← Quay lại trang sách

PHẦN IV

Tuấn bỡ ngỡ bước xuống máy bay, không để ý đến những người đi sau đang chen lấn. Alger hiện ra đột ngột và lạ lùng, khí hậu cũng như phong cảnh.

Lần thứ nhất Tuấn xa quê hương, tất cả đều làm Tuấn ngạc nhiên? Từ những người phu làm đường, người thợ máy cho đến các nhân viên làm ở sân bay.

Xuống hết mấy bực thang, Tuấn quay lại chờ Xalem, ông bạn cùng đi một chuyến máy bay mà chàng vừa làm quen cách đó vài ba giờ trước lúc chàng đưa giấy tờ cho cô chiêu đãi viên.

Tuấn muốn chào Xalem trước khi chia tay, người bạn Ả-rập thứ nhất mà Tuấn biết rằng sẽ có dịp nhờ và nhiều trong sự hướng dẫn của những buổi đầu tiên bỡ ngỡ.

Đang còn nhìn quanh quất thì Xalem đến vỗ vai hỏi thăm.

– Có người đến đón anh chứ?

– Vâng có người ở sở đến đón nhưng tôi không biết mặt người ấy, lạy trời cho họ đừng đón nhầm ai kẻo nguy quá.

Xalem tỏ vẻ thương hại ông bạn bơ vơ:

– Cả gia đình đến đón tôi đằng xa kia.

Tuấn nhìn theo phía tay Xalem chỉ, quả thật có cả gia đinh Ả-rập trắng toát trong những cái Kachabia từ đằng xa đang nháo nhác chỉ trỏ. Tuấn thèm được ở vào hoàn cảnh của bạn cũng như Tuấn vẫn thèm mỗi khi đọc trong sách, hoặc nghe ai tả cảnh những gia đình đông đủ, đầm ấm.

Có lẽ vì không có anh em, lại mồ côi mẹ sớm nên Tuấn hay mơ ước như thế chứ sự thật chàng cũng đã có nghe lắm người bạn phàn nàn vì cảnh gia đình đông đúc khó chịu. Bạn bè là do mình chọn lấy, mình có thể tìm những ai hợp với ý mình, còn anh em là do cha mẹ đãng trí tạo ra, mình không thể lựa chọn được nên lắm khi bực mình mà cũng đành phải ráng chịu.

Đường từ máy bay vào ga phải đi bộ một đoạn khá xa, dưới ánh nắng gay gắt. Chỉ có mấy tiếng đồng hồ mà khí hậu khác nhau hẳn. Hành khách người nào từ máy bay xuống cũng khệnh khạng chiếc áo khoác trên tay vì lúc sáng ra đi trời hiu hắt lạnh.

– Anh thấy Alger của chúng tôi ra thế nào?

– Nóng lắm, thích lắm, chỉ biết thế thôi. Màu đất và màu da người đều thẫm hơn ở Pháp, phải không anh?

Xalem không trả lời, với chàng trai yêu nước nầy cứ người nào yêu quê hương mình là người ấy tốt.

Đằng xa, từ trên gác, người đến đón đang la lối dang tay ra hiệu ầm ĩ cho những hành khách đằng nầy trông thấy nhận ra người quen.

Tuấn tò mò nhìn đám đông chen lấn cả người Âu lẫn người Ả-rập, và Tuấn tưởng chừng như họ đang ra hiệu cho mình là họ đến đây để chờ đón mình.

Tuấn bị để ý nhiều nhất, vì trong đám hành khách chỉ có chàng là ăn mặc chững chạc có nơ con bướm, có áo ấm ngoài sơ mi. Lại còn bộ quần áo len thẫm mà chỉ ở Paris mới chịu nồi.

Dưới trời nóng nực như thế nầy Tuấn bị chú ý là phải. Ở Paris các bạn đã đánh cuộc xem Tuấn giữ bộ quần áo ấy đến bao lâu vì mọi người đều nghe nói đến khí hậu của Alger.

Một người Pháp đến bắt tay tự giới thiệu, Tuấn mừng rỡ đang lo người ấy ngủ quên. Trời nóng nực, chàng nghe nói rằng ai cũng hay ngủ trưa, biết dâu ông ấy cũng thế.

Sau mấy câu giới thiệu làm quen với An-Di, người bạn cùng sở, Tuấn vội xin lỗi đi tìm Xalem để chào thăm một lần cuối. Mải lo trình giấy tờ và lấy hành trang, Tuấn đã bỏ rơi mất Xalem.

Đằng cuối ga, Xalem với gia đình đang tíu tít mừng nhau. Một ông cụ già mặc áo lụa trắng, ngoài có tấm áo khoác cũng cùng một thứ lụa ấy, đầu thắt mấy vành khăn trắng, không dấu hết mái tóc bạc phơ, chòm râu mép hiên ngang. Đối với người Ả-rập thì râu là một của quý mà Thượng Đế đã ban riêng cho nam giới. Chân ông cụ đi đôi dép da làm ở miền Nam, toàn người có vẻ thanh thoát nhẹ nhàng như một bậc tiên ông.

Đứng bên ông cụ là cô con gái cũng trắng toát từ đầu xuống chân, cái mạng che mặt đấu hết chỉ chừa mỗi một tí trán vương vài sợi tóc đen với đôi mắt cũng long lanh đen. Chung quanh thiếu nữ còn có một bầy trẻ con, đang đùa nghịch chạy đuổi nhau lấy mấy người lớn ra làm bia cho chúng nó chơi trốn bắt.

Chàng đến gần Xalem, sau lời giới thiệu chàng lễ phép bắt tay ông cụ, cúi đầu chào cô gái và hẹn ngày gặp lại Xalem. Cả gia đình từ ông cụ cho đến mấy đứa bé đều chăm chú nhìn Tuấn không bỏ qua một nét.

Bây giờ Tuấn mới được trông thấy thế nào là lối ăn mặc của người đàn bà Ả-rập. Từ trước chàng chỉ nghe nói và thấy qua tranh ảnh mà thôi.

Tuy cả thân hình từ trên xuống dưới đều được dấu kỹ qua mấy lớp lụa, Tuấn cũng thầm đoán rằng cô gái nầy phải đẹp lắm. Đôi mắt đen nháy bừng lên trong mầu lụa trắng, ngơ ngác như những con bồ câu non mới xa chuồng lần thứ nhất. Cái nhìn cũng giống hệt cái nhìn của những con bồ câu.

Sợ để An-Di chờ lâu không tiện Tuấn đành phải cắt ngang cuộc gặp gỡ.

Chàng cúi chào mọi người một lần nữa, bắt tay cả mấy đứa em của Xalem rồi mới quay đi.

– Nhanh thế, dàn trận tuyến rồi cơ à.

Nghe An-Di chế riễu Tuấn chỉ mỉm cười không trả lời. Đầu óc đang bị nhiều hình ảnh, nhiều ý nghĩ quay cuồng, chưa thấy rõ ra là gì cả. Những chuyện buồn chán cũ hầu như xa lắm.

