng tên khốn đó sẽ xuất hiện, bởi chúng ta sẽ không bao giờ có được ngày nào tốt hơn hôm nay đâu.”
Ngoài khẩu súng trường của tôi, thiết bị lớn nhất mà chúng tôi có trong giá đỡ này là M151, hay còn được gọi là Chiến hữu của Người phát hiện mục tiêu.
Billy dừng lại, giật mình sực tỉnh. Anh đi vào bếp, táp nước lạnh lên mặt. Anh đã tiến đến một ngã ba không mong muốn khi đang phăm phăm tiến đi trên đường thẳng. Có thể nó không có gì khác biệt so với những lối rẽ khác mà anh đã đi, nhưng biết đâu được.
Đó là về M151. Nó là ống ngắm quang học mà lính phát hiện mục tiêu dùng để tính toán khoảng cách từ nòng súng đến mục tiêu và có độ chính xác đến kỳ lạ (ít nhất thì đối với Billy mà nói thì thế). Khoảng cách đó là cơ sở cho phút góc [*] . Billy không cần đến nó cho phát súng hạ gục Joel Allen, nhưng phát súng anh thực hiện vào ngày hôm đó hồi năm 2004, vì luôn cho rằng Ammar Jassim sẽ rời cửa hàng của mình, thì từ khoảng cách xa hơn nhiều.
Anh có cần giải thích tất cả những điều đó không?
Nếu anh giải thích mọi thứ, điều đó có nghĩa là anh mong đợi hoặc chỉ hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ có ai đó đọc được những gì anh viết. Còn nếu không làm vậy, điều đó có nghĩa là anh đã từ bỏ kỳ vọng đó. Hy vọng đó. Vậy rốt cuộc là thế nào?
Anh đứng bần thần trước bồn rửa trong bếp, suy nghĩ của anh trôi về cuộc phỏng vấn mà anh đã nghe được trên đài phát thanh không lâu sau khi lẩn trốn. Hình như đó là một trong những chương trình NPR, nơi ai ai cũng có vẻ thật thông minh và đầy chất Prozac. Một nhà văn nào đó đang được phỏng vấn, một nhà văn kỳ cựu, người đã hoạt động vô cùng sôi nổi trong thời kỳ mà tất cả các nhà văn nổi tiếng đều là người da trắng, nam giới và nghiện rượu. Billy không thể nhớ nhà văn đó là ai, ngoại trừ việc anh chắc chắc người đó không phải là Gore Vidal – không đủ tính châm biếm – và cũng không phải Truman Capote – không đủ trình độ. Anh chỉ có thể nhớ câu trả lời của nhà văn đó khi được hỏi về cách thức của mình. “Tôi luôn duy trì hai bản thể trong tâm trí mình khi ngồi viết: chính là bản thân tôi và người lạ.”
Điều này đưa Billy trở lại M151. Anh có thể mô tả nó. Anh có thể giải thích mục đích của nó. Anh có thể lý giải tại sao MOA thậm chí còn quan trọng hơn khoảng cách, mặc dù hai thứ đó luôn gắn liền với nhau. Anh có thể làm tất cả những điều đó, nhưng chỉ cần làm vậy nếu anh đang viết cho một người lạ cũng như cho chính bản thân. Anh có như vậy không?
Thực tế lên nào , Billy tự nhủ. Mình là người lạ duy nhất ở đây.
Nhưng cũng được thôi. Anh có thể làm điều đó cho chính mình nếu anh cần. Anh không cần... nó gọi là gì nhỉ?
“Xác thực,” anh thì thầm trên đường quay lại máy tính. Một lần nữa, anh viết tiếp chỗ anh vừa dừng lại.
07Ngoài khẩu súng trường của tôi, thiết bị lớn nhất mà chúng tôi có trong giá đỡ này là M151, hay còn được gọi là Chiến hữu của Người phát hiện mục tiêu. Taco dựng giá đỡ ba chân và tôi cố tránh xa anh ấy nhiều nhất có thể. Bệ đỡ khẽ rung lên và Taco bảo tôi giữ yên trừ khi tôi muốn găm một viên đạn vào biển hiệu phía trước cửa tiệm thay vì vào đầu Jassim. Tôi đứng yên hết mức có thể trong khi Taco làm việc của anh ấy, tính toán và lẩm bẩm một mình.
