CHƯƠNG 18 01
Để tôn trọng hai vị khách của mình, Bucky hút thuốc ở hiên nhà, dù toàn bộ ngôi nhà của ông đều ám mùi của hàng trăm bao Pall Mall mà ông đã đốt kể từ khi từ New York chuyển về đây. Sáng hôm sau trong khi Alice đang tắm, Billy đến ngồi cùng ông. Cô vừa tắm vừa ngân nga hát, đây có thể được coi là dấu hiệu phục hồi tốt nhất.
“Cô gái ấy nói rằng cậu đang viết một cuốn sách,” Bucky nói.
Billy cười. “Tôi không biết nó có được gọi như thế không.”
“Cô ấy còn bảo có thể hôm nay cậu sẽ đến căn nhà hóng mát đó để viết.”
“Có lẽ vậy.”
“Cô ấy nói cuốn sách của cậu hay.”
“Tôi không nghĩ cô ấy biết đủ nhiều để so sánh.”
Bucky không bàn luận thêm. “Tôi nghĩ sáng nay chúng tôi sẽ đi mua sắm, cho cậu cơ hội bám càng đấy. Cậu cần một bộ tóc giả mới còn cô ấy cần thêm đồ phụ nữ. Không chỉ là thuốc nhuộm tóc.”
“Hai người đã bàn rồi à?”
“Đúng thế. Tôi thường thức dậy vào lúc 5 giờ – đúng hơn là bàng quang gọi tôi dậy – và sau khi vệ sinh xong, tôi đi ra ngoài để hút thuốc và thấy cô ấy đã ngồi ở đây rồi. Chúng tôi đã cùng nhau ngắm mặt trời mọc. Và có trò chuyện một chút.”
“Cô ấy thế nào?”
Bucky nghiêng đầu về phía phát ra tiếng hát. “Tình hình ấy?”
“Khá ổn.”
“Tôi cũng nghĩ thế. Chúng tôi sẽ đi một chuyến đến Boulder, ở đó có những lựa chọn tốt hơn. Ghé qua Tiệm Xe si Xịn của Ricky Patterson trên đường quay về. Xem anh ta có gì. Và sau đó có thể ăn trưa ở Handy Andy’s.”
“Nếu chúng cũng đang tìm kiếm ông thì sao?”
“Cậu mới là người ở trong tầm ngắm, Billy. Tôi cho rằng chúng đã lùng sục tôi ở New York, kiểm tra cả chỗ ở của chị tôi ở Queens, sau đó từ bỏ vì không lần ra dấu vết gì.”
“Tôi hy vọng ông đúng.”
“Nói cho cậu nghe, điểm dừng đầu tiên của chúng tôi sẽ là Buffalo Exchange hoặc Common Threads. Tôi sẽ mua một chiếc mũ cao bồi và buộc nó sao cho cụp vào tai. Yee-haw.” Bucky dập tắt điếu Pall Mall của mình. “Cô ấy đánh giá cậu cao lắm, cậu biết đấy. Nghĩ cậu rất tuyệt vời.”
“Tôi hy vọng cô ấy không nghĩ thế.”
Trong phòng tắm, nước từ vòi hoa sen vẫn róc rách chảy. Cô vẫn hát, điều đó thật tốt, nhưng Billy nghĩ cô có thể sẽ khó gột cơ thể đủ sạch sao cho xứng với mình.
“Thực ra,” Bucky nói, “cô ấy gọi cậu là thiên thần hộ mệnh của cô ấy.”
02Nửa giờ sau, khi hơi nước bốc hết khỏi phòng tắm, Alice bước đến cửa trong lúc Billy đang cạo râu.
“Anh không phiền nếu tôi đi chứ?”
“Không phiền chút nào. Đi vui vẻ nhé, cảnh giác và đừng ngại bảo ông ấy vặn nhỏ radio nếu đầu óc cô váng vất. Ông ấy luôn vặn hết cỡ mỗi khi bài hát Creedence hoặc Zep được phát. Tôi không biết liệu ông ấy đã thay đổi thói quen đó chưa.”
“Tôi muốn mua một vài chiếc váy cùng với áo, thuốc nhuộm tóc cho tôi và cả một bộ tóc giả cho anh. Áo con và cả đồ lót mà không...” Cô dừng lại ở đó.
“Loại mà ông chú lơ ngơ của cô nhặt bừa cho cô trong lúc cấp thiết? Không cần để ý đến cảm xúc của tôi đâu. Tôi lo được.”
“Thứ mà anh lấy cho tôi ổn, nhưng tôi cần mua thêm. Và một chiếc áo ngực không cần nút cài sau, loại chui đầu ấy.”
Billy quên mất điều đó. Giống như việc anh quên mất biển số xe Fusion.
Dù Bucky đã trở ra hiên nhà, hút thuốc và uống nước cam (Billy không biết làm sao mà ông có thể chịu được sự kết hợp này), Alice vẫn hạ giọng. “Nhưng tôi không có nhiều tiền.”
“Cứ để Bucky lo việc đó, và tôi sẽ lo cho Bucky.”
“Anh chắc chứ?”
“Chắc.”
Cô nắm lấy bàn tay không cầm dao cạo của anh và siết chặt. “Cảm ơn anh. Vì mọi thứ.”
Việc cô nói lời cảm ơn với anh là một điều hoàn toàn điên rồ nhưng cũng vô cùng hợp lý. Nói theo cách khác, đó là một nghịch lý. Anh giữ điều này cho riêng mình và nói với cô rằng cô không cần khách sáo.
03Bucky và Alice rời đi trên chiếc Cherokee lúc 8 giờ 15 phút. Alice đã trang điểm xong và không còn dấu vết bầm tím nào trên đó cả. Chúng cũng chẳng lộ rõ lắm ngay cả khi không trang điểm , Billy nghĩ. Đã hơn một tuần kể từ buổi hẹn hò của cô với Tripp Donovan, và người trẻ thì nhanh lành.
“Gọi cho tôi nếu cần nhé,” anh nói.
“Vâng, thưa bố ,” Bucky nói.
Alice nói với Billy rằng cô sẽ làm vậy, nhưng khi nhìn cô, anh biết cô đang nóng lòng lên đường, nói chuyện với Bucky như cách mà những người bình thường nói chuyện (như thể bất kỳ điều nào trong số này là bình thường) và nghĩ về những thứ cô sẽ thấy trong các cửa hàng mà cô chưa từng đến trước đây. Có lẽ là cả thử đồ. Dấu hiệu duy nhất mà anh nhận được vào sáng nay về cô gái từng bị cưỡng hiếp là việc vòi hoa sen được mở suốt một khoảng thời gian dài.
Sau khi cả hai rời đi, Billy bước về phía con đường mà Alice đã đi ngày hôm qua. Anh dừng lại trước căn nhà nhỏ mà Bucky gọi là ngôi nhà hóng mát và nhìn vào bên trong. Sàn nhà là các tấm ván được ghép lại, không sơn, và món đồ nội thất duy nhất là một chiếc bàn gấp và ba chiếc ghế xếp, nhưng anh có cần gì nữa đâu? Chỉ cần chiếc máy tính của anh và thêm một lon cô-ca lạnh nữa là đủ.
Đúng là đời văn sĩ , anh nghĩ và tự hỏi ai đã nói câu đó với anh. Có phải Irv Dean không nhỉ? Lão già bảo vệ ở Tháp Gerard. Nó dường như đã xảy ra rất lâu rồi, trong một cuộc sống khác. Và đúng là thế. Trong cuộc đời của David Lockridge.
Anh đi đến cuối đường và đưa mắt nhìn qua hẻm núi sang bãi đất trống, tự hỏi liệu anh có nhìn thấy khách sạn ma như Alice hay không. Anh không nhìn thấy gì cả, chỉ nhìn thấy một vài trụ thẳng đứng ám muội nơi khách sạn từng tọa lạc. Cũng chẳng có chú chim kền kền nào.
Anh quay trở lại nhà, đem theo chiếc Mac Pro và một lon cô-ca. Anh đặt chúng xuống món đồ nội thất duy nhất trong căn nhà hóng mát. Anh để cửa mở, ánh sáng chiếu vào vừa đủ. Lúc đầu, anh ngồi trên một trong những chiếc ghế gấp, nhưng nó có vẻ cứng. Anh mở file câu chuyện của mình và cuộn xuống phần Taco đưa chiếc loa cầm tay của đội cho Fareed, người thông dịch của họ. Anh đang chuẩn bị viết tiếp đoạn Merton Richter ngắt lời anh, sau đó anh thấy có một bức tranh trên tường. Anh đứng dậy để nhìn kỹ hơn, vì bức tranh nằm ở góc trong phía xa – treo bức tranh ở chỗ đó thì thật kỳ lạ – và ánh sáng ban mai không chiếu được đến đó. Đó là một bức tranh động vật được tạo từ các giậu cây. Có một con chó ở bên trái, một vài con thỏ ở bên phải, hai con sư tử ở giữa và con gì đó trông giống một con bò đực ở phía sau những con sư tử. Mà nó trông cũng giống một con tê giác. Thật là một bức tranh thể hiện kém, màu xanh của các con vật quá đậm và vì lý do nào đó, nghệ sĩ này đã chấm một vệt màu đỏ vào mắt những con sư tử khiến chúng trông thật rùng rợn. Billy gỡ bức tranh xuống và xoay nó úp vào tường. Anh biết rằng nếu anh không làm vậy, anh sẽ bị cuốn vào nó. Không phải vì nó đẹp mà vì nó chẳng đẹp chút nào.
Anh mở lon cô-ca, tu một hơi dài và tiếp tục.
04“Nào các cậu,” Taco lên tiếng. “Hãy đi kiếm vài đứa nào.” Nói đoạn anh ấy đưa cho Fareed chiếc loa cầm tay có dòng chữ XIN CHÀO VIỆT NAM ở một bên và bảo cậu ta chĩa cái loa hướng vào ngôi nhà, nói rằng bọn bay hãy bước ra đầu hàng đi, hãy tự giác làm thế, chạy ra ngoài ngay đi nếu không bọn bay sẽ nằm trong một cái túi đựng thi thể đấy. Fareed làm theo nhưng không thấy ai bước ra ngoài cả. Đó là ám hiệu thường ngày của chúng tôi trước khi bước vào trong, sau khi hô vang Chúng ta là hắc mã, tất nhiên, tất nhiên rồi, nhưng lần này, Taco bảo Fareed lặp lại lần nữa. Fareed ném cho anh ấy một cái nhìn dò hỏi nhưng vẫn làm theo. Và kết quả không thay đổi. Tac bảo anh ta lặp lại thêm lần nữa.
“Có chuyện gì với cậu đấy?” Donk hỏi.
“Không biết,” Taco đáp. “Chỉ là cứ cảm thấy không ổn. Tôi không thích cái ban công chết tiệt chạy quanh mái vòm. Cậu nhìn thấy nó không?” Tất cả chúng tôi đều nhìn thấy nó. Ngôi nhà có một lan can bằng xi măng thấp. “Đám quân nổi dậy rất có thể đang núp đằng sau đó, và bọn chúng đều đang cúi xuống.” Anh ấy nhận ra chúng tôi đang hướng ánh nhìn về phía mình. “Không, không phải tôi đang lo lắng, nhưng tôi cứ cảm thấy có gì không đúng.”
Lúc Fareed nói được nửa bài diễn văn thì Đại úy Hurst, chỉ huy đại đội mới xuất hiện, đứng lên trên chiếc xe Jeep trần, hai chân mở rộng như thể hắn ta nghĩ mình là George S. Patton [*] . Ở phía bên kia của con đường là ba tòa chung cư, hai tòa nhà đã thành hình và một tòa đang xây dở, tất cả đều được phun sơn chữ C lớn, điều đó có nghĩa là chúng đều đã được dọn sạch. Ồ, cứ cho là vậy. Hurst là một kẻ còn non nớt kinh nghiệm, và hắn có thể không nhận thức được việc đám Hồi giáo đôi khi có thể xuất hiện trở lại, và thậm chí khi nhòm qua ống ngắm, cái đầu to của hắn sẽ trông chẳng khác nào một quả bí ngô Halloween.
“Mày đang đợi cái gì vậy hả, Trung sĩ?” Hắn quát tháo. “Sắp hết ngày rồi đấy! Dọn sạch ngôi nhà đó đi!”
“Thưa ngài, vâng, thưa ngài!” Taco đáp. “Chỉ là tôi đang cho bọn chúng thêm một cơ hội sống sót.”
“Mày không cần lo việc đó!” Đại úy Hurst hét lên, đoạn hắn tăng tốc.
“Kẻ đầu to óc bằng quả nho đã đánh tiếng rồi đấy,” Lopez nói. “Được rồi,” Taco nói. “Bắt tay vào làm thôi nào.”
Chúng tôi tập hợp lại với nhau, Hot Eight từng là Hot Nine. Taco, Din-Din, Klew, Donk, Chân to, Johnny Capps, Pillroller với chiếc túi y tế ma thuật. Và cả tôi nữa. Tôi nhìn cả đám chúng tôi như thể tôi là một người khác, một người ngoài cuộc nhìn vào. Và đôi khi, chuyện đó đã xảy ra với tôi theo cách đó.
Tôi nhớ âm thanh của súng lâu lâu lại vang lên một lần. Một quả lựu đạn đã nổ ở đâu đó phía sau chúng tôi trong Tòa Kilo, một tiếng nổ nhỏ; RPG găm đạn vào đâu đó ở phía trước, có lẽ là ở Tòa Papa. Tôi nhớ mình đã nghe thấy tiếng trực thăng vọng lại từ phía xa. Tôi nhớ có tên ngốc nào đó đã thổi còi, tuýt tuýt tuýt, có Chúa mới biết tại sao hắn lại làm vậy. Tôi nhớ thời tiết nóng nực ra sao, những giọt mồ hôi thi nhau túa ra trên khuôn mặt bẩn thỉu của chúng tôi thế nào. Và những đứa trẻ trên phố, lúc nào cũng là những đứa trẻ mặc áo phông rock n rap , chẳng thèm bận tâm đến tiếng súng và những vụ nổ, cứ như thể chúng không tồn tại, gập người củi qua những đầu gối đã đóng vảy và nhặt vỏ đạn để nạp lại và giao lại cho những người tham chiến. Tôi nhớ cảm giác của chiếc giày con trên thắt lưng mình và rồi tôi không tìm thấy nó.