Đời chẳng có gì khó, muốn quên một kỷ niệm buồn thì cứ lìa bỏ hết từ khung cảnh cho đến cuộc sống, con người sẽ có cảm tưởng rằng mình được lột xác. Mới hôm qua mỗi khi nhớ đến Phượng, Tuấn còn có ý nghĩ khinh ghét tất cả đàn bà, nhất là đàn bà đẹp. Hôm nay những ý nghĩ ấy đã tiêu tan đi đâu mất. Hầu như Phượng chưa bao giờ đặt chân vào cuộc đời của mình, hay Tuấn phút này là một Tuấn khác chăng.

Hết nhìn bên trái lại sang bên phải, cái gì cũng gợi lòng tò mò trên đường từ sân bay về đến phố.

Những lời giảng nghĩa của An-Di chỉ lọt vào Tuấn có một nửa, còn nửa tai kia đang bị những tiếng động khác những hình ảnh khác chen lấn, xô đẩy nhau vào chiếm chỗ đứng trong đầu óc của Tuấn.

Trước khi lên máy bay, Tuấn chỉ cầu cho có người đến đón, bây giờ Tuấn lại tiếc, nếu An-Di đừng đến thì Tuấn phải tự tìm tòi lo lắng lấy chắc còn thú vị hơn nhiều. Tuấn sẽ theo xe ca về cùng với đám hành khách. Hoặc biết đâu Xalem sẽ đưa chàng về cùng với cả nhà thích biết mấy. Tuấn vốn ghét những ý nghĩ vạch sẵn của người đến trước, nhất là với hoàn cảnh chiến tranh hiện tại. Các ông chân đen sợ mất cơ nghiệp tài sản nên làm đủ cách để dìm hết những phần tốt đẹp của một dân tộc, những gì mà người yêu thích sự công bằng muốn tìm biết.

– Từ độ có chiến tranh, người Ả-rập và người Pháp không gần nhau nữa.

An-Di nói như đoán hiểu những ý nghĩ thầm kín của Tuấn.

– Rồi anh sẽ thấy, người Pháp bên này khác hẳn với người Pháp ở Paris.

– Tôi đã nghe nói đến các ông chân đen ấy rất nhiều, họ chê bai người Ả-rập, nhưng lỗi tại họ chứ, với cái lối cai trị ăn hiếp người ta như thế bố ai ngửi được.

– Trước kia tôi cũng nghĩ như anh, nhưng phải ở lâu mới thấy.

– Nhưng tại sao lại gọi là chân đen nhỉ? – Tuấn lơ đãng hỏi.

– Có nhiều lý do không biết lý do nào đúng. Người thì bảo vì ban đầu người Ả-rập thấy người Pháp mang giày đen ở chân. Có người lại bảo vì xưa kia dân Maroc đi chân bẩn nên đen, người Ả-rập đổ cho những người sinh trưởng bên nầy là chân đen. Lý do nào cũng vô nghĩa cả. Có lẽ lý do thứ nhất nghe còn dễ hiểu. Bây giờ thì tất cả những người Pháp sinh trưởng bên nầy đều cũng tự xưng minh là chân đen.

An-Di nói xong, rút thuốc lá trong túi mời bạn hút

– Người ta bảo bên nầy thuốc lá rẻ lắm, phải không anh.

– Đúng, tha hồ hút.

– Thích nhỉ thế thì ngày nào Algerie độc lập chắc tôi phải xin vào dân Ả-rập ở lại hút thuốc lá mới được.

– Anh tin rằng có sự ấy sao?

– Sự gì cơ?

– Algérie sẽ độc lập.

– Ơ hay vô lý chưa, sao lại không tin. Bây giờ đâu phải như hồi trước, chính sách thuộc địa không thể tồn tại được nữa rồi.

– Anh tin mà còn dám qua à, lạ nhỉ. Chúng tôi thì không tin như thế. Algérie đâu phải là một nước như Maroc? Algérie là của người Pháp lập nên, không có lý do gì mà bây giờ mình làm trâu cho chúng nó cưỡi như thế. Anh không học địa đư sao, từ thuở bé chúng ta đã học rằng Algérie là một quận cai trị của nước pháp cũng như Alsace cũng như Loraine hay như một quận nào khác. Vô lý nếu bây giờ lại đem cắt chia ra.

– Nếu ai không rời được xứ ấy thì cứ việc vào dân như tôi chẳng hạn, xin vào dân Algérie để hút thuốc…

Câu nói đùa làm bực mình An-Di, thằng cha nầy còn phải huấn luyện nhiều An-Di nghĩ bụng như thế. Chàng chỉ im lặng không nói gì thêm. Tuấn biết vậy mà vẫn lờ đi, lòng Tuấn đang rộn ràng như đứa trẻ đón ngày lễ Giáng sinh, đợi bao nhiêu quà đẹp. Đã quà thì quà gì cùng đẹp, Tuấn nghĩ thế.

Hôm qua giờ nầy Tuấn còn đi dạo ở bờ sông Seine nói chuyện với mấy người bán sách ở hai bên bờ. Hôm nay đã cách nhau hằng mấy nghìn cây số với một bờ bể. Tuấn nói một mình: Hai tiếng đồng hồ caravelle với ba chục nghìn quan.

Từ thuở bé Tuấn vẫn thèm đi du lịch nhưng chưa có dịp nào ; lúc đủ tiền thì thiếu thì giờ, lúc rỗi rãi thì tiền chẳng có. Mãi đến bây giờ nhận việc ở công ty bảo hiểm nầy mới được rời quê hương.

Cuộc đi hôm nay cũng do ở Phượng tạo nên, làm như tất cả đàn ông đều bị đàn bà chi phối. Nếu Phượng không đòi ly dị thì chưa biết đến bao giờ Tuấn mới rời Paris, rời căn nhà nhỏ bé ấy.

Vì hoàn cảnh chiến tranh nên các bạn khác đều từ chối, ai cùng sợ xảy ra chuyện gì không chạy kịp, hoặc có chạy cũng mất mát nhiều.

Kinh nghiệm ở các xứ cựu thuộc địa khác cho họ biết.

Nhờ thế mới đến phần Tuấn.

*

Ngồi trên xe Xalem không ngừng kể chuyện Paris cho cha và các em nghe. Một năm nay vắng nhà, bây giờ mới trở lại quê hương. Cha mẹ Xalem đã nhắm cho ông con trai một cô vợ mà theo lời thư thì: “ Tao biết chắc rằng mầy không thể chê vào đâu được”. Xalem vẫn muốn tự chọn vợ cho mình nhưng cha mẹ nhất định không bằng lòng, sợ chàng đi rước về một cô nàng khác đạo, khác xứ thì tìm sao cho ra hạnh phúc, vì thế các cụ đã dành làm cái công việc khó khăn ấy.

Với phong tục Ả-rập là một chuyện rất thường, nhưng các bạn Xalem ở Paris khi nghe bảo vợ Xalem đã được chọn sẵn, đứa nào cũng hét lên đòi đi biểu tình phản kháng.

Paris làm thay đổi tất cả mọi người. Năm ngoái lúc Xalem về nghỉ hè, cha chàng đã nhận thấy những triệu chứng không lành, vì thế học chưa xong nhưng cha mẹ cũng bắt về cưới vợ đã.

Thằng con trai láo quá, dám cãi lại với bố rằng Mohamed ăn bằng năm ngón tay, tôi ăn bằng cái thìa cái nĩa. Mohamed cưỡi lạc đà, tôi cưỡi xe bình bịch. Mỗi thời, mỗi thế kỷ mỗi khác, sống ở thời buổi nầy mà cái gì cha cũng bắt tôi làm cho giống Mohamed sao được.

Người cha không hề mắng lại một lời, nhưng trong thâm tâm của ông già sùng đạo ấy đang buồn rầu biết rằng ánh sáng đô thành chỉ chiếu bậy bạ vào lòng người mà thôi.

Càng nhìn thấy những tiến triển của sự văn minh trên thế giới, ông Kheda càng phục những người Mazabit lúc tìm đến vùng núi non hiểm trở ở sa mạc để giữ gìn đạo, phục vụ đạo. Ở đấy con người đã chịu chung một quy luật, cấm nghe nhạc, cấm đàn hát, cấm tìm hiểu tin tức thời sự, tất cả những gì có thể làm lung lay nguồn gốc linh thiêng của đạo, làm cho tâm người chỉ biết lo ra. Đáng kính trọng biết bao nhiêu, chỉ tiếc rằng, dân chúng vì sự sống mà bắt buộc càng ngày càng xa đạo.

Cũng vì thế nên năm nay ông cụ phải viết thư dục con trai về gấp mặc dầu Xalem đã nài nỉ xin ở lại thêm một tháng sau khi nghỉ hè để đi xem các nơi. Người Ả-rập mà không biết nhớ ánh mặt trời thì thật là đồ vong quốc. Paris quanh năm chẳng có nắng, ngày nào cũng xám xịt giống ngày nào. Mùa hạ không khác mùa đông, hễ động có tí nắng thì cả thành phố mấy triệu dân kéo nhau ra ngồi chật đường chật sá. Sống như thế làm sao mà tâm trí rộng rãi, làm sao cho con người có thể thanh thoát để suy nghĩ đến chuyện đạo đức, trau dồi phần linh hồn.

– Người bạn mày quen ở Paris đấy à?

– Không con mới quen trên máy bay, nhưng anh ấy rất đứng đắn, thật thà không giống như mấy người lính nhảy dù với mấy ông khọm chân đen.

– Mầy thì ai mà chẳng đứng đắn thật thà. Đến bao giờ cho chúng băm mày ra chúng ăn tươi nuốt sống lúc ấy mầy mới hết cho là đứng đắn thật thà.

Từ khi lên xe đến giờ Leila vẫn ngồi im, lắng nghe cha và anh nói chuyện, trí não đang suy nghĩ vẩn vơ. Câu nói của cha như làm nàng thức dậy.

– Cha hay nghi ngờ như thế chỉ tự làm khổ lấy mình.

Nói xong Leila mới thấy mình quá bạo đạn, nàng hơi lo biết đâu cha có thể nghĩ rằng nàng bênh vực cho người lạ ban nãy tuy trong lòng Leila rất đồng ý với anh. Người bạn của anh vừa giới thiệu ấy, không những chỉ đứng đắn thật thà mà còn có vẻ hào hoa phong nhã. Chàng không khinh khỉnh như mấy ông Tây thực dân sống lâu năm bên nầy, chàng cũng không có vẻ sàm sỡ mất dạy của mấy ông lính nhảy dù đi nhan nhản ngoài đường phố.

Những ông lính nhảy dù mà hình ảnh được tô vẽ, dán đầy khắp các công sở với những lời kêu gọi rất đặc biệt:

Mầy là đứa thích gái đẹp

Mầy là đứa thích có tiền

Mầy là đứa thích đánh nhau

Hãy gia nhập vào đội quân nhảy dù thuộc địa!

Mà để làm gì, hay chỉ để tiêu diệt cho hết những cái mầm yêu chuộng sự tự do bình đẳng trong lòng người. Để làm gì hay chỉ để giữ gìn thuộc địa cho các ông tư bản để họ được mỗi ngày một tư bản thêm.

Ngày còn ở miền nam, quê hương, Leila bé quá, chưa hiểu gì. Vả lại hồi ấy chưa có chiến tranh. Người Ả-rập đối với người Pháp chỉ biết kính sợ và lạnh lùng chứ không căm thù như hiện tại.

Kể cũng lạ, mới có tháng trước tháng sau là cái hố đã lan rộng làm chia cách hai dân tộc. Lạ hơn nữa là có những kẻ vẫn sống chung đụng với nhau trong cuộc sống hằng ngày, đang tử tế vui vẻ mà rồi có gì làm thay đổi nhanh chóng. Leila nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu lý do vì sao.

Từ độ chiến tranh vùng nàng ở hay có những cuộc bố ráp nên cả họ nhà nàng phải dọn lên Alger. Cha nàng vẫn tiếp tục nghề buôn trái «đát».

Xe vừa ngừng, Leila mở cửa bước xuống đường rồi cứ thế chạy ngay lên gác, không chờ ai, mặc những cái nhìn ngơ ngác của mấy người bà con láng giềng, tản cư ở cùng một ngôi nhà, đang ngồi rải rác hai bên thang gác. Nàng chỉ gật đầu rất vội vàng mỗi khi có ai chặn hỏi thăm Xalem đã về chưa. Một thằng cháu nhỏ nằm ngay giữa lối đi đưa cả cái bụng với nửa thân thể trần truồng ra làm Leila suýt vấp ngã vì bị tấm áo khoác vướng chân.

– Thằng Ahamed có chịu để cho dì đi không?

Thằng bé nhất định níu áo Leila không cho nàng bước. Thường ngày Leila hay chơi với nó, lần này nó tưởng Leila cũng sẽ quỳ xuống cù vào lưng nó bắt nó cười vang cả ngôi nhà lớn. Thằng bé không ngờ rằng hôm nay dì Leila đang muốn trốn tất cả mọi người, để làm gì chính nàng cũng không biết.

Vào đến phòng riêng Leila khóa chặt hai vòng cửa sau khi cởi bỏ đôi dép ở chân.

Hơi lạnh của sàn đá hoa chuyền từ chân lên đến thân mình, tuy bên ngoài còn nắng nhưng trong lòng nàng vẫn mát mẻ vì không ở vào hướng mặt trời chiều.

Kiến trúc của một ngôi nhà Ả-rập cổ bao giờ cũng có cái sân vuông rộng ở chính giữa. Chung quanh sân, mấy từng nhà bao bọc, mỗi từng chia ra nhiều phòng. Ở dưới còn có giếng nước, có hầm chứa củi. Tất cả đều kín đáo, để cho các bà khỏi phải bước chân ra ngoài, khỏi bị ai dòm ngó.

Ngôi nhà xây từ bảy tám trăm năm về trước, nghe bảo rằng đây là nhà của một vị đại phú ông Thổ-Nhĩ- Kỳ. Hẳn phú ông có rất nhiều vợ nên nhà mới chia ra lắm phần như thế. Phòng nào cũng bưng bít, kín đáo, lại còn mấy gian phòng hầm bí mật để trừng trị những kẻ có tội, những nàng hầu lẳng lơ. Phải nhìn vào hoành đồ mới biết, chứ ngoài trông vào chỉ thấy như một bức tường bình thường. Nhìn kỹ lắm mới thấy có một cửa vuông để một người thu hình bước vào được, bên cạnh còn một lỗ cửa nhỏ để đưa thức ăn, bên trong tối như âm phủ. Tội nhân nào vô phúc bị bỏ quên thì chỉ có đợi chết, kêu gào cũng chẳng ai nghe.

Hơi mát từ chân lên đã làm dịu bớt những gì đang hừng hực trong lòng. Đứng trước gương, Leila cởi dần từng cái, trước nhất là cái mạng che mặt có thêu những chấm hoa nhỏ, sau đấy là cả tấm lụa dài bao quanh người trùm qua đầu. Nàng chỉ còn mặc một chiếc quần xếp túm ở bên dưới hai ống chân và một chiếc áo cánh hở tay hở cổ.

Từ độ thôi học, cha mẹ Leila muốn con gái phải trở về với bộ áo thuần túy của người đàn bà Ả-rập. Cái mạng che mặt là cái duyên của người đàn bà, mẹ nàng bảo thế. Nhan sắc cần phải tìm tòi suy nghĩ, mới là quý chứ nhìn vào là thấy ngay thì còn quý giá gì nữa. Nhất là từ hôm mười ba tháng năm, mấy ông thực dân làm lễ đốt mạng che mặt và tuyên truyền rằng người đàn bà Ả-rập tự ý muốn thế, hai dân tộc gần gũi nhau, láo cả. Vì vậy mà Leila có muốn cởi mạng che mặt bây giờ cũng không dám cởi. Mọi người sẽ tưởng rằng nàng muốn đi với chính phủ bù nhìn ấy.

Biết rằng mặc như nàng là không văn minh nhưng Leila cũng chẳng cần, có cái gì là do tự trong lòng chứ đâu có do ở sự định đoạt bên ngoài. Bao nhiêu người chẳng bảo rằng Leila mặc như thế nầy làm nổi đôi mắt hơn đấy sao.

Ngắm nghía trước gương một hồi lâu, Leila biết rằng mình không xấu. các bà con đều ganh với cái nhan sắc của Leila, vì thế mà nàng không có bạn. Leila bỗng nhớ đến người Pháp ban nãy. Tuấn đã nghĩ gì về nàng, giá có ai bảo cho nàng biết chắc nàng sẽ thích lắm. Nhớ đến cái chào lễ phép của Tuấn, toàn thân Leila lại như bị bỏng. Vì sao, Leila không thể hiểu được. Leila mỉm cười, mặc lại quần áo như ban nãy, tưởng tượng như Tuấn đang đứng trước mặt mình, đang cúi chào mình.

– Chết thật.

Leila nói lên, thì ra từ nãy đến giờ nàng đã quá táo bạo? Xấu hổ, người thiếu nữ giật hết cả mạng che mặt, cả tấm lụa quàng rồi nằm vật xuống tấm nệm chỗ nàng vẫn ngủ.

Nếu cha mẹ biết được những ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu óc cô gái chắc thế nào cha cũng đuổi về quê, còn mẹ sẽ vội vàng nhận lời bất cứ một đám họ hàng nào cho xong.

Leila lo sợ tưởng như cha mẹ đã biết cả rồi. Tí nữa Leila sẽ giả lời thế nào, làm sao nhìn mặt mẹ. Còn cha, làm sao đây? Cha nàng luôn luôn giảng về sự trinh tiết của người con gái không phải chỉ ở phần vật chất mà ở cả tinh thần nữa. Đối với cụ khi người đàn bà về với chồng mà trong đầu óc đã có lần nghĩ đến một người đàn ông khác cũng xem như là mất nửa phần trinh. Giá trị người đàn bà ấy cũng chỉ còn một phần nửa. Vì thế lấy vợ chỉ nên lấy trong họ hàng bà con, mình đã biết nguồn gốc gia đình nhà nó. Chưa đủ, cụ còn dặn hãy coi chừng những cô gái trên hai mươi tuổi, dầu cho họ chưa gặp một người đàn ông nào ở phần vật chất, nhưng phần tinh thần thì có mà chạy đi đằng trời. Nếu có lỡ cưới về thì họ có thề thốt đến mấy cũng đừng tin.

Phút nầy Leila đành chịu nhận lời nói của cha là đúng. Từ mười tám năm nay tâm trí nàng chưa bị một hình ảnh nào làm bận rộn, bỗng hôm nay, trong quãng thời gian có vài phút mà Leila có cảm tưởng như mình không phải là cô gái ban sáng, trước lúc lên đón anh ở sân bay.

– Vô lý.

Người thiếu nữ lại nói lên, đã có gì đâu, nàng vẫn còn trong trắng, người Pháp chỉ là một hình bóng thoáng qua. Có lẽ chàng không hề nghĩ đến Leila, và người thiếu nữ tức giận tự trách mình là đồ vong quốc. Dân tộc Pháp hiện đang là kẻ thù của dân tộc Ả-rập. Mỗi ngày cha Leila không quên nhắc cho các con nhớ rằng, người dân quê Algérie từ trước không có lấy một tấc đất. Cái gì cũng dành cho người Pháp, người Ý, người Y pha nho, người Do Thái. Có ngày nào không nghe đài phát nói những tin tức bắn giết, tra tấn?

Thế mà trong một phút Leila nỡ rời bỏ quê hương đồng bào, cho phép hình ảnh một kẻ thù không quen biết đến tự do xâm chiếm tâm hồn minh. Theo như lời cha thì Leila không còn trinh một trăm phần trăm nữa rồi. Lỗi tại Xalem, ai bảo Xalem làm quen với người Pháp ấy. Họ là dân tộc Pháp mặc họ, mình có bạn bè bà con của mình tại sao lại tìm đến họ.

Những lý luận rất trẻ con ấy không ngừng nhảy nhót trong đầu óc cô thiếu nữ ngây thơ. Nếu chẳng có mùi thịt cừu nướng thơm phức từ gian bếp đưa lên, xông khắp cả mấy phòng, kéo giật Leila trở về với thực tại thì chẳng biết nàng còn mơ mộng đến bao giờ.

– Leila à.

Nghe tiếng mẹ gọi từ bếp vọng lên, Leila sung sướng được thoát khỏi những lời trách mắng của lương tâm, tuy vậy nàng chưa trả lời vội. Người thiếu nữ vẫn nằm nhìn bóng mình trong gương, vẫn muốn tìm biết người Pháp ấy đã nghĩ gì về mình.

– Leila làm gì trên phòng mà không xuống giúp mẹ nấu ăn.

Lần này giọng mẹ mới đủ sức kéo được Leila dậy. Nàng chậm rãi đứng lên, bước ra khỏi phòng. Hình ảnh người Pháp cứ hiện ra trước mắt với mái tóc bềnh bồng, với nụ cười chân thành với cái chào lễ phép.

Chưa bao giờ có người đàn ông nào cúi chào nàng lịch sự và dễ thương như thế. Ngay cả đến những người đàn ông Ả-rập.

Leila ít có dịp ra khỏi nhà hoặc có đi đâu thì như hôm nay, nào cha, nào em vây lấy chung quanh như lính đi gác tù chính trị. Một vài người họ hàng mà Leila hay gặp thì không bao giờ câu chuyện ra ngoài những lời thăm hỏi vẩn vơ rồi thôi.

Đêm nào mẹ cũng lải nhải về sự nhà có con gái lớn như có chất nổ, phải lo canh phòng cẩn thận. Cha nàng tuy không dọa thẳng nhưng ông cụ vẫn nhắc luôn rằng, nếu trời đất phải làm cha của một đứa con gái hư thì cụ sẽ không ngần ngại gì mà không nhờ con dao trừng trị hộ.

Nghe cha nói Leila rùng mình tưởng như có con dao đang kề sát gáy. Cả cha mẹ họ hàng nhà nàng đều quên rằng mỗi thế hệ mỗi khác, và không nên đè nén quá, cái gì cũng thế.

Xuống hết thang gác Leila gặp anh đang từ dưới đi lên, cô em gái mỉm cười nhìn anh, nụ cười nói nhiều, không biết anh nàng có hiểu.

– Làm gì trên phòng để mẹ gọi mãi.

– Mẹ gọi cả ngày, còn sớm đã ăn đâu mà dọn, ở trong phòng một lúc là mẹ gọi, mẹ sợ mà chẳng biết mẹ sợ gì.

Giọng Leila hơi bực tức. Xalem đứng ngắm em từ đầu xuống chân. Mẹ nàng sợ là phải, Leila mà ở Paris thì tha hồ bị các ông thanh niên chạy theo. Sực nhớ đến cái nhìn sáng ngời trong đôi mắt của Tuấn ban nãy khi gặp em gái mình. Cái nhìn làm Xalem kiêu hãnh lạ. Có em gái đẹp người anh nào không kiêu hãnh.

Cũng có những gia-đình Ả-rập sang Pháp nhưng các cô các bà chẳng ai được bằng em gái của Xalem. Nhan sắc Leila mà được nẩy nở ở Paris thì còn tăng thêm nhiều. Định nói ý nghĩ ấy với em nhưng lại thôi, người anh chỉ sợ em gái còn trẻ, chưa nên gieo vào đầu óc những ý nghĩ quá văn minh chăng.

– Mẹ sợ là phải.

Nghe anh nói, Leila cau mặt, không ngờ anh mà cũng cổ lỗ như vậy, nàng muốn cãi, ai nói thế thì được, nhưng Xalem là một người trai văn minh tiến bộ, được sang Pháp học để ngày về cải cách lại quê hương, Xalem không có quyền giữ những ý nghĩ hủ bại ấy.

– Anh bảo « phải» là thế nào, em ngồi một mình em có thể đọc sách em có thể khâu vá chứ em có đi chơi đâu. Mẹ bảo ngồi một mình hay nghĩ vơ vẩn. Nghĩ mà cũng bị cấm.

Xalem nghe giọng em nức nở chàng thấy tội nghiệp định tìm lời xin lỗi, nhưng Leila đã tiếp:

– Anh là con trai, anh được đi chỗ này chỗ kia, được ăn được học. Anh làm sao hiểu những nỗi khổ của tụi con gái chúng em trong lúc này. Thế rồi người ta có cai trị, có cho rằng dân tộc mình còn sơ khai, chưa đáng được độc lập thì đừng có trách.

Xalem ngơ ngác nhìn em, không ngờ cô gái mới hai năm về trước còn thơ ngây chưa biết qua một tí gì mà bây giờ toàn nói những giọng cách mệnh, hệt như các cô thiếu nữ công chức tân tiến.

– Thôi anh xin lỗi.

Leila còn chưa hết giận, nàng như đoán hiểu ý anh:

– Anh sẽ bảo sao em đổi khác, cái gì mà chẳng đổi khác, vô lý nhất là có những người cứ bám chặt lấy những thành kiến cũ, những ý nghĩ cũ, đi tìm cho được cái hình ảnh cũ, nhân vật cũ. Em bây giờ với em ngày trước không giống nhau, cố nhiên, mỗi ngày qua đem lại cho con người bao nhiêu ánh sáng mới,

– Anh xin lỗi, anh xin lỗi.

Xalem không biết nói gì hơn, chàng cảm thấy xấu hổ với những ý nghĩ không tiến của mình, nhưng Xalem tự hỏi ai đã hướng dẫn em mình đến ngõ ấy.

Nhìn theo bước chân của em, đôi bàn chân thường đi đất trong nhà nhưng không sần sùi thô kệch như người đàn bà khác. Đợi cho em đi khuất hẳn Xatem mới chậm rãi bước lên sân thượng. Đứng trên nầy có thể phóng tầm mắt ra tận xa, vì ngôi nhà nầy cao nhất, không những chỉ nhìn bao quát được hết các sân thượng khác mà những buổi đẹp nắng lại còn trông rõ những cánh buồm của người đánh cá ở tận ngoài.

Chiều rực nắng, Xalem đứng tì tay nhìn trời nhìn những màu quần áo phấp phới bay ở trên giây thép căng ngang dọc khắp mấy cái sân thượng. Tâm hồn chàng trai đang vương vấn nhớ Paris.

Từ nãy mải vui vì được gặp cha mẹ và các em, Xalem quên hẳn cả màu nước da nâu gụ giả tạo của Mễ Nương, màu tóc bạch kim của Lệ Lan, những tấm thân tròn trĩnh ngon lành của các cô gái đứng ở đường Saint Denis. Năm nay Xalem biết trước thế nào cũng bị bắt về cưới vợ nên chàng đã lợi dụng quãng thời gian ở Paris để tận hưởng cho biết những gì mà quê hương ngăn cấm vì tôn giáo, vì chiến tranh và một phần lớn nhất là vì cuộc sống giả dối của mỗi người, thèm khát mà không dám nói ra.

Quanh năm chưa ai thấy Xalem mồ côi người đẹp. Chàng có một kỹ thuật tán tỉnh rất tài tình mà các bạn đều chịu thua. Ít khi Xalem phải tốn trên ba chén cà-phê, cô nào khó khăn lắm mới đến ba chén, trung bình thì chỉ độ hai chén có bận chưa có chén nào mà đối phương đã xin đầu hàng không điều kiện.

Một hôm các bạn rủ nhau họp lại đông đủ mời Xalem đến khóa cửa phòng bắt Xalem phải trình bày những phương pháp của mình. Xalem không thể từ chối thế là chàng trai đành phải khiêm nhường khai ra tất cả.

Xalem bảo rằng, gặp người đàn bà thì trước nhất là phải nhìn xem họ ở vào hạng nào. Nếu thấy họ có chồng con đầy đủ, ra vẻ hạnh phúc sung sướng thì nên rút lui ngay, đừng dại nhào đến mất thì giờ vô ích. Không bao giờ tỏ vẻ cần đến họ. Lúc nào cũng phải ăn mặc đứng đắn lịch sự, các bà sẽ có cảm tưởng rằng người thanh niên đứng trước mặt mình là hạng người đứng đắn chứ chẳng phải quân bất lương. Dầu trong túi chỉ có mười quan không đủ mua một gói thuốc lá nhưng cổ áo sơ mi bao giờ cũng phải trắng, phải sạch như ở tiệm giặt vừa lấy về. Một bí quyết nữa riêng cho người Ả-rập là đừng có lộ cái chân tướng ghen của mình ra. Các anh đừng dại, đàn bà Ả-rập thích được chồng ghen là vì suốt đời họ còn biết gì ngoài chồng với con, được chồng ghen tức là được chồng chú ý đến. Đàn bà các nước khác quen sống trong sự tự do, chưa gì mà các anh đã đưa cái giọng ghen ra tra vặn: « cô mà lấy tôi thì phải ở luôn trong nhà, có đi đâu thì mẹ tôi sẽ đến đưa đi» thế thì bố cô cũng chẳng dám chứ đừng chờ đến cô.

Một bí quyết cuối cùng là nếu thấy họ có vẻ ham muốn được một tấm chồng thì mình cũng đóng vai cô đơn đang cần nâng khăn sửa túi. Gặp cô nào trí thức hay tưởng mình trí thức thì cứ việc trọng vọng họ, làm như mình đang được cái hân hạnh ngồi uống cà phê với bà Curie, dẫu cho câu chuyện của họ không ngoài sự khoe anh, khoe em, khoe bàn ghế, nhà cửa. Nếu họ có lớn tuổi, thuộc loại gái già thì phải xem họ như một em bé, khen họ có cái nhìn của con búp bế hay bảo họ có giọng nói giống trẻ con học trường mẫu giáo. Lắm khi thật như thế, vì là gái già nên ngày đêm chỉ có một việc nghiên cứu vai trò ngây thơ của mình, vì vậy mà họ đóng vai trẻ ấy rất hay, giống hệt mấy cô bé lên năm lên bảy.

– Thế nếu gặp một cô bé thật thì sao.

– Khoan hẳn – Xalem nháy mắt nhìn một ông bạn, ông nầy đang nóng ruột vì hoàn cảnh hiện tại của ông ấy là vừa câu được một cô bé chưa đầy mười sáu tuổi.

Nếu gặp một cô bé thì dẫu cho trong lòng mình có nơm nớp sợ ngộ nhỡ có chuyện gì bị tòa bắt tù vì can tội dụ dỗ gái vị thành niên, ngoài mặt mình phải điềm tĩnh mời họ hút thuốc, uống rượu. Phải xem như họ là một người đàn bà từng trải, hiểu biết chuyện đời không ai bằng. Phải hỏi ý kiến họ về một kiểu giày, một mẫu cà-vạt tuy rằng đừng nên theo, vì họ đã biết gì đâu. Tất cả những sự ấy, các anh phải làm cho chân thật, đừng có vẻ thành thạo quá của những con chồn già, đừng có thuộc vai tuồng mình như ông kép hát phải ra sân khấu mỗi đêm, và cũng đừng ngờ nghệch vừa nói vừa liếc vào giấy như ông nghị lần đầu tiên ra đọc diễn văn trước mặt công chúng. Nghệ thuật là ở cả đấy, các anh tự liệu lấy.

– Thế ngộ nhỡ mình gặp được một bà Curie thật thì sao.

– Anh đừng lo, bà Curie thật đang bận túi bụi trong phòng thí nghiệm đâu đến phần mình, vả lại bà Curie thật thì đã có ông Curie.

Các bạn cười vang lên, rất bằng lòng cái bản thuyết trình của Xalem. Ông nào cũng muốn chạy vội ra quán cà-phê ở mấy con đường Saint Germain hay Saint Michel để thực hành những lời giáo huấn quý hóa ấy.

Còn một điểm nữa, khá quan trọng tuy Xalem không nói ra nhưng các bạn đều phải thầm công nhận là Xalem rất đẹp giai, vẻ đẹp của thời đại. Đố cô gái nào nhìn mà không cảm động. Người Xalem cao lớn, mầu da rám hồng chứ không tái xanh của tất cả những người dân Algérie khác. Chàng trai lại ăn nói hoạt bát, nụ cười ngạo mạn, nhất là đôi mắt. Nếu đôi mắt của người đàn bà có giá trị bao nhiêu thì người đàn ông cũng thế, người đàn bà còn cần đến những phấn son giả tạo để tô điểm cho nhan sắc, người đàn ông không cần phải vậy. Khi họ đã có đôi mắt đẹp là tha hồ họ thôi miên mọi người.

*

Xalem băn khoăn chưa biết rồi cô vợ tương lai của mình sẽ ra thế nào? Trong thư cha chàng đã không ngớt ca tụng, nhưng quan niệm của cha mẹ với của con đời bây giờ đâu phải như trước. Kể thì cưới vợ trong bà con cũng tiện, hai bên gia đình đã rõ tông tích nhau, không ai có gì phải dấu diếm ai. Tôi có bệnh gì thuở bé, cô có bao nhiêu hồi môn…

Năm ngoái mẹ Xalem muốn nhắm cho con một cô vợ ở Kabyl nhưng vì chiến tranh sợ bị làm khó dễ. Hoàn cảnh một người bạn đã bắt mẹ Xalem phải rút lui ý định làm sui gia với gia đình Kabyl ấy. Người bạn Xalem từ khi ở nhà cưới vợ vắng mặt cho đến bây giờ đã gần một năm mà chạy xin giấy tờ chưa xong nên hai người vẫn chưa gặp nhau. Đi khắp các cửa, chỉ thiếu cửa của Tổng thống nước Pháp.

Trời bắt đầu nhạt mầu, buổi chiều ở Alger là lúc đáng sống nhất.

Xalem bỗng sực nhớ đến Zora cô em họ mà trước khi đi Pháp lòng chàng đã có lần thổn thức.

Một đêm ramadan, họ hàng họp nhau lại để ăn uống thức đêm cầu nguyện. Chỉ có đêm ấy người lớn mới cho phép tụi trẻ được thức ngồi nói chuyện với nhau đến khuya. Thường lệ không được tự do như thế, nhưng mùa chay, nghĩ rằng mọi người đều phải tinh khiết để cầu nguyện nên đêm ấy họ hàng con trai, con gái không phải bị cha mẹ gọi đi ngủ sớm. Thường lệ các cô gái vào nằm với mẹ, các cậu trai phải ra ngủ tuốt ngoài sân. Ngồi bên nhau đến khuya, nhân nói đến buổi chiều ở Alger, Xalem đang đọc sách bỗng để ý lắng nghe một giọng nói rất dễ thương: Nếu năm tháng chỉ làm toàn bằng những buổi chiều thì mọi người đều thành thi sĩ và chiến tranh sẽ không có lý do gì mà tồn tại nữa.

Thằng em bé nghe chị nói đã giả lời đánh đốp lại ngay.

– Chị Zora bảo thế chứ em thấy buổi chiều chán chết, muỗi đầy ra chứ có lợi gì đâu, lại mất công thắp đèn.

Mọi người cười ầm lên, chỉ có Xalem là không cười, chàng bắt đầu chú ý cô em họ từ buổi ấy.

Nhưng Paris, Paris đã làm xáo trộn tất cả. Từ khi rời khỏi gia đình, Xalem mới có thể bảo rằng đã khôn hơn, đã biết so sánh đối chiếu những sự kiện xảy ra chung quanh mình. Điểm lớn nhất là tôn giáo. Chàng trai không còn thấy mình bị ràng buộc trong những khuôn khổ chật hẹp gò bó của thành kiến của tôn giáo như từ trước đến nay.

Tuy chưa đến độ ăn thịt heo tóp tép như những đồng bào xa quê hương lâu năm khác, nhưng chàng có thể ăn thịt cừu mua bất cứ trong một hiệu bán thịt nào tại Paris. Ăn mà không thắc mắc với những câu hỏi, con cừu nầy ai giết, giết bằng cách nào, trước khi giết người ta có đọc kinh cho nó không, lưỡi dao đâm có đúng như lưỡi dao để giết cừu không?

Đối với đàn bà, chàng đã bớt cái chứng ghen di truyền của ông cha để lại. Xalem không còn cho cái màng trinh của người con gái là một cái gì quan trọng nhất trong đời. Chàng lại còn thương hại các ông bạn tuy đã đi du học nước nầy nước khác, đậu bằng cấp nầy bằng cấp nọ mà trong đầu óc vẫn còn giữ lại tất cả những ý nghĩ thô sơ, chật hẹp. Những quy luật mà xưa kia loài người đặt ra để kiềm chế nhau vì tư tưởng chưa được thấm nhuần những triết lý cao xa hơn.

Xalem muốn rằng mình sẽ là một trong những cán bộ tiền phong có bổn phận phải giữ gìn tất cả những cái gì thuần túy đáng giữ, nhưng cái phần man rợ không còn hợp với thời đại với sự tiến triển của cuộc sống văn minh thì hãy nên dẹp bớt đi. Đừng bắt con người phải tự xiềng xích mình trong những sợi xích nặng nề của tôn giáo, của thành kiến.

Xalem hay lấy một thí dụ nhỏ kể cho các bạn nghe khi nói đến những ý nghĩ cấp tiến của mình, thí dụ cái anh chàng sinh viên y khoa Ả-rập cưới một cô vợ Đức, sống chưa đến hai năm cô vợ đang mang thai mà phải tự tử chết vì không chịu nổi sự ghen tuông của ông chồng. Ghen mà còn dọa dẫm, cô bỏ tôi thì tôi sẽ giết cô, đừng mong trốn đi đâu được. Thế là cô vợ không còn chỗ trốn nào hơn là chỗ chết.

Xalem cho đấy là một sự dã man vô cùng, không thương người ta thì thôi, hoặc là biết người ta không thương mình thì cũng thôi chứ sao lại dọa dẫm như thế. Cố nhiên là ông bạn đã nói dối rằng vợ chết vì tai nạn, sự thực chỉ là tai nạn ghen.

Tuy tôn giáo cho phép người trai Ả-rập có quyền cưới nhiều vợ miễn là phải chia tình yêu cho đều, bà nầy cái áo thì bà kia cũng phải có một cái áo giống như thế. Với thời đại hiện tại, thật là nguy vì tiền đâu mà nuôi nổi. Theo cuộc sống phương Âu, Xalem vẫn muốn rằng vợ mình phải vừa là một người bạn của mình nữa chứ không phải chỉ theo như câu kinh: « Vợ anh là đám ruộng của anh, anh muốn đến thăm lúc nào thì đến ». Như thế chưa phải là hạnh phúc..

*

Trời tối dần, mùi hương lài nhà ai đưa lại không dễ thương sao được, Paris làm gì có những mùi thơm như thế?

– Xalem đi xuống ăn.

Ahamed thò đầu lên sân thượng gọi anh rồi chạy vụt xuống ngay chứ không chờ anh cùng đi. Hẳn cậu bé đang nóng ruột đợi ăn bữa ăn ngon lành, không phải ngày nào cũng được thế.

Mừng ông con trai mới về, người mẹ đã mua những mấy đùi thịt cừu to tướng để nấu. Mùi thịt thơm không những lừng khắp gian nhà mà còn bay qua mùi những ngôi nhà láng giềng quanh đấy. Mẹ Xalem nổi tiếng là khéo léo.

Lâu lắm Xalem không được ăn món thịt cừu nhồi mướp, thịt cừu nấu mận ngọt, thứ mận khô vẫn được đóng thành hộp. Lại cái món thịt cừu nướng với hành ớt ngon đến xao xuyến gần phát điên người, em chàng, Ahamed thường bảo thế.

– Anh Xalem không kể chuyện Paris cho chúng em nghe.

Ahamed vừa nhai nhồm nhoàm vừa hỏi anh. Bây giờ cậu bé mới có thể nói chuyện, lúc nãy thì chịu, cả miệng cả mũi cả mắt đều chỉ biết có mỗi một chuyện, mấy đĩa thịt cừu.

– Paris ấy à, Paris không có thịt cừu nấu mận, món couscous ở Paris không thể nào ngon bằng của mẹ vẫn làm. Ở Paris chỉ nhớ có thế thôi.

– Tệ quá, chẳng nghe anh Xalem nói nhớ cha mẹ hay nhớ các em mà chỉ nói nhớ couscous.

Leila âu yếm cười chế riễu anh.

– Chúng bay chưa xuất ngoại nên chưa thể hiểu được, nhớ gì cũng không làm chảy nước miếng mà nhớ couscous thì thôi, từng lít.

Xalem kể luôn chuyện một ông bạn Ả-rập bị đau dạ dày, trước khi lên nằm ở bàn soi điện, người ta cho uống thuốc để dạ dày sáng ra mà nhất định cái dạ dày cứ lì lì không nghe lời, Hai, ba ông bác sĩ đi qua đi lại đợi mãi. Một ông thông minh nhất nghĩ đến gợi chuyện ăn uống với mấy ông kia: Món couscous ở đường Beaubourg nấu khác thế nào với đường Quatre Septembre. Ở đường Beaubourg couscous mịn hơn, thịt cừu mềm mà vẫn giữ được nguyên miếng chứ không nát bấy, mùi thơm bay tận métro. Vừa nghe nói đến mùi thơm của những miếng thịt cừu, cái dạ dày của bệnh nhân từ từ sáng ra.

Cả nhà cười vang. Mẹ Xalem mừng con trai bằng đôi mắt kiêu hãnh, khâm phục. Người mẹ chất phác, quê quán ở miền Nam Algérie thuộc dòng du mục, con gái của một ông cadi, chuyên coi về các việc phân xử kiện cáo. Cuộc sống của người đàn bà ấy đến bây giờ cũng không khác gì mấy với cuộc sống của một người đàn bà cách bảy trăm năm về trước.

Suốt đời chỉ biết cặm cụi nuôi con và phụng sự chồng, chưa hề thoáng một ý nghĩ rằng có thể sống khác như thế. Chưa bao giờ bà đặt chân đến một rạp hát hay rạp chiếu bóng nào mặc dầu Alger là thành phố thứ nhì của nước Pháp.

Nghe anh nói đến ông bạn Ả-rập tham ăn ấy, Abamed vội nhai nuốt ngay miếng thịt đang ăn, lấy thêm một miếng thịt cừu khác cất vào dĩa rồi mới lên tiếng:

– Để anh xem, sau này em lớn, sang Pháp học, em sẽ không như mấy ông ấy.

– Thôi đi ông tướng, mầy thì biết cái khỉ gì, chỉ nói dóc.

Thằng em đỏ mặt quắc mắt nhìn anh:

– Chứ lại không, em mà lớn thì sang Pháp học, học xong về đánh đuổi hết ba thằng Tây, ba thằng Do-thái.

– Đợi mầy lớn, mầy học rồi mới về đánh đuổi thì chúng tao đã mục hết xương.

Xalem cố nói trêu em, tuy trong lòng rất vui vì thằng bé không phải chỉ biết tham ăn như những đứa trẻ khác.

Ông Kheda từ nãy đến giờ vẫn im lặng nghe các con nói chuyện lúc nầy mới lên tiếng giảng hòa hai anh em:

– Thôi ăn đi nguội hết bây giờ, thằng Ahamed mầy có chí như vậy thì còn nói gì nữa, nhưng mầy còn bé, liệu mà giữ mồm giữ miệng, không khéo để chúng nó tóm vào nhà tù chúng nó đánh cho thì hết học chứ đừng bảo đến chuyện đuổi Tây.

Hôm nay là một ngày vui của gia đình, tuy mỗi lần nghĩ đến những người lính đang gục chết ngoài mặt trận hay những cán bộ đang can đảm chịu tra tấn trong lao tù là mỗi lần ông Kheda cảm thấy uất ức nhưng hôm nay người cha muốn cho các con cùng vui, ông già tìm cách đưa sang vấn đề khác.

– Thế nào thằng Xalem vui lòng đám ấy chứ.

– Đám nào cơ?

– Ơ hay, thế tao không bảo trong thư à.

– Cha chỉ viết rằng đã dạm vợ cho con chứ cha có nói là ai đâu.

– Chị Zora.

Ahamed đắc thắng nhìn mọi người vì mình đã giành nói trước.

– Zora à, thế thì được, cha mẹ không nói làm con cứ thắc mắc.

Leila tinh quái chất vấn anh:

– Thắc mắc sao anh không hỏi ngay từ khi xuống máy bay.

– Lúc nãy quên đi nên không thắc mắc. Bao nhiêu chuyện để hỏi để nói, về nhà gặp cha mẹ với chúng bây mừng điên luôn còn trí não đầu để nhớ những chuyện khác.

– Bây giờ anh còn là anh chúng em, anh bảo thế, chứ ngày có vợ rồi thì anh sẽ hết nghĩ đến chúng em.

– Chỉ những thằng ngốc mới để cho vợ giành chỗ của anh em, tao có ngu không?

Xalem vừa nhìn thẳng vào mắt em gái vừa nói vậy.

– Anh mầy nói phải, cha mẹ chịu khó sinh ra nhiều con là để cho anh em sau nầy giúp đỡ nhau, đùm bọc lấy nhau, đừng vì một con đàn bà mà chia rẽ nhau, xem như người xa lạ.

– Như nhà anh Kasem.

Ahamed lại giành nói, chỉ lo có ai nói mất. Chú bé mới lên mười hai nhưng đã tự xem mình là người lớn, nghe ai nói gì cũng lắng tai để rồi bình luận thêm thắt. Bao giờ cũng tìm những đứa bạn lớn hơn để chơi chứ nhất định không chịu ở nhà chơi với hai em trai nhỏ Mohamed và Mustapha, mặc dầu bị mẹ mắng nhiều lần.

– Ừ, thằng Kasem, chỉ tại con vợ nó xuất thân ở cái gia đình không ra gì, chứ vào làm dâu nhà nào là ta phải xem nhà ấy như gia đình của mình, ai đâu lại đi chia rẽ anh em người ta ra như thế.

Nghe chồng nói bà Kheda cũng tiếp lời:

– Ngày xưa lúc tao vào làm dâu nhà nầy, bà nội trói ngay chân vào bếp làm mình chưa kịp đặt con cừu ở tay và thằng Kasem cõng trên lưng xuống đất. Thế nhưng tao cảm động phát khóc khi nghĩ rằng đời mình bắt đầu từ đây có bổn phận phải gánh vác làm sao cho dòng họ Kheda được thịnh vượng, trên dưới thuận hòa.

– Ha ha anh Kasem, ngày ấy mẹ cõng trên lưng được chứ bây giờ đố mẹ đấy.

Lại vẫn chú Ahamed nhí nhảnh.

– Ừ ngày ấy nó mũm mĩm nhất đám, người ta mới chọn để làm biểu hiệu của sự sinh sản, cầu chúc cho đôi vợ chồng mới cưới chứ.

Leila cười nhìn mẹ hỏi:

– Lúc ấy cha đi đâu hở mẹ.

– Tao đâu có dám hỏi, từ khi trao cái trâm bạc cho bà mai rồi là tao trốn luôn, thẹn muốn chết, nào phải như bây giờ mà trai gái tìm cách gặp nhau để chuyện trò.

Xalem nghe mẹ nói, chợt nghĩ đến hoàn cảnh của mình, từ nay nếu không có ai làm tay trong giúp đỡ thì cũng khó có dịp gặp vị hôn thê.

Tục lệ nầy không thể tồn tại, ngày nào độc lập chàng phải đứng lên xin bỏ đi ngay, ai lại quái ác như thế, vợ chồng mà đến ngày cưới xong mới được gặp nhau. Nhưng phải đợi độc lập mới đưa những ý tưởng ấy ra chứ bây giờ mà nói thì thế nào cũng bị bà con chưởi, cho là văn minh rởm.

Xalem hơi tiếc, tại sao cha mẹ không đợi mình về rồi hãy đi hỏi như thế chàng sẽ có thì giờ tìm găp cô em họ. Nhưng không sao, Leila sẽ giúp chàng, có em gái bao giờ cũng rất ích lợi, các bạn chàng vẫn thường bảo thằng nào không có em gái là thằng ấy vụng tu đó sao.