Trung tá Jamieson đã ước tính khoảng cách là hơn 1000m. Taco đọc kết quả của mình tính đến đứa nhóc đang chơi với quả bóng phía trước cửa tiệm Pronto Pronto Photo Photo và kết quả chính xác là 1225m. Chắc chắn nó sẽ là một phát súng xa, nhưng vào một ngày không gió đầu tháng Tư như thế này, tôi khá tự tin. Tôi chuẩn bị mất thời gian hơn, và tất cả chúng tôi đều nghe nói những tay súng bắn tỉa đẳng cấp thế giới đều nhắm bắn ở khoảng cách gấp đôi thế này. Dĩ nhiên, tôi tin Jassim không thể nào đứng yên một chỗ cho tôi nhắm bắn, như cái đầu trên một mục tiêu giấy. Điều đó khiến tôi hơi lo ngại, nhưng sự thật rằng hắn là một con người với trái tim đang đập trong lồng ngực và bộ não vẫn hoạt động thì không. Hắn là một con dê Judas đã dụ bốn người đàn ông vào một cuộc phục kích, những người chẳng có tội tình gì ngoài việc làm nhiệm vụ cung cấp lương thực thực phẩm. Hắn là một kẻ xấu và cần phải bị trừng trị.
Khoảng 9 giờ 15 phút, Jassim bước ra khỏi cửa hàng của mình. Hắn mặc áo sơ mi dài màu xanh lam như áo Dashiki [*] và chiếc quần màu trắng rộng thùng thình. Hôm nay, hắn đội một chiếc mũ len màu đỏ thay vì màu xanh. Một điểm đánh dấu tuyệt vời. Tôi bắt đầu chuẩn bị cho phát súng của mình, nhưng Jassim chỉ đuổi thằng nhóc đang chơi bóng trước cửa tiệm của mình đi bằng cách đánh vào mông nó rồi quay gót vào trong.
“Chà, không tệ nhỉ,” Taco thốt lên.
Chúng tôi chờ đợi. Có một số thanh niên bước vào tiệm. Rồi một số bước ra. Chúng cười đùa, xô đẩy nhau như bất kỳ đám thanh niên nào trên khắp thế giới, từ Kabul đến Kansas. Một vài trong số chúng chắc chắn đã bắn hạ những chiếc xe tải Blackwater bằng AK chỉ vài ngày trước đó. Không nghi ngờ gì nữa, bảy tháng sau, một trong số chúng đã bắn vào chúng tôi khi chúng tôi di chuyển hết tòa nhà này sang tòa nhà khác, quét sạch bọn chúng. Tất cả những gì tôi biết là vài người trong số chúng đã ở nơi mà chúng tôi gọi là Ngôi nhà Vui nhộn, nơi mọi sai lầm đều phải trả giá.
Đồng hồ điểm 10 giờ, rồi 10 giờ 15 phút. “Có lẽ hôm nay hắn không hút thuốc,” Taco lên tiếng.
Sau đó, lúc 10 giờ 30 phút, cánh cửa của tiệm Pronto Pronto Photo Photo mở và Ammar Jassim bước ra ngoài cùng hai thanh niên khác. Tôi nhìn vào ống ngắm. Tôi thấy ba người bọn chúng cười nói. Jassim vỗ vào lưng một kẻ trong số họ và hai thanh niên họ quàng vai nhau chậm rãi bước đi. Jassim rút bao thuốc từ túi quần ra. Vì đang dõi theo bằng ống ngắm nên tôi có thể nhìn thấy rõ đó là một bao thuốc hiệu Marlboro và thấy cả hình hai con sư tử vàng của hãng. Mọi thứ đều hiện lên rõ nét: đôi lông mày rậm, môi đỏ như phụ nữ tô son