Chúng tôi nắm tay nhau lần cuối cùng. Tôi nghĩ Taco cảm nhận được điều đó. Nhất định là thế. Có lẽ tất cả đều cũng cảm nhận được điều đó, tôi không rõ nữa. Tôi nhớ khuôn mặt của họ. Tôi nhớ mùi nước hoa English Leather của Johnny. Mỗi ngày, anh ấy chỉ bôi một ít, nó là bùa may mắn của riêng anh ấy. Tôi nhớ anh ấy đã từng nói với tôi rằng chẳng có người đàn ông nào chết đi mà có mùi như một quý ông, Chúa sẽ không để điều đó xảy ra.
“Đưa tay cho tôi nào, các cậu nhóc,” Taco nói, vì vậy chúng tôi làm theo. Thật ngốc nghếch và trẻ con – giống như rất nhiều thứ khác trong chiến tranh đều ngu ngốc và trẻ con – nhưng điều đó đã động viên chúng tôi rất nhiều. Và có lẽ nếu có quân nổi dậy đợi chúng tôi trong ngôi nhà có mái vòm to lớn ấy, điều này sẽ cho chúng chút thời gian để nhìn nhau và tự hỏi họ đang làm cái quái gì vậy và tại sao họ có thể tử vì đạo.
“Chúng ta là Hắc mã, tất nhiên, tất nhiên rồi! Chúng ta là Hắc mã, tất nhiên, tất nhiên rồi!”
Chúng tôi bắt tay nhau rồi đứng dậy. Tôi cầm một khẩu M4 trên tay và đeo khẩu M24 trên vai. Bên cạnh tôi, Big Klew giữ khẩu SAW bằng một tay, nó nặng cỡ hơn một yến và được nạp đầy đạn, quàng dây đeo qua một bên vai trông chẳng khác nào một chiếc cà vạt.
Chúng tôi tụ lại ở cổng trong sân ngoài. Những cái bóng chằng chịt ngang dọc từ tòa chung cư chưa hoàn thiện bên kia đường đổ xuống khiến bức tranh tường trông như bàn cờ – trẻ em ở một vài ô, những người phụ nữ quan sát và cảnh sát Hồi giáo ở trong những ô khác. Chân to thì cầm theo kẻ hủy diệt M870 của mình, một khẩu súng hoa cải có tác dụng biến những ổ khóa trên các cánh cổng thành những mảnh vụn. Taco đứng dẹp sang một bên để Chân to có thể làm việc của mình, nhưng khi Pablo thử đưa tay đẩy cánh cổng, nó mở ra với tiếng cót két hệt như trong phim kinh dị. Taco đưa mắt nhìn tôi và tôi cũng nhìn lại anh ấy, hai tên lính thủy quân lục chiến hèn mọn nhưng cùng chung một suy nghĩ: điên-cái-đầu [*] cái quái gì thế này?
Tac khẽ nhún vai như thể muốn nói đúng là vậy đấy, sau đó anh ấy dẫn chúng tôi băng qua sân, đầu và hông hơi hạ xuống. Chúng tôi theo sau. Có một quả bóng nằm chỏng chơ đơn độc giữa những viên đá cuội. George Dinnerstein sút thẳng vào quả bóng lúc bước qua.
Chúng tôi cứ thế đi qua mà không có phát bắn nào được bắn ra từ các ô cửa sổ có rào chắn và dừng lại trước bức tường xi măng, có bốn cánh cửa đôi ở hai bên, bằng gỗ nặng và cao ít nhất hơn hai mét. Biểu tượng của Đảng Xã hội Phục hưng Ả Rập Baath được chạm khắc trên mỗi cánh cửa, có hình hai thanh mã tấu đặt chéo nhau trên một mỏ neo có cánh ở hai bên. Một biểu tượng tín ngưỡng. Tôi nhìn quanh tìm Fareed và trông thấy anh ta ở cổng. Anh ta nhìn tôi và nhún vai. Tôi hiểu. Fareed có một công việc để làm và việc này không nằm trong phận sự của anh ta.
Taco chỉ tay vào Donk và Klew, ra hiệu cho họ đi sang trái và kiểm tra cửa sổ ở đó. Tôi và Chân to kiểm tra ô bên phải. Tôi lén nhìn vào cửa sổ, hy vọng có thể quay lại kịp thời nếu một vài tên nổi dậy quyết định thổi bay đầu tôi, nhưng tôi không nhìn thấy ai hết và cũng không có ai bắn tôi. Tôi nhìn thấy một căn phòng hình tròn lớn, sàn được trải thảm, có một chiếc đi-văng thấp, một tủ sách mà chỉ có độc một cuốn sách bìa mềm và một chiếc bàn cà phê ở bên cạnh. Có một bức tranh thêu hình những con ngựa đang phi nước đại ở trên một bức tường. Căn phòng cao gần bằng gian giữa của một nhà thờ Công giáo trong một thị trấn nhỏ, ước chừng ít nhất là 15 mét, được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt trời, trông như đang nhảy múa trên những đám bụi.
Tôi cúi xuống để nhường vị trí cho Chân to. Vì tôi không bị thổi bay đầu nên anh ấy trông lâu hơn một chút.
“Không thể nhìn thấy cửa từ đây,” Chân to nói với tôi. “Sai vị trí rồi.”
“Tôi biết.”
Chúng tôi quay lại chỗ Tac. Tôi đung đưa tay qua lại ý muốn nói có thể ổn hoặc không. Từ ô cửa sổ phía bên kia, Donk truyền tải thông điệp tương tự bằng một cái nhún vai. Chúng tôi nghe thấy nhiều tiếng súng hơn, có tiếng xa có tiếng gần, nhưng không có tiếng súng nào ở trong Tòa Lima cả. Ngôi nhà mái vòm lớn này hoàn toàn vắng lặng. Quả bóng mà Din-Din đá nằm gọn ở góc sân. Nơi này có lẽ thực sự chẳng có ai, nhưng tôi cứ cảm thấy chiếc giày chết tiệt đó vẫn đang được gài trên thắt lưng mình.
Tám người chúng tôi tụ lại một chỗ, tấn công cánh cửa. “Dàn hàng,” Taco lên tiếng. “Ai muốn đi đầu?”
“Tôi,” tôi xung phong.
Taco lắc đầu. “Lần trước cậu đã đi trước rồi, Billy. Hãy cho người khác một cơ hội đi.”
“Tôi muốn làm,” Johnny Capps nói, và thế là Taco đáp, “Vậy thì sẽ là cậu,” và đó là lý do mà tại sao hôm nay tôi vẫn có thể đi lại được bình thường nhưng Johnny thì không. Đơn giản là thế. Chúa không có kế hoạch, Ngài chỉ chọn ngẫu nhiên thôi.
Taco chỉ vào Chân to, sau đó chỉ vào cánh cửa đôi. Cánh cửa bên phải có một cái chốt sắt quá khổ thò ra như một cái lưỡi đen trơ trọi. Chân to thử mở nó, nhưng cái chốt vô cùng chắc chắn. Cổng sân không khóa, có thể là vì để trẻ em có thể đến đó, nhưng ngôi nhà lại khóa cửa. Taco gật đầu với Chân to và anh đeo khẩu súng của mình lên, nó được nạp những viên đạn đặc biệt nhằm phá cửa. Đám chúng tôi lùi lại một hàng, phía sau Johnny. Klew đứng thứ hai, vì anh ấy là người cầm súng máy. Taco đứng sau Klew. Tôi đứng thứ tư trong hàng. Pill đứng cuối, lúc nào anh ấy cũng như vậy. Johnny đang hít vào những hơi thật nhanh, lấy lại tinh thần. Tôi có thể nhìn thấy môi anh ấy mấp máy: Bắt vài đứa nào, bắt vài đứa nào, bắt vài đứa nào...
Chân to chờ Taco, và khi Tac ra hiệu, Chân to bắn nổ ổ khóa. Một phần của cánh cửa bên phải biến mất cùng với nó. Cánh cửa đổ sập vào bên trong.
Johnny không do dự. Anh dùng vai xô mạnh vào cánh cửa bên trái và xông vào phòng, hét lớn “Tấn công, mẹ kiếp...”
Johnny không thể hô lên hết câu vì một tên phiến quân đã đứng đợi sẵn sau cánh cửa đó, cầm một khẩu AK và bắn vào chân anh, chứ không phải lưng. Quần anh gợn sóng như thể có một cơn gió nhẹ thổi qua. Anh hét lên. Có lẽ là vì bất ngờ, vì cơn đau vẫn chưa ập đến. Klew lùi vào trong phòng, hét lên, “Lùi lại, các cậu!”. Chúng tôi làm theo và khi chúng tôi đã lùi lại hết, anh ấy khai hỏa bằng khẩu súng máy. Anh bắn nhanh thay vì từng phát một và cánh cửa bay ngược về phía tên phiến quân đang đứng đằng sau, những mảnh vụn văng tung tóe, các thanh mã tấu đặt chéo nhau biến mất. Tên phiến quân ngã xuống, chẳng có gì ôm lấy hắn ngoài bộ quần áo. Và hắn vẫn đang túm lấy một trong những quả lựu đạn giắt trên thắt lưng. Hắn đã rút được nó ra, nhưng quả lựu đạn rơi ra khỏi ngón tay hắn trong khi chốt vẫn còn trên tay. Klew đá quả lựu đạn đi. Tôi có thể nhìn thấy Johnny qua vai của Taco. Lúc này, anh ấy đang rên lên đau đớn. Anh la hét và vùng vẫy, máu nhuốm đỏ cả đôi giày.
“Giúp cậu ấy,” Taco nói với Klew, và sau đó hét lên, “Hộ lý quân y!”
Johnny bước thêm một bước nữa rồi dừng lại. Anh ấy hét lên rằng “Tôi bị trúng đạn rồi ôi trời ơi, tôi bị trúng đạn rồi!” . Klew bắt đầu cơ động về phía trước cùng với Taco ở phía sau, và đó là khi chúng hạ chúng tôi từ phía trên. Chúng tôi đáng lẽ phải biết. Những tia nắng đầy bụi trên mái vòm đáng lẽ phải cho chúng tôi biết, bởi chúng tôi không thấy ô cửa sổ nào từ bên ngoài. Chúng là những kế hở lộ ra trên nền bê tông, ở dưới thấp, nơi bức tường cao đến thắt lưng ở gần ban công bên ngoài đã che giấu chúng.
Klew bị trúng đạn ở ngực và loạng choạng lùi lại, vẫn giữ rịt khẩu súng máy trong tay. Áo giáp của anh đã ngăn được viên đạn đó, nhưng phát súng tiếp theo găm vào cổ họng anh. Taco nhìn những tia nắng, sau đó chộp lấy khẩu súng máy. Một viên đạn bay thẳng vào vai anh. Thêm hai phát súng bật ra khỏi tường. Viên đạn thứ tư đáp xuống phần dưới mặt anh. Hàm của anh xoay như thể nó ở trên một bản lề. Anh quay lưng về phía chúng tôi, phun ra máu, vẫy tay với chúng tôi, và sau đó đỉnh đầu của anh rơi ra khỏi đầu.
Ai đó đã đập mạnh vào tôi và chỉ trong giây lát, tôi nghĩ mình bị trúng đạn từ phía sau, rồi Pill chạy vụt qua tôi, anh không đeo túi đồ y tế qua người nữa mà túm quai túi trong tay.
“Không, không, chúng ở trên mái!” Chân to hét lên. Anh nắm lấy dây đeo còn lại của cái túi và kéo hộ lý quân y của chúng tôi trở lại, và đó là lý do duy nhất khiến Clayton “Pillroller” Briggs vẫn còn sống trên cõi đời này.
Những viên đạn găm xuống sàn của căn phòng chính, khiến các mảng gạch văng tung tóe. Đạn găm vào thảm trải sàn, làm bật lên những luồng bụi và sợi vải. Có lỗ đạn xuất hiện trên tấm thảm, găm trúng ngực một con ngựa đang chạy. Một viên đạn trúng bàn cà phê và khiến nó xoay tròn. Từ trên ban công, đám du kích Hồi giáo vẫn đang xả đạn đều đặn. Tôi nhìn thấy cơ thể của Taco và Klew giật mạnh nhiều lần, khi họ bắn trả thêm vài phát nữa, có lẽ là để chắc chắn, mà cũng có lẽ là để trút bỏ cơn thịnh nộ của họ, mà cũng có thể là cả hai. Nhưng họ đều tránh xa Johnny, anh đang nằm giữa sàn trong một vũng máu lan rộng. Và la hét vì chốc đầu bị thổi bay. Họ có thể dễ dàng đưa Johnny ra ngoài, nhưng họ không muốn làm thế. Johnny là con dê dấn vốn của họ.
Tất cả những việc này, từ việc Chân to thổi tung cánh cửa cho đến việc đám phiến quân trên ban công nổ súng vào Tac và Klew, chỉ xảy ra trong một phút rưỡi. Có thể còn chưa đến. Khi mọi chuyện đi sai hướng, chúng không hề lãng phí thời gian.
“Chúng ta phải lôi Cappsie ra,” Donk nói.
“Đó là những gì chúng muốn đấy,” Din-Din nói. “Chúng không hề ngu ngốc chút nào, phải không?”
“Cậu ấy sẽ chảy máu cho đến chết nếu chúng ta bỏ cậu ấy,” Pill nói.
“Tôi sẽ vào.” Chân to nói và chạy vào cửa, gần như cúi một nửa người xuống. Anh nắm lấy phía sau chiếc áo giáp của Johnny và bắt đầu kéo lê, đạn vẫn nã vào xung quanh anh. Anh kéo cho đến chỗ xác chết của gã quân nổi dậy, thì ăn một viên đạn vào mặt và đó là cái kết của Pablo Lopez ở El Paso, Texas. Anh ngã ngửa và đám quân nổi dậy ở phía trên chuyển mục tiêu sang anh. Johnny tiếp tục la hét.
“Tôi có thể với lấy cậu ấy,” Din-Din nói.
“Chân to cũng nghĩ như thế,” Donk nói. “Những tên khốn đó sẽ nổ súng.” Anh quay sang tôi. “Chúng ta phải làm gì, Billy? Gọi cứu trợ trên không?”
Tất cả chúng tôi đều biết rằng một tên lửa Hỏa ngục có thể xử lý đám du kích Hồi giáo đang ở trên ban công, nhưng đồng thời cũng kết liễu Johnny Capps.
“Tôi sẽ đưa họ ra,” tôi nói.
Tôi không chờ đợi thêm bất kỳ lời bàn bạc nào. Chúng tôi đã bị muộn. Tôi quay gót chạy trở lại sân, thả khẩu M4 của mình xuống những viên đá cuội. “Các người rút lui bây giờ hả, sếp?” Fareed hỏi.
Tôi không trả lời, chỉ chạy băng qua đường đến tòa nhà đang xây dở. Nó không có cửa. Bên trong là một không gian lờ mờ và sực mùi xi măng ướt. Sảnh đợi là một kho đồ hộp, snack và thanh Hershey. Có một bịch Coca-Cola và một chồng tạp chí Field & Stream đặt ở phía trên. Một vài tên Iraq giàu có dám nghĩ dám làm đã sử dụng nơi này như một trạm giao dịch.
Tôi chạy lên cầu thang. Tầng một có rất nhiều rác rưởi vương vãi. Ở cầu thang tầng hai, ai đó đã phun sơn dòng chữ LÍNH MỸ CÚT ĐI, một cụm từ ưa chuộng lâu đời nhưng không bao giờ mất đi sức hấp dẫn của nó. Tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng súng nổ liên hồi từ bên kia đường và tiếng la hét của Johnny Capps. Din-Din nói rằng những lời cuối cùng của Donk là “Tôi có thể giúp cậu ấy, cậu ấy đang ở rất gần.”
Đến tầng bốn là hết những bức tường và ánh nắng trực tiếp rọi thẳng vào tôi. Tôi tránh một chiếc xe rùa chở đầy xi măng cứng, gạt đống ván sang một bên, và tiếp tục đi lên. Tôi thở hổn hển như một chú chó và mồ hôi mẹ mồ hôi con thi nhau túa ra trên người. Cầu thang dừng ở tầng sáu và điều này ổn vì tôi thậm chí đã ở trên đỉnh so với mái vòm bên kia đường và có thể nhìn xuống ban công.
Chúng có ba tên cả thảy. Cả ba tên đều quỳ gối, quay lưng về phía tôi. Tôi vòng dây đeo khẩu M24 qua vai phải, thít thật chặt và đặt nòng súng lên một cây thép nhô ra từ một bức tường chưa hoàn thiện. Ba tên bọn chúng đang cười và cổ vũ nhau như thể đây là một trận đấu bóng đá và đội của chúng đang giành chiến thắng. Tôi nhắm vị trí vào đầu tên ở giữa. Nó không to bằng một quả bí ngô Halloween, nhưng vừa đủ. Tôi bóp cò và thế là cái đầu biến mất. Không có gì ngoài máu và não chảy xuống mặt cong của mái vòm, nơi nó đã từng ở đấy. Hai tên còn lại ngơ ngác nhìn nhau – chuyện quái gì vừa xảy ra thế?
Tôi nhắm bắn tên thứ hai và tên thứ ba nhảy xuống lan can xi măng, có lẽ hắn nghĩ như thế sẽ né được. Nhưng không. Lan can đó quá thấp. Tôi bắn vào lưng hắn. Hắn nằm im. Không mặc áo giáp. Hắn có thể tin Đấng Toàn năng có sáu tay nhưng ngày hôm đó Đấng Toàn năng đang bận rộn ở nơi khác.
Tôi chạy trở lại cầu thang và băng qua đường. Fareed vẫn đứng đó. Din-Din và Pill ở trong Ngôi nhà Vui nhộn, Pill quỳ gối bên cạnh Johnny. Anh ấy đã cắt bỏ phần ống quần của Johnny. Các mảnh xương dính vào vải và thò ra khỏi da của Johnny. Din-Din đang hét vào bộ đàm của Pill, nói với ai đó rằng có thương vong, nhiều thương vong, Tòa Lima, ngôi nhà có mái vòm lớn, sơ tán thương vong, sơ tán thương vong...
“ Đau quá! ” Johnny hét lên. “Ôi Chúa ơi ĐAU CHẾT MẤT!”
“Nuốt những viên này đi,” Pill nói. Anh ấy đưa cho Johnny vài viên morphine.
“Ôi Chúa ơi ước gì chết quách đi cho xong ước gì chúng giết mình ÔI CHÚA ƠI LÀM SAO HẾT ĐAU!”
Pill dùng hai ngón tay bóp miệng Johnny và nhét những viên thuốc vào. “Nhai nó đi và cậu sẽ được gặp Chúa.”
“Chuyện gì xảy ra ở đây vậy, Thủy quân lục chiến?”
Tôi nhìn quanh và thấy Hurst. Hắn vẫn đang đứng dạng chân, cố hết sức để trông như Tướng Patton, duy chỉ có điều hắn xanh xao như tàu lá chuối.
“Trông thế nào?” Din-Din lên tiếng. “Fallujah đã xảy ra rồi. Thưa ngài. ”
“Nếu không được truyền máu càng sớm càng tốt, cậu ấy sẽ...”
05Điều mang Billy trở về từ Iraq vẫn ở Iraq, một phần trong bản thu âm bất tận của Lalafallujah: Cây đàn ghita của Angus Young [*] hằm hè cùng album “Dirty Deeds Done Dirt Cheap”.
Bucky và Alice hẳn đã trở về sau chuyến mua sắm. Billy nhìn đồng hồ và thấy đã 3 giờ 12 phút chiều. Anh đã ở đây hàng giờ liền mà không hề có cảm giác rằng thời gian vẫn đang trôi.
Anh hoàn thành câu cuối lủng lẳng đó, nhấn nút lưu, nhét chiếc máy tính xách tay của mình vào túi đựng và dợm bước rời đi thì tình cờ chạm mắt vào bức tranh mà anh đã tháo xuống, quay nó vào tường để không bị phân tâm bởi những màu sắc nhức mắt. Anh treo nó trở lại, có lẽ (có thể) vì anh vẫn ở trong chế độ Thủy quân lục chiến và ghi nhớ câu châm ngôn của Trung sĩ “Up Yours” Uppington: Không được để lại dấu vết khi rời đi.
Anh nhìn bức tranh, cau mày. Con chó giậu ở bên phải, con thỏ giậu ở bên trái. Không phải chúng ngược lại so với ban nãy sao? Và những con sư tử hình như đến gần hơn thì phải?
Mày nhầm thôi, chỉ có thế, anh nghĩ, nhưng trước khi rời khỏi căn nhà hóng mát, anh gỡ bức ảnh xuống một lần nữa. Không quên úp nó vào tường.
06Tiếng nhạc dần to hơn khi anh về gần đến nhà. Không có hàng xóm láng giềng, vậy nên Bucky thực sự có thể vặn loa tùy thích. Nó hẳn là một bản mixtape, bởi khi Billy đến gần ngôi nhà, ban nhạc AC/DC đã nhường chỗ cho Metallica.
Họ đã mang về một chiếc xe hơi mới – ít nhất là mới đối với họ – và Billy dừng lại trước khi bước lên bậc thềm để xem xét nó. Vì khoảnh đất dưới hiên nhà không còn chỗ trống nên họ đậu nó ở cuối đường lái. Đó là một chiếc Dodge Ram, kiểu xe Quad Cab từ đầu thế kỷ 20, từng có màu xanh lam nhưng giờ chủ yếu là màu xám. Không có Bondo xung quanh đèn pha, nhưng hàng ghế đã được vá lại bởi một dải băng dính màu đen và các gờ xe đều hoen gỉ hết cả. Sàn xe phía sau không khấm khá hơn, nơi chứa máy cắt cỏ Lawn-Boy tuổi đời có thể còn lâu hơn cả chiếc xe tải này. Nó nối với một chiếc xe moóc, loại hai bánh, khá cũ nát và chẳng có gì bên trong.
Lúc Billy bước lên hiên nhà, Metallica được thay thế bởi Tom Waits đang rền rĩ bài “16 Shells from a Thirty-Ought Six”. Billy dừng lại trước ngưỡng cửa. Bucky và Alice đang khiêu vũ giữa phòng chính. Cô mặc một chiếc áo khoác mới, làn da ửng lên cùng đôi mắt ngời sáng. Với mái tóc buộc kiểu đuôi ngựa – thực sự là đuôi ngựa, dài đến giữa lưng – trông cô trẻ trung như tuổi mới lớn. Cô đang cười rạng rỡ, vô cùng thích thú. Có thể vì Bucky là một vũ công tuyệt vời, cũng có thể chỉ vì cô đang có một khoảng thời gian vui vẻ cho riêng mình.
Bucky ra dấu hai chữ V chào Billy và tiếp tục với Shuffing off to Buffalo. Ông thực hiện một cú xoay người Alice theo hướng khác. Cô nhìn thấy Billy đang dựa vào ngưỡng cửa và khẽ mỉm cười, lắc hông khiến đuôi ngựa phía sau của cô hất từ bên này sang bên kia. Giọng của Tom Waits ngừng lại. Bucky đi đến dàn âm thanh nổi và tắt Bob Seger trước khi Betty Lou vang lên. Sau đó, ông ngồi phịch xuống ghế và vỗ ngực mình. “Tôi thực sự rã rời với điệu boogaloo [*] này.”
Alice, dường như cũng thực sự rã rời bởi điệu boogaloo, quay sang Billy, gần như là phấn khích. “Anh có nhìn thấy chiếc xe tải không?”
“Tôi thấy rồi.”
“Nó thật hoàn hảo phải không?”
Billy gật đầu. “Một khi nó lướt qua người khác, sẽ chẳng có ai nhớ đến nó quá năm phút.” Anh nhìn Bucky qua vai cô. “Động cơ thế nào?”
“Ricky nói chiếc xe cũ nhưng ổn. Chỉ tốn chút dầu thôi. Chà, có lẽ nhiều hơn một chút. Alice và tôi đã lái thử nó và nó có vẻ ổn thật. Hệ thống giảm xóc không ăn lắm, nhưng cậu mong đợi gì ở một chiếc xe tải cũ như chiếc xe này. Ricky để nó lại với giá 330 đô.”
“Tôi đã lái nó về đây đấy,” Alice nói. Cô vẫn thích mua sắm, khiêu vũ hoặc cả hai thứ đó. Billy rất mừng cho cô. “Một chiếc xe thông dụng, nhưng tôi đã học lái xe thông dụng rồi. Chú tôi đã dạy tôi. Ba mức khi lên dốc, sang bên khi muốn đi lùi.”
Billy mỉm cười. Anh đã học lái xe hồi còn ở Nhà sơn Vĩnh cửu, để có thể giúp đỡ nhiều hơn sau khi Gad – Glen Dutton trong câu chuyện của anh – đi lính. Ông Stepenek – Ông Speck trong câu chuyện của anh – đã dạy anh.
“À, tôi có cái này cho anh,” Alice nói. “Chờ chút nhé.”
Cô chạy biến vào một căn phòng khác để lấy nó, và Billy hướng sự chú ý của mình trở lại Bucky. Bucky gật đầu và nhanh chóng ra hiệu đồng ý: À-OK.
Alice quay trở lại với một chiếc hộp có chữ PHỤC TRANG ĐẶC BIỆT được dập nổi với mỗi chữ cái uốn lượn. Cô đưa chiếc hộp cho anh.
Billy mở nó ra và lấy ra một bộ tóc giả mới, có lẽ đắt gấp đôi bộ anh đặt ở Amazon. Bộ tóc này không phải màu vàng, mà có màu đen điểm nhiều sợi xám và dài hơn bộ tóc giả Dalton Smith. Dày hơn nữa. Suy nghĩ đầu tiên của anh là nếu anh đội nó và bị cảnh sát chặn lại, bộ tóc giả sẽ không khớp với ảnh trên bằng lái xe của anh. Sau đó, một ý nghĩ khác xuất hiện, một ý nghĩ lớn hơn nhiều, đẩy mọi suy nghĩ khác ra khỏi tâm trí anh.
“Anh không thích nó,” Alice nói. Nụ cười của cô nhạt dần.
“Ồ, tôi có mà. Rất thích.”
Anh đánh liều trao cho cô một cái ôm. Cô ôm lại anh. Vậy là được rồi.
07Thời tiết vào ngày mà Billy và Alice đến chẳng khác nào mùa hè, nhưng đêm thứ hai của họ ở nhà Bucky thì mát mẻ hơn, gió thổi quanh nhà mát rượi. Billy mang về một vài khúc cây phong, xếp chúng dưới hiên và Bucky đốt lò hãng Jotul ở trong bếp. Sau đó, họ ngồi vào bàn và cùng nhau ngắm những bức ảnh mà Bucky đã in ra, vài cái từ Google Earth và những cái còn lại từ Zillow. Những bức ảnh cho thấy khuôn viên bên ngoài và các phòng bên trong cùng các tiện nghi của ngôi nhà ở số 1900 đường Cherokee Drive, thị trấn Paiute, một vùng ngoại ô phía bắc của Las Vegas. Và đó chính là nơi ở của Nick Majarian.
Ngôi nhà dựa lưng vào Chân đồi Paiute. Nó có màu trắng như tuyết và có bốn tầng, tầng bên trên tách biệt hẳn so với tầng bên dưới nên toàn thể ngôi nhà trông giống như một cầu thang khổng lồ. Quang cảnh của trung tâm thành phố Vegas chắc hẳn rất tuyệt diệu vào ban đêm, Billy nghĩ, đặc biệt là khi nhìn từ mái nhà.
Từ Google Earth, họ có thể nhìn thấy một bức tường cao bao quanh khu nhà, cổng chính và đường lái – một con đường mới đúng, nó phải dài cả dặm – dẫn vào khu nhà. Có một nhà kho cách ngôi nhà chừng hai trăm thước. Một bãi nhỏ giữ ngựa và một phần đất hình tròn dành cho ngựa ở gần đó. Có ba nhà phụ khác, một cái lớn và hai cái nhỏ hơn. Billy nghĩ người giúp việc hẳn phải ở trong cái lớn nhất, nơi mà ngày xưa được gọi là nhà lá và có lẽ bây giờ vẫn vậy. Hai cái còn lại có lẽ là để đựng đồ bảo trì và làm nhà kho. Anh không nhìn thấy cái gì có thể làm ga-ra và hỏi Bucky về nó.
“Tôi đoán nó được xây dựng ở chỗ dốc đầu tiên này,” Bucky nói, chỉ vào ngọn đồi nhỏ phía sau ngôi nhà. “Chỉ có điều nó giống một nhà chứa máy bay hơn. Không gian rộng đủ cho hơn cả chục chiếc xe hơi. Mà cũng có thể hơn thế nữa. Nick thích dòng cổ điển, hoặc tôi nghe nói vậy. Tôi đoán ai chẳng có chỗ ngứa như thế, nhưng chỉ có tiền mới gãi được vết ngứa đó thôi.”
Có nhiều vết ngứa mà tiền cũng chẳng thể gãi được, Billy nghĩ.
Alice đang kiểm tra bức ảnh từ Zillow. “Chúa ơi, phải có đến hai mươi phòng. Và nhìn hồ bơi phía sau này!”
“Đẹp đúng không,” Bucky đồng tình. “Toàn tiện nghi hiện đại. Và anh ta có thể có thêm nhiều hơn nữa, bởi những bức ảnh này hẳn phải được chụp từ trước khi Nick mua nó. Anh ta đã trả mười lăm triệu đô. Tôi thấy nó trên Zillow.”
Thế mà hắn định nuốt một triệu rưỡi đô của mình, Billy nghĩ.
Các bức ảnh của Zillow về không gian bên ngoài cho thấy những gì mà Google Earth không làm được. Chẳng hạn như khung cảnh của bãi cỏ, một màu xanh lá mát mắt, điểm xuyết vài thảm hoa. Bãi nhỏ giữ ngựa cũng có màu xanh như thế. Có một khu rừng nhỏ toàn cọ là cọ, dưới vài bóng râm của cọ còn có những món đồ ngoài trời. Phải cần đến bao nhiêu trăm nghìn gallon nước để giữ cho điền trang đó trông giống như vườn địa đàng giữa sa mạc như vậy nhỉ? Có bao nhiêu người làm vườn? Có bao nhiêu người giúp việc trong nhà? Và có bao nhiêu tay chân lởn vởn phòng trường hợp một đám tên sát thủ mang tên Billy Summers có thể đến đòi lại phần tiền xương máu của anh ta?
“Hắn đặt tên cho nơi này là Điểm Mũi đất,” Bucky nói. “Tôi đã tìm hiểu qua rồi, thời nay nếu biết cách lần mò những vùng tối hơn trên Internet, cậu có thể tìm thấy những thứ đáng kinh ngạc. Nick đã ở đó từ năm 2007 và quay lưng lại với những ngọn núi để không ai có thể làm phiền. Có lẽ anh ta đã bất cẩn một chút, nhưng tôi không tin thế đâu.”
Không, Billy nghĩ, tôi sẽ chẳng trông chờ chuyện đó. Không thể coi thường kẻ có thể ra tay loại bỏ một cộng sự lâu năm và được việc như Giorgio Piglielli. Giả thiết duy nhất mà anh có thể đưa ra là Nick đang cho người tìm kiếm anh. Chờ đợi anh. Chỉ là Nick không biết Billy tức giận như thế nào. Họ đã thỏa thuận. Và anh đã làm xong việc. Thay vì giữ lời, Nick lại tính quỵt anh. Sau đó tìm cách giết anh. Lúc hai người mặt đối mặt, Nick có thể phủ nhận điều đó, nhưng Billy biết. Cả hai đều biết.
Bucky chỉ vào một điểm trên ảnh chụp từ trên không của Google Earth về khu đất. “Hình vuông nhỏ này là cổng, và có người gác. Được bảo vệ. Cậu có thể xem xét nó.”
Billy biết điều đó. Anh lại tự hỏi Nick có bao nhiêu người bảo vệ vương quốc nhỏ bé của hắn. Trong phim của Sylvester Stallone hay Jason Statham thì sẽ có hàng tá, được trang bị mọi thứ, từ súng máy hạng nhẹ chạy bằng khí gas cho đến bệ phóng tên lửa vác vai, nhưng đây là đời thực. Chắc là sẽ có năm, hoặc bốn người, dắt theo súng lục tự động hoặc súng hoa cải, hoặc cả hai. Nhưng anh chỉ có một thân một mình, và anh cũng chẳng phải Sylvester Stallone.
Alice đẩy một bức ảnh của Google Earth ra giữa bàn. “Đây là gì thể? Tôi không thấy nó trên bất kỳ bức nào của Zillow.”
Bucky và Billy cùng nhìn vào. Đó là một bức tường phía tây, kéo dài đến chỗ có một tảng đá nhô lên. Sau một hồi quan sát, Bucky lên tiếng, “Tôi nghĩ đó hẳn là lối vào dành cho nhân viên phục vụ. Cô sẽ chẳng ngại trưng nó trên một trang web bất động sản như trưng ra một nhà kho nơi rác được chứa chờ ngày thu gom. Các trang web bất động sản mê sự hào nhoáng. Cậu thấy thế nào, Billy?”
08“Tôi không biết.” Nhưng anh đang bắt đầu ngẫm nghĩ. Càng nghĩ về chiếc xe tải cũ nát đó, anh càng thấy thích. Và bộ tóc giả mới nữa. Nó cũng vậy.
Sau bữa tối, Alice chiếm phòng tắm để nhuộm tóc. Lúc Bucky mời cô một chai bia (chỉ là “giúp cô phấn chấn hơn”), cô liền đồng ý. Cả hai đều nghe thấy tiếng cô khóa cửa lại sau lưng. Billy không ngạc nhiên. Nhưng anh không biết Bucky có để ý điều đó hay không.
Bucky lấy thêm hai chai bia từ tủ lạnh. Sau khi Bucky mặc thêm một chiếc áo khoác mỏng và ném cho Billy một chiếc áo len, họ cùng đi ra ngoài hiên và ngồi xuống bên cạnh nhau trên ghế bập bênh. Bucky đưa cổ chai bia của mình cụng với cổ chai bia của Billy. “Chúc thành công.”
“Cụng ly,” Billy nói, và uống một hơi. “Tôi muốn cảm ơn ông một lần nữa vì đã tiếp đãi chúng tôi. Tôi biết ông không mong đợi có khách.”
“Cậu thực sự muốn một bộ giảm thanh cho khẩu Ruger à?”
“Đúng thế. Ông có thể lấy cho tôi thêm một khẩu Glock 17 và đạn cho cả hai được không?”
Bucky gật đầu. “Không thành vấn đề. Cậu cần gì nữa không?”
“Một bộ ria mép hợp với bộ tóc giả mà Alice mua cho tôi. Tôi không có thời gian để nuôi ria mép.”
“Cậu tính làm gì? Có lẽ đã đến lúc nói cho tôi biết để tôi có thể trao đổi với cậu về điều đó chứ nhỉ.”
Thế là Billy kể. Bucky chăm chú lắng nghe và sau một lúc, ông gật gù. “Đến tận chỗ ở của hắn là một sự mạo hiểm, vào hang hùm để bắt cọp, nhưng nó có thể hiệu quả. Bất kỳ thợ săn tiền thưởng nào đang tìm kiếm cậu đều có khả năng ở trung tâm thành phố, đặc biệt là khu vực xung quanh casino của Nick. Double Deuce, hoặc bất cứ thứ gì.”
“Double Domino.”
Bucky rướn người về phía trước, nhìn thẳng vào anh. “Nghe này, nếu cậu lo lắng về số tiền mà cậu đã hứa với tôi...”
“Không hề.”
“... thì cậu có thể bỏ qua nó. Tôi vẫn đang kiếm ổn và tôi rất vui khi được ra khỏi thành phố. Tôi không hiểu tại sao ngay từ đầu tôi đã ở lại đây lâu như vậy. Một ngày nào đó sẽ có người cho nổ một quả bom bẩn thỉu trên Đại lộ số 5, hoặc một căn bệnh truyền nhiễm sẽ ập đến và biến mọi thứ từ Manhattan đến Đảo Staten thành một đĩa Petri khổng lồ.”
Billy cho rằng Bucky đã nghe talk radio [*] quá nhiều nhưng anh không nói vậy với ông. “Chuyện này không phải vì tiền của ông hay của tôi, dù tôi sẽ lấy nếu hắn có. Hắn lừa tôi. Hắn bịp tôi. Và hắn là một kẻ xấu.” Billy nghe thấy bản thân mình lên tiếng như cách nói của bản thể ngờ nghệch và anh không quan tâm. “Hắn đã giết Giorgio, hoặc sai người giết anh ta. Và hắn cũng có ý định làm vậy với tôi.”
“Được rồi,” Bucky nhỏ giọng. “Tôi hiểu rồi. Một vấn đề liên quan đến danh dự.”
“Không phải danh dự, mà là chữ tín. ”
“Cậu nói đúng. Giờ thì uống bia đi nào.”
Billy uống một ngụm lớn và nghiêng đầu về phía nhà, nơi vòi hoa sen đang chảy. Một lần nữa. “Cô ấy lúc đi mua sắm thế nào? ổn chứ?”
“Hầu hết là vậy. Trước khi chúng tôi vào Common Threads để mua cho cậu một chiếc mũ cao bồi – quên đưa cho cậu xem rồi, chết tiệt thật – cô ấy hơi khó thở một chút và đã hát gì đó. Tôi không biết bài hát đó là gì, nhưng sau đó cô ấy đã ổn trở lại.”
Billy biết nó là gì.
“Lúc ở tiệm xe si, cô ấy nhiệt tình vô cùng. Phát hiện chiếc xe tải đó và mặc cả với Ricky từ 440 xuống còn 330. Khi anh ta cố gắng giữ giá 350, cô ấy túm lấy tay tôi và nói “Đi thôi, Elmer, anh ấy là người tốt” nhưng thật chẳng nghiêm túc chút nào. Cậu có tin không?”
“Thực ra là tôi có,” Billy đáp. Anh mỉm cười, nhưng Bucky không cười lại với anh. Ông đột nhiên trở nên nghiêm túc. Billy hỏi có chuyện gì.
“Chưa có gì, nhưng có thể có.” Ông đặt chai bia xuống và quay lại nhìn thẳng vào Billy. “Hai chúng ta sống ngoài vòng pháp luật, đúng không? Ngày nay, mọi người không sử dụng từ đó nhiều, nhưng chúng ta là thế. Alice thì không, nhưng nếu cô ấy cứ tiếp tục đi với cậu như thế này thì cô ấy cũng sẽ như vậy. Bởi vì cô ấy yêu cậu, Billy ạ.”
Billy cũng đặt chai bia của mình xuống. “Bucky, tôi không phải... tôi không...”
“Tôi biết cậu không lên giường với cô ấy và có lẽ Alice cũng không muốn làm thế với cậu, không phải sau tất cả những chuyện cô ấy vừa trải qua. Nhưng cậu đã cứu mạng cô ấy và đưa cô ấy trở lại...”
“Tôi không đưa cô ấy trở lại...”
“Được rồi, có thể cậu không làm thế, nhưng cậu đã cho cô ấy thời gian và không gian để tự mình làm thế. Điều đó không thay đổi sự thật rằng cô ấy yêu cậu và cô ấy sẽ đi theo cậu miễn là cậu cho phép và nếu cậu đồng ý, tức là cậu sẽ hủy hoại cô ấy.”
Sau khi nói hết những điều mà lúc này Billy tin thành lời, Bucky dừng lại để lấy hơi, nhấc chai bia của mình lên, uống liền một nửa và phát ra một tiếng ợ hơi.
“Hãy phản biện lại tôi nếu cậu muốn. Cho cậu ở vài ngày không có nghĩa là tôi có quyền cấm cậu cãi lại, vì vậy hãy cứ phản bác tôi.”
Nhưng Billy không làm thế.
“Hãy đưa cô ấy đến Nevada với cậu, chắc chắn đấy. Tìm một chốn rẻ tiền bên ngoài thành phố và để cô ấy ở đó trong khi cậu lo việc của mình. Nếu cậu an toàn ra khỏi đó và lấy được tiền, hãy cho cô ấy một ít tiền và để cô ấy đi về phía đông. Bảo cô ấy đừng gặp lại cậu nữa và nhắc cô ấy rằng đống giấy tờ giả đó chỉ là món đồ ngụy trang ngắn hạn. Cô ấy có thể trở lại là Alice Maxwell một lần nữa.”
Bucky giơ một ngón tay lên, nó bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của bệnh viêm khớp. “ Nhưng chỉ khi cậu giữ cô ấy tránh khỏi chuyện đó. Hiểu chưa?”
“Vâng.”
“Nếu không ra được khỏi đó thì cậu có thể sẽ chẳng giữ được mạng. Cô ấy có thể không chịu đựng nổi, nhưng cô ấy cần phải biết. Đồng ý chứ?”
“Đồng ý.”
“Nói với cô ấy rằng nếu một vài ngày trôi qua mà cô ấy không nhận được tin tức từ cậu thì cô ấy nên quay lại đây. Tôi sẽ đưa tiền cho cô ấy. Một nghìn đô, mà cũng có thể là một nghìn năm trăm.”
“Ông không cần phải...”
“Tôi muốn làm vậy. Tôi quý Alice. Cô ấy không phải là người hay than vãn và sau những chuyện đã xảy ra với chính cô ấy, cô ấy có quyền than vãn. Hơn nữa, đó là tiền cậu làm cho tôi. Bây giờ, cậu là khách hàng duy nhất của tôi. Được hơn bốn năm rồi. Đứa trẻ này không phải dính dáng gì đến những ân oán nữa. Và tôi cũng quá già để ngồi tù rồi.”
“Được rồi. Cảm ơn ông nhiều nhé. Cảm ơn.”
Âm thanh vòi hoa sen ngừng lại. Bucky lại nghiêng người về phía Billy qua thành của chiếc ghế bập bênh.
“Cậu biết đấy, một chú mèo con sẽ đi theo một con chó quyết định chải lông cho nó thay vì đuổi theo hoặc cắn nó. Ôi trời, một con vịt con cũng sẽ như thế. Chúng ghi nhớ. Và Alice đã ghi nhớ cậu, Billy, và tôi không muốn cô ấy bị thương.”
Cánh cửa phòng tắm mở ra và Alice bước ra ngoài hiên. Cô mặc một chiếc áo choàng tắm cũ màu xanh lam, nó chắc hẳn là của Bucky. Chiếc áo choàng tắm dài đến nỗi gấu của nó chạm vào mu bàn chân trần của cô. Tóc cô được búi lên, được giữ lại bằng hàng tá những thứ trông như cặp tóc, và được trùm bởi một túi nhựa trong suốt. Tóc cô thậm chí sẽ không ra màu gần giống màu bạch kim, có thể là bởi tóc cô ban đầu quá đen, nhưng dù sao thì nó vẫn là một sự thay đổi lớn.
“Ông nghĩ sao? Tôi biết giờ thì vẫn khó nói, nhưng...”
“Có vẻ ổn,” Bucky đáp. “Tôi chết mê chết mệt màu vàng lạnh. Tóc người yêu cũ đầu tiên của tôi cũng có màu như thế. Tôi đã nhìn thấy cô ấy thơ thẩn bên máy hát tự động và tôi biết mình phải có được cô ấy. Thật là dại dột.”
Alice nở một nụ cười sao nhãng nhưng lại đang nhìn về phía Billy, ý kiến của anh mới là điều quan trọng. Billy hiểu chính xác những gì mà Bucky nói. Anh nhớ mình đã từng xem một video trên YouTube, quay cảnh một con chim đang tắm trong khay đựng nước của chó, khi chú chó – có tên là Great Dane – ngồi bên cạnh và quan sát. Và anh nghĩ về câu nói xưa, nói về việc nếu bạn cứu sống một ai đó thì bạn phải chịu trách nhiệm về cuộc đời họ.
“Trông cô thật tuyệt,” anh nói và Alice mỉm cười.