← Quay lại trang sách

PHẦN V

Tuấn vừa tắm xong, chàng cảm thấy khỏe người một cách lạ, thiên đường chắc cũng đến thế là cùng chứ gì. Người dân ở miền Bắc cực làm sao cảm thông được những nỗi sung sướng nầy, khi từng giọt nước bắt đầu lướt lên da thịt và khi bên ngoài trời rực nắng, ánh nắng bắt mọi người phải vui tươi.

Có lẽ bảo khí hậu Algérie nóng bức và ẩm ỉu, ở lâu thế nào cũng mang chứng tê nhức, Tuấn chưa biết sau nầy ra sao chứ từ hai tháng nay, chàng trai như được lột xác. Cái xác cũ của Tuấn, chồng cô Phượng được gió cuốn đi đâu mất rồi, bây giờ Tuấn là một nhân vật khác hẳn.

Chàng còn cảm thấy mang ơn Phượng, nhờ Phượng chàng mới biết những niềm vui sống trong tâm hồn như hôm nay. May quá Phượng không giống những người đàn bà khác, hết yêu chồng, biết chồng hết yêu mình mà vẫn bám riết lấy đày đọa người chồng phải sống suốt đời trong mái ngục gia đình.

Bắt đầu làm việc ngay từ hôm mới sang, Tuấn đã quen thuộc với làn không khí trong sở lắm rồi. Chỉ có mỗi một sự làm chàng bực mình là mấy ông trưởng phòng toàn những cựu sĩ quan hưu trí. Vào sở mà cứ y như là vào đồn lính, suốt ngày hết nghe chào Đại úy lại đến thưa Thiếu tá điếc cả tai. Mấy ông chân đen rất khi rẻ người Ả-rập xem như có rác, không ngờ rằng sinh sống ở một xứ nào thì ít hay nhiều cũng phải bị ảnh hưởng. Họ đã mang sẵn trong máu những tính xấu của một thứ dân tộc hẩu lốn thêm vào đấy vài tính xấu của người Ả-rập.

Ở sở Tuấn bướng bỉnh, nhất định không chịu gọi các ông ấy bằng chức tước Đại úy hay Trung tá nên ông nào cũng bực mình. Giá bắt buộc mọi người đều phải đứng nghiêm, đập gót giày chan chát vào nhau hay đưa tay chào theo lối nhà binh được chắc họ sẽ không ngần ngại gì mà không làm. Nhưng vì chẳng bắt buộc được ai nên họ đành li lì cái mặt mỗi khi có người không chịu gọi chức tước của họ ra. Cố nhiên ai biết rõ tâm lý ấy mà muốn được việc, muốn làm cho vui nhà vui cửa thì rất dễ, cứ giả vờ nhầm, thăng họ lên một hai chức thôi thì mặt mày họ tươi như hoa và việc gì cũng xong ngay. Nhiều người mang phải thứ bệnh lạ lùng ấy không thuốc gì chữa khỏi.

Chiều nay thứ bảy, Tuấn đã xếp đặt chương trình từ trước. Ngủ trưa một tí cho giống mọi người rồi dậy tắm rửa xong sẽ đi dạo phố, chiều về ghé ăn cơm Ả-rập gần Casbah. Chàng còn định sẽ gọi điện thoại cho Xalem, mời Xalem cùng đi uống cà-phê. Tuấn có rất nhiều vấn đề thắc mắc mà chàng không muốn hỏi thăm mấy ông chân đen ở đây, chàng không muốn họ kéo chàng bắt cùng vào một phe cánh với họ, mấy ông trẻ thì mong hàm râu quai nón cho giống La Gaillarde. Mỗi lần gặp những bộ râu nghênh ngang ấy, là Tuấn thấy ngứa tay chỉ muốn cầm kéo cắt béng đi một mảng xem họ sẽ làm gì.

Có một điểm nữa là chàng trai không chịu tự thú là nụ cười của cô gái Ả-rập. Thế nào Tuấn cũng tìm biết cho được, nụ cười ấy chàng tin chắc rằng phải rất dễ thương. Tuấn chỉ thầm cầu mong cho nàng đừng có cái miệng rộng. Đàn bà miệng rộng chàng sợ lắm. Tuấn hay bật cười một mình vì chàng tự bắt gặp có khi suốt cả buổi, vừa cạo râu vừa nghêu ngao hát theo cái cantate của Bach: « Lạy trời, miệng nàng đừng rộng, lạy trời miệng nàng đừng rộng». Dầu sao Tuấn vẫn tin rằng khi đôi mắt đã đẹp như thế thì nhất định cái miệng cũng phải tương đương.

Tuấn đâm bực mình với những chiếc mạng che mặt ấy, nếu là một lối áo khác thì Tuấn đâu có phải mất thì giờ từ hai tháng nay như thế nầy.

Từ hai tháng nay chàng đã có dịp gặp rất nhiều những bóng dáng trắng toát, hoặc đi ngoài đường, hoặc trên xe buýt. Nhưng quả thật, chưa có người nào xinh được bằng cô em gái của ông bạn đồng hành. Toàn các bà già, nhìn bàn tay dăn dúm với đôi mắt nheo tít. Tuấn chán nản quay đi. Họa hoằn có vài cô thiếu nữ thì cô nào cũng thô kệch, nặng nề hoặc béo sù. Tuấn chỉ muốn chạy theo níu áo họ, bảo ăn ít chứ và chịu khó mỗi đêm tập thể thao đi. Đôi chân to bằng chân Tuấn, giày của họ chắc phải đóng đến cả tấm da bò mới đủ đôi.

Chàng cũng đã gặp những cô gái Ả-rập không che mặt nhún nhẩy trong bộ quần áo của người đàn bà phương Âu nhưng vẫn chưa có cô nào vừa mắt Tuấn. Bộ quần áo của người đàn bà phương Âu không phải dễ mặc. Nếu không có lối đi đứng tự nhiên, một thân hình cân đối thì cũng xấu xí chẳng thua ai.

An-di hứa sẽ đưa Tuấn đến một xóm riêng để nếm cái hương vị nội hóa nhưng chỉ nhìn cái miệng và nghe giọng nói của An-di thôi Tuấn cũng hiểu là nơi ấy chỉ dành cho những ông lính nhảy dù Pháp hoặc Ả-rập nào quá cần thiết đến vấn-để giải-quyết sinh-lý, chứ những người chân đen hoặc không chân đen đi nữa cũng chẳng thèm bước đến. Nhờ An-di, Tuấn biết được khá nhiều. Có vài người Pháp « liberal» nhứt định cưới con gái Ả-rập, nhưng họ đành chịu bị gia đình, họ hàng từ bỏ, chưa kể là có người còn phải đổi tên vì họ hàng cho rằng đấy là một sự ô nhục. Những lý do ấy làm cho ít ai dám táo bạo thử lửa.

An-di đã dạy Tuấn hai chữ: « A heibek » tôi yêu cô và « sheiba» cô đẹp lắm. Nhưng dạy vậy thôi chứ An-di không quên dặn đừng dại đi nói bậy mà chúng chưởi cho, từ dạo nghe mấy cái « đít-cua» tuyên-bố của De Gaulle thì dân Ả-rập đổi khác hẳn.

Sự thực Tuấn cũng biết rằng không bao giờ chàng có thể nói những chữ đó vì chàng rất sợ bị người Ả-rập hiểu nhầm và liệt mình vào cùng hạng với các ông binh sĩ nhảy dù thì chẳng vinh hiển gì. Điều Tuấn vẫn thích nhất là ở đây không ai lẫn được chàng với mấy ông chân đen. Từ cách ăn mặc đến dáng điệu, bộ quần áo đồng màu và chiếc cà-vạt chững chạc nằm nghiêm trọng ở chính giữa. Tuấn không có cái lối xăn tay áo sơ-mi lên tuốt trên cao với cái cổ hở toang ra lòi trái táo « A-đam » to tướng. Đã thế trên tay lúc nào cũng có những tờ báo chính-trị hằng ngày chuyên môn nói thật. Chẳng bao giờ ai thấy Tuấn đọc những tờ lá cải của mấy ông Tây thuộc địa cho ra.

Vừa mặc áo quần vừa nghe bản nhạc Escales của Jacques Ibert mà chàng thấy thích từ khi sang đây, âm hưởng có gì hơi lai Ả-rập, mỗi lần nghe là Tuấn hình dung ra ngay những vết chân của mấy con lạc đà đang chậm rãi bước, trên lưng mang tất cả giang sơn của những gia đình du mục. Tuấn vẫn thèm được sống cuộc đời ấy. Trong khi mọi người ao ước được đi viếng nước Mỹ, nước Anh thì Tuấn chỉ mơ được về sa mạc sống nếp sống bình dị. Mặt trời lặn trên sa mạc, còn cảnh nào đẹp hơn. Từ thuở bé Tuấn chưa được trông thấy một bức tranh nào hùng tráng như thế. Tuấn vấn tiếc là chỉ về sa mạc có mấy tuần, chàng muốn được sống mãi, sống mãi ở đấy.

Cố ý kéo dài lúc mặc quần áo cho bên ngoài bớt nắng. Giờ này mà ra đứng làm đuôi đợi xe buýt thì tha hồ nóng ruột, không phải vì xe chưa đến nhưng vì sự chờ đợi trong điều kiện không được thuận tiện như thế tất nhiên con người sẽ cảm thấy thời gian không chịu qua.

Tuy vui thích vì được rời quê hương, Tuấn cũng phải nhận rằng ngày thứ bảy và chúa nhật của những người sống độc thân lắm khi rất đáng sợ. Ở Paris Tuấn còn có một vài người quen thuộc, một vài người họ hàng. Những hiệu sách dọc theo bờ sông Seine cũng là những người bạn, hoặc những quán cà phê ở Montparnasse hay Saint Germain mà Tuấn có thể ngồi hằng buổi đếm mấy hàm râu đi qua đi lại. Lối chơi đếm râu hay đếm những bộ đùi đẹp cũng là một trong những lối tiêu khiển giết ngày thứ bảy chủ nhật rất nhân đạo của những tâm hồn cô đơn. Lối chơi nào cũng cần phải có hai người. Người nhìn phía trên đường, người nhìn phía dưới đường. Người nào trông thấy một bộ râu hay một bộ đùi đẹp thì hét lên « Un-zéro». Nếu người kia muốn đừng thua cuộc thì phải cố mà tìm cho ra một bộ râu khác, vì để cho ông râu hay người đẹp đi quá mà đối phương trông thấy trước thì thua to. Giống như chơi đá bóng bị người kia sút quả bóng vào «gôn». Nhờ vậy, mấy cái quán cà phê có hiên quay ra đường bao giờ cũng đông khách. Chẳng thế mà Tuấn có mấy người bạn Nga sang trốn ở Paris mấy năm, sau này được phép đi theo đoàn du lịch về thăm quê hương nhưng ông nào cũng mừng rỡ khi trở lại Paris, chỉ vì ở Paris có nhiều hiên cà phê, tha hồ ngồi để tìm cảm hứng. Nói ra chẳng ai tin, nhưng đấy là một trong những sức mạnh quyến rũ của đất Paris. Nước nào mà trình độ dân chúng phải khá cao mới khỏi có sự dòm ngó phê bình của người nầy người khác. Đã thế Paris lại rộng, chán khu vực nầy thì chỉ việc xuống lấy métro đi đến khu vực khác, sang trọng hơn hoặc trí thức hơn.

Alger tuy mang tiếng là một thành phố thứ hai của nước Pháp nhưng từ ngày có chiến tranh thì không khí thay đổi hẳn. Người ta ngờ vực nhau, người ta dò xét nhau. Đã thế Alger chỉ có mấy tiệm cà phê lớn, một vài vườn hoa, viện bảo tàng, vài con đường phố, chẳng lẽ cứ đi dạo lên dạo xuống mãi. Ở Alger cần phải có xe, nếu không thì chỉ kể quãng thời gian đứng làm đuôi đợi xe buýt cũng đã giảm rất nhiều hứng thú của một buổi đi chơi. Muốn ra bể, phải đi, đến mấy chục cây số, đứng cả tiếng đồng hồ trên chiếc xe « ca » chật như sắp cá mắm, đủ các hạng người chen lấn.

Từ ngày dân Ả-rập được kể ngang hàng với dân tộc Pháp thì có một sự trả thù ra mặt. Ngày xưa người Ả-rập phải kính nể người Pháp bao nhiêu bây giờ họ cố ý làm trái lại cho bõ tức. Có dịp nào chen lấn là họ chen lấn không ngần ngại, dầu sau đó có tiếp theo một cuộc cãi vã hoặc có lính đến dẫn đi vào nằm bót vài ngày cũng chẳng sao.

Con người càng giàu sang, văn minh mới càng biết sợ chết, sợ ốm đau tù tội chứ những anh chàng Ả-rập nghèo khổ ấy suốt ngày phải ra đứng ngoài đường vì trong nhà chật chội để dành cho đàn bà với trẻ con, đêm đến ai có nhà thì về không thì đi thuê rẻ một góc phòng tắm nào ngủ đỡ, nếu lừa được mấy chú lính gác vườn để ngủ lại trên cái băng của một công viên nào đó thì càng hay, những người ấy còn biết sợ gì nữa. Một đêm dưới gầm cầu hay một đêm trong bót gác có khác nhau là mấy. Ở đâu chẳng có rận, mùi khai nước tiểu với tiếng muổi vo ve.

Tuấn được chứng kiến rất nhiều cuộc gây gổ giữa người Pháp buôn thúng bán mẹt với người Ả-rập, cùng ở vào hạng ấy hoặc nghèo hơn. Có những chú Ả-rập táo bạo, mấy chục năm bị đè nén hôm nay đến chen chân ngồi cho được cạnh bà đầm, đặt tay lên bộ ngực cao quý của bà để rồi được nhận một cái tát tiếp theo một trận chưởi bới ầm ĩ. Những sự ấy đã làm giảm mất bao nhiêu thú vui lúc đi chơi. Lại còn có nhiều nơi nguy hiểm mà người Pháp không dám đưa mặt đến như mấy con đường hẻm trong vùng Casbah hoặc các chỗ ngoại ô hơi xa đồn lính.

Mỗi lần nhìn những cuộc gây gổ như thế, Tuấn chỉ cười đứng đằng xa mà nhận xét, Tuấn có lắm ý nghĩ mà nếu mấy ông chân đen nghe được thì chàng nên làm va ly sớm. Tuấn vẫn thầm trách sao hơn một trăm năm nay các ông không biết ăn ở tử tế hơn.

Mặc xong quần áo Tuấn vừa đến tắt máy hát thì có tiếng điện thoại reo. Xalem mời chàng đi uống trà. Làm như có sự thần giao cách cảm vì chính Tuấn cũng đang định gọi Xalem.

Còn gì sung sướng hơn một chiều thứ bảy không cô độc như những chiều thứ bảy khác. Xalem hẹn chàng ở quán cà phê Tantonville gần rạp hát lớn.

Tuấn biết thế nào mình cũng đến sớm hơn bạn nên đã khôn ngoan đi thẳng ra trạm mua mấy tờ báo ở Paris đọc trong lúc chờ đợi. Lão chủ trạm ban đầu thấy Tuấn hay mua báo nên rất tử tế nhưng từ một tháng nay bỗng đổi ra lì lì không muốn bán buôn với Tuấn làm chàng trai ngạc nhiên mãi. Sau đấy Tuấn mới hiểu rằng lão ta con cháu dòng chân đen đã ba đời. Lão bực tức khi thấy Tuấn chỉ đọc toàn loại báo công kích chủ trương thuộc địa bóc lột người. Chờ mãi không thấy Tuấn thay đổi, lão trở nên hằn học.

*

Tuấn đang cúi xuống đọc báo thì có tiếng động, một vật gì vừa rơi cạnh chân. Chưa kịp ngước lên chàng đã nghe giọng xin lỗi của người đàn bà, nói tiếng Pháp nhưng chỉ nghe thôi cũng biết ngay rằng không phải là giọng của người đàn bà Pháp. Trước mặt Tuấn một thiếu phụ trẻ người Ả-rập không có mạng che mặt, đầu tóc nhuộm vàng hoe, nàng nhìn Tuấn mỉm cười cố tập trung hết cái duyên dáng của người đàn bà đẹp.

Tuấn không biết làm gì hơn là mỉm cười giả lại. Nàng có vẻ rất thành thạo, ngồi ngay xuống chiếc ghế cùng bàn với Tuấn, gọi hầu bàn mang đến một cốc rượu khai vị, Tuấn càng thêm ngạc nhiên nhưng một câu hỏi của nàng làm Tuấn hết ngạc nhiên ngay:

– Anh có muốn đến nhà tôi không, ngay bây giờ hay đêm nay cũng được.

Tuấn còn lúng túng thì người đàn bà nói tiếp:

– Mười nghìn quan.

Chàng lắc đầu cắn môi cau mày như người vừa nhận một cái tát bất ngờ. Thì ra ban nãy cô nàng cố ý đánh rơi cái ví vào cạnh chân Tuấn để lấy cớ làm quen. Chàng đưa mắt nhìn cái ví và thầm tội nghiệp cho cái ví không biết mỗi ngày mấy lần bị đánh rơi như thế. Nếu cô nàng khoan hãy nói vội đến sự đưa về nhà với giá cả. Nếu cô nàng khoan gọi rượu để cho Tuấn được một phút sung sướng với ý nghĩ có người đàn bà Ả-rập đang tìm đến mình để làm quen, chắc Tuấn sẽ cám ơn cô nàng rất nhiều. Cô nàng thấy Tuấn có vẻ khờ khạo thì bĩu môi nhìn sang chỗ khác mặt càng làm ra vẻ kiêu hãnh như chính Tuấn đang cầu xin mình một sự gì quá đáng.

Nhìn kỹ cô nàng không đẹp, dáng điệu bắt chước hệt đàn bà Pháp. Vóc người nhỏ mái tóc nhuộm vàng uốn theo lối tổ quạ, móng tay với đôi môi đỏ thắm như ai cắt từng miếng tiết heo dán lên.

Nhìn cái môi làm Tuấn sợ hãi, chàng vốn ghét cái màu môi dính máu của những người đàn bà ấy, Tuấn quay mặt sang phía khác thì cũng vừa lúc Xalem bước vào.

Người đàn bà thấy Xalem vào, nàng không đợi cốc rượu của mình đang gọi, lặng lẽ đứng lên đi sang một bàn bỏ trống khác. Tuy đã thành thạo trong nghề nhưng cô nàng cũng còn ngại đồng bào, cố nhiên khách của nàng chỉ toàn là những người du lịch hoặc các ông quân-nhân côi cút.

– Anh đợi tôi có lâu không?

Xalem hỏi rồi nháy mắt nhìn Tuấn khi người đàn bà vừa đứng lên ưỡn ẹo đi ra. Mấy ông hầu bàn đều đã biết nàng nên sự gọi rượu và không đợi dọn của nàng họ cũng quen cả rồi. Bao giờ nàng cũng gọi rượu đắt tiền nhưng họ chờ xem nàng có bắt được khách không đã rồi mới mang ra, chứ nếu mang ra mà cô nàng không bắt được khách thì tiền đâu cho cô nàng giả.

– Mười ngàn quan đấy.

Tuấn hất hàm nói khẽ với Xalem.

– Điên chưa, tại nó thấy anh ăn mặc lịch sự nên mới tăng gấp năm gấp ba cái giá liên đoàn lên ấy chứ.

– Nghe anh sắp cưới vợ.

– Một tháng nữa vừa đủ thì giờ cho nàng sắm áo, may quá nàng là em họ của tôi, nếu không thì chí nguy. Nhất định khi nào độc lập xong phải cải tổ lại chứ anh xem vợ chồng mà đến hôm cưới mới biết mặt nhau còn nói gì đến tính nết với quan niệm.

– Ngày cưới anh có mời nhiều người không?

– Bà con đông lắm họ đến ăn ở trong nhà từ ba bốn hôm trước để giúp đỡ công việc. Nếu tôi được tự do thì tôi sẽ tổ chức một buổi tiệc trà có âm nhạc có khiêu vũ nhưng để cho các cụ tổ chức thì phải theo lề lối. Nào đưa cô dâu đi tắm « bain maure» nhổ lông, nhuộm henné lên tóc với gót chân, nào lễ trình áo với với các món trang sức. Thật là tội nghiệp cho người đàn bà, nghĩ đến vợ mình phải đóng vai trò con lợn ấy, tôi chỉ muốn làm cách mạng ngay.

– Nhưng phải hỏi rằng người đàn bà có tự thấy rằng đấy là vai trò con lợn không đã chứ, nếu họ thích thế thì sao.

– Ờ nhỉ, nhưng ai chứ Zora thì tôi chắc nó cũng giống cô em tôi. Xa chúng nó có hai năm mà về thấy chúng nó thay đổi hẳn, cô nào mở miệng cũng rặt giọng cách mạng với đuổi Tây.

– Người đàn bà sẽ tiến nhanh hơn người đàn ông chăng.

– Có lẽ thế, tôi thấy nhiều người đàn ông đi học ở ngoại quốc về mà rồi đâu vẫn hoàn đấy, tính tình không khác gì những kẻ du mục miền sa mạc suốt đời chưa ra khỏi cái thôn nhỏ của mình. Phải có rất nhiều cuộc cải cách nữa mới theo kịp người ta.

– Anh có tin rằng sau này Algérie sẽ theo xã hội chủ nghĩa không.

– Vì dân quá nghèo, anh muốn bảo thế chứ gì?

Tuấn ngập ngừng, Xalem nói tiếp:

– Có thể được, nhưng phải là một cái chủ nghĩa xã hội kiểu theo Ả-rập vì chúng tôi còn tôn giáo rất mạnh, không bao giờ người dân Ả-rập ở thế kỷ hai mươi chịu bỏ tôn giáo của mình. Hôm nào có dịp, nếu anh muốn, tôi sẽ đưa anh đi xem đền thờ mấy ông thánh Marabout ở chung quanh đây thì anh mới thấy cái trình độ tin tưởng của dân chúng còn cao lắm, khó đánh tan được.

– Hay quá, tôi muốn tìm biết rất nhiều mà ngoài anh ra tôi chịu, không thể hỏi ai, nhất là cuộc sống bên trong của người dân Ả-rập.

– Tôi sẽ mời anh về nhà dì tôi hoặc ngay nhà tôi để anh thấy.

Tuấn nghe nói, chàng sung sướng chỉ muốn nhảy lên nhưng cũng hơi ngần ngại, chàng chỉ sợ độ này hai dân tộc ghét nhau liệu chàng đến nhà Xalem rồi có mang vạ vịt gì cho gia đình Xalem chăng. Đưa ý kiến ấy ra nói với Xalem, nhưng Xalem bảo sẽ báo trước cho bà con láng giềng biết vả lại dáng điệu và cách ăn mặc của Tuấn không làm cho người ta ghét.

– Tôi nghe bảo rằng chẳng bao giờ người Ả-rập chịu mời một người Pháp đến nhà riêng của mình.

– Từ độ chiến tranh thì cái hố mỗi ngày một lan rộng ra.

Giọng Xalem hơi ngậm ngùi, Tuấn tin rằng bạn tiếc thật vì Xalem không có vẻ hằn học như những người Ả-rập khác mỗi lần nói đến chiến tranh. Tuấn lặng nghe giọng nói của bạn chìm trong buổi chiều. Trời tối dần, đèn đường đốt lên tự bao giờ, Tuấn và Xalem mỗi người đang theo dõi một ý nghĩ. Tuấn ngỏ ý muốn vào Casbah ăn cơm làm Xalem ngơ ngác.

– Anh không sợ sao!

– Sợ gì cơ, hay là anh với tôi cùng đi, tôi có đến ăn một lần rồi, ở hiệu ăn ngay Casbah ấy, bao nhiêu người nhìn tôi. Ban đầu mấy người hầu bàn ngập ngừng không muốn dọn, sau đấy thì yên cả, đời phải có chút phập phồng mới vui chứ anh.

– Thế thì đi, nhưng trước khi đi tôi phải điện thoại về nhà báo với mẹ tôi để ở nhà khỏi chờ cơm.

Muốn tỏ cho Tuấn biết rằng mình không thuộc vào những người câu nệ cổ lỗ nên Xalem mới nhận lời đi như thế. Ít khi chàng gặp một người Pháp chịu khó như Tuấn. Xalem vào điện thoại xong ra khoe ngay với Tuấn là em gái mình trả lời điện thoại. Chàng muốn cho Tuấn hiểu rằng có nhiều gia đình Ả-rập nghiêm khắc đến nỗi con gái đàn bà không được quyền giả lời điện thoại, sợ mấy thằng đàn ông biết rồi lợi dụng lúc chồng hoặc cha mẹ đi vắng mà gọi đến tán vơ tán vẩn. Có lắm ông chịu thiếu điện thoại mặc dầu trong công việc buôn bán rất cần cũng chỉ vì quá ghen.

Tất cả những sự ấy đối với Tuấn đều mới lạ.

*

Suốt mấy hôm nay Leila không ngừng cầu nguyện, tin rằng với tấm lòng thành kính và một ý chí cương quyết thế nào đời nàng cũng sẽ gặp hạnh phúc, sẽ được làm những gì mình muốn làm, chứ không bị gò ép như những người đàn bà Ả-rập khác từ bao nhiêu chục thế kỷ trước đến giờ.

Xong tiệc cưới anh nàng và Zora càng làm cho Leila chán nản. Với các thiếu nữ khác, nhìn thấy đám cưới của chị dâu như thế ai mà chẳng mong ước cho mình cũng được như thế. Áo dài, áo ngắn, áo mặc buổi chiều, áo mặc buổi sáng, áo mặc đi ngủ, áo mặc lúc thức dậy.Suốt cả ba tháng trời từ khi làm lễ hỏi cho đến ngày cưới không có hôm nào là Zora không phải đi thử áo. Ở nhà lại còn gọi riêng một chị bà con nghèo đến ăn ở lại để may những quần áo lặt vặt. Hết thử áo lại đến thử vòng, thử hoa tai, thử hột. Người Zora cứ thế mà gầy tóp đi, nhất là đến mấy hôm gần cưới, bà con rộn rịp đến, kẻ chúc tụng, người trêu ghẹo, trẻ con lạ nhà thì khóc vang cả đêm không cho ai ngủ yên. Cô dâu lại càng khỏi ngủ và khỏi cả ăn vì mệt, vì bận; đến buổi cuối còn phải kiêng ăn, sợ lúc nhập phòng mà bụng đầy thì chết. Phong tục tin như thế. Người mẹ nào có con gái lớn cũng nóng ruột sau khi đi dự một cái đám cưới về. Vì thế, từ hôm cưới vợ cho con trai xong mẹ Leila chỉ còn có một ý định là lo nhắm xem đám nào tốt để gả con gái,

Biết mẹ có ý ấy nên Leila càng trêu tức.

– Mẹ lo làm gì, con không lấy chồng đâu, những người đi hỏi con chẳng có ai đáng.

– Bộ mầy muốn lấy tướng Massu à.

– Không, con muốn lấy ông De Gaulle cơ.

– Con nầy lớn rồi liệu mà tập ăn tập nói.

Thấy mẹ cáu tiết Leila càng trêu già:

– Tại mẹ hỏi con muốn lấy tướng Massu thì con phải trả lời thế chứ, con đã bảo rằng con chỉ lấy người nào con yêu, đời bây giờ chứ có phải như ở mấy chục năm về trước đâu mà mẹ cứ…

– Yêu… yêu… yêu… yêu… là cái gì.

Người mẹ không mắng to lên như ban nãy mà chỉ nói rất khẽ. Quả thật chữ ấy tuy tầm thường nhưng đối với người đàn bà này thì nghe sao lạ tai quá. Từ mấy chục năm nay chưa bao giờ cái ý nghĩ ấy chen vào trong tim óc bà. Lấy chồng là lấy chồng chứ sao lại yêu. Cần gì phải yêu, người đàn bà chỉ cần có một người chồng nuôi mình và bổn phận mình là đẻ con, nuôi dạy cho chúng nó khôn lớn để rồi lại lo cho chúng nó có gia đình. Đời là thế chứ còn gì nữa. Người mẹ không ngờ con gái càng ngày càng ngổ ngáo.

Leila còn dám bảo với mẹ rằng nàng tởm những người đàn ông nào chỉ biết nhìn đến có mỗi một sự trinh tiết của người đàn bà.

– Ai yêu con là yêu con chứ cái sự trinh tiết vật chất ấy có đáng gì.

Rồi Leila còn mỉa mai những người đàn ông mà sáng ngày vội đuổi vợ mới cưới hôm qua, bắt phải ôm thùng bánh cưới và quần áo ra về nhà cha mẹ, vì không còn trinh tiết. Mọi rợ, mọi rợ, mọi rợ, những người tự trọng không làm như thế.

– Anh mầy đi học Tây học Tàu về cũng chẳng có những ý nghĩ như mầy. Cha đẻ ra mầy cũng chưa nói như mầy.

Bà mẹ cho rằng cô gái chỉ biết nói chứ đâu có biết suy nghĩ gì, vì người đàn bà biết suy nghĩ rồi có ai lại đi nói dại mồm dại miệng như vậy nhỡ nhà trai nghe thấy…

Hẳn vì Leila còn trẻ, đang còn chỉ biết chơi với các em bé nên mới chậm khôn và bà tự an ủi: thôi thế cũng được đi, ngựa hay thường có chứng. Trong bà con, Leila nổi tiếng là xinh nhất, chỉ phải cái bướng bỉnh nên ít ai chơi với. Ngày có thai, người mẹ hay đến chỗ thầy giảng kinh xin cái thứ nước học trò rửa bảng về uống để sau nầy sinh con ra cho được thông minh sáng láng. Nước ấy là một thứ nước thiêng chỉ rửa bảng chép kinh Coran mà thôi, nên cô bé mới lên năm đã tỏ ra thông minh sáng láng, dạy câu kinh nào là nhớ làm lòng câu kinh ấy. Người mẹ lại càng tin tưởng ở nước thiêng.

Leila nhất định đời nàng sẽ không có những sự phiền phức vô ích ấy. Hôm qua mẹ nàng vừa nhìn theo nàng vừa nói thầm thì với cha mà Leila biết rằng chẳng có gì khác hơn là việc gả chồng cho mình. Nhưng nàng sẽ từ chối tất cả.

Leila cũng không hiểu từ bao giờ mà trong lòng nàng toàn nẩy ra những ý nghĩ cách mạng gia đình như thế. Lỗi tại ai, câu trả lời tuy Leila không dám nói ra nhưng nàng đã tự rõ lắm rồi. Từ buổi gặp mặt Tuấn ở sân máy bay. Từ khi có dịp giả lời điện thoại cho Tuấn trong những lúc cả nhà đều đi vắng. Giọng Tuấn lễ phép, có gì bắt Leila cứ muốn được nghe mãi. Người đàn bà Ả-rập không được quyền giả lời điện thoại như thế, nhưng vì Tuấn gọi hỏi thăm Xalem mà gặp lúc Xalem đang lo việc cưới xin bận rộn. Nhờ vậy nên Leila với Tuấn thành quen biết nhau.

Leila thay đổi hẳn, nàng không còn là một cô gái Ả-rập cách đây ba tháng trước nữa.

Thế nào Leila cũng sẽ là bạn của Tuấn, nếu bộ quần áo với cái mạng che mặt sẽ là một chướng ngại vật thì Leila sẽ ăn mặc giả đàn ông. Ngày mẹ có thai, cha nàng chẳng mỗi đêm cầu nguyện cho dê bò thì đẻ ra con cái mà vợ tôi thì sinh ra con trai đó sao. Mãi đến năm lên mười, Leila vẫn còn ăn mặc giả con trai để đánh lừa láng giềng đó sao. Nhờ thế hôm nay Leila đã tìm ra được một giải pháp và nàng đang lo sưu tầm các thứ cần dùng. Leila định sẽ tìm đến Tuấn với lối cải trang ấy.

Một chiếc áo khoác cũ, một đôi giày cũ, một cái quần và một cái khăn quấn quanh đầu để giấu mái tóc. Leila đứng nhìn trước gương, không nhận ra được mình. Làm sao có tí râu nữa là đúng điệu. Một chút phấn nâu trộn với khói đèn bôi vào da mặt với đôi bàn tay. May quá từ tối đến giờ cả nhà đều để cho nàng yên. Cố nhiên, Leila đã khôn ngoan ngồi nán lại chơi với các em, giã hộ mớ hạnh nhân cho mẹ để mai làm nhân bánh. Mãi đến chín giờ Leila mới lên phòng riêng bảo buồn ngủ vì đêm qua thằng Mustapha đau răng khóc nhè cả đêm không cho ai ngủ. Chỉ có nói thế mới yên chứ bảo rằng ngủ không được mà thiếu lý do chính đáng cũng mệt với mẹ.

Bên ngoài im lặng, mọi người đều ngủ cả, Leila ăn mặc xong còn giả vờ ho vài tiếng xem có nghe ai nói năng gì không. Lúc này nàng mới yên chí đẩy cửa đi nhẹ xuống nhà dưới men theo hành lang rồi lấy thang cấp đi ra ngoài, cửa lớn là cửa chung nên không khóa, cứ thế Leila nhè nhẹ đẩy cửa bước ra đường, đến bến xe taxi thuê đi thẳng lại nhà Tuấn.

*

Tuấn bỏ quyển sách xuống lắng tai nghe hình như có tiếng mèo hoang cào ở ngoài, chàng đứng dậy ra mở cửa xem có phải thật là chú mèo đói nào đi kiếm ăn đó không? Mèo hoang ở Alger nhiều vô cùng, đi ngõ nào cũng thấy. Vì người Ả-rập tội nghiệp không nỡ giết nhưng cũng không muốn nuôi, có chăng cũng chỉ nuôi một vài con để bắt chuột thôi, còn thì mỗi lứa mèo đẻ là họ vứt ngay ra đường để mặc chúng nó tự lo lấy. Con nào vô phúc thì bị xe cán; con nào tốt phúc thì sống lây lất ngày ngày đi moi thùng rác kiếm ăn. Tính của Tuấn giống mẹ rất thương loài vật nên nhà chàng hay có cái loại khách đêm như thế. Một hôm chàng mua luôn cả mấy hộp cá về đãi lũ mèo trong xóm làm chúng nó đánh nhau chí chóe để dành ăn. Tất cả láng giềng đều mở cửa ra tưởng có chuyện gì. Sau khi nghe Tuấn giải thích ai cũng cười thầm thằng cha điên. Tuấn biết thế nhưng chàng rất vui vì tất cả lũ mèo trong xóm mỗi khi thấy chàng đi ngang là già trẻ lớn bé đều chạy ra mừng rỡ meo meo ầm lên. Ngay đến con mèo già không đi nổi, ngày đêm nằm trong bụi chờ chết mà đánh hơi thấy Tuấn cũng kêu lên vài tiếng vì nó biết rằng chỉ có Tuấn mới đến gần để mang thức ăn cho nó. Thật là vất vả, nếu không có lũ mèo ấy thì Tuấn đã ăn chiều ở hiệu cho tiện. Từ khi quen với mấy chú mèo, Tuấn đành ăn buổi chiều ở nhà, và bao giờ cũng mua thừa nhiều một tí để cho phần các chú.

Tiếng cào cửa kỳ nầy hơi khác và quả thật trước mặt Tuấn không phải là mấy chú mèo mà là một thanh niên Ả-rập chàng không hề quen,

Tuấn ngạc nhiên nhưng người thanh niên đã mỉm cười rồi nói rất khẽ:

– Cho em vào đã.

Không hiểu tại sao Tuấn lại đoán biết rằng đấy là Leila, chàng hỏi lại cũng rất khẽ.

– Cô Leila phải không.

Người thiếu nữ chỉ mỉm cười đi vội vào nhà trong không đợi Tuấn mời.

– Sao anh biết ngay tài quá vậy,

– Tại đôi mắt của cô, vả lại đàn ông có ai ăn mặc như thế « cloche» lắm, sao không biết.

– Thế ư, kỳ sau em phải cẩn thận hơn ấy nhỉ.

Tuấn nhìn Leila từ đầu xuống chân, chàng vẫn tưởng mình đang mơ không ngờ cô gái Ả-rập lại táo bạo đến thế. Chàng ngập ngừng không biết làm sao để mở đầu câu chuyện. Sự ngạc nhiên và vui mừng làm Tuấn quên cả mọi xã giao thường thức.

– Anh không ngạc nhiên sao, nhưng nếu em không cải trang như thế nầy thì anh và em sẽ không bao giờ có dịp nói chuyện với nhau, không bao giờ gặp nhau.

Tuấn biết rằng mình đang đứng trước một nhân vật không tầm thường tí nào, nếu Leila không điên như mọi người sẽ nghĩ, thì Leila cũng chẳng giống với những thiếu nữ khác.

– Cô Leila không sợ các cụ biết sao, nếu các cụ biết thì cô sẽ làm thế nào.

– Hoặc giết đi như cha em thường dọa, hay là gả lấy bất cứ một thằng đàn ông nào, thứ ba là đuổi về sa mạc. Nhưng cái gì em cũng chẳng sợ cả.

– Sao Leila liều lĩnh thế.

– Em đã bảo rồi cơ mà, làm đời một người đàn bà Ả-rập chán lắm, sống như con lợn, nhỏ làm con lợn ở nhà cha mẹ, lớn lên thì làm con lợn ở nhà chồng. Em thèm vào, có phải được ăn mỗi ngày mấy bữa, được mặc áo này áo khác, cổ và tay được đeo mấy cái xích vàng ấy là sướng đâu. Em muốn sống như mọi người.

Tuấn không ngờ, người ta đã nói với chàng toàn những điều khác hẳn. Nào là đàn bà Ả-rập chỉ mong ước được ở trong gia-đình với cha mẹ với chồng con, đàn bà Ả-rập không bao giờ dám đi ra khỏi nhà một mình..v..v…

Thấy Tuấn đứng lên, Leila cau mặt hơi tỏ vẻ khó chịu vì nàng đã đoán biết Tuấn đang nghĩ gì.

– Anh có nhận em làm bạn như anh đã nhận anh Xalem không?

– Có chứ! – Tuấn vui vẻ trả lời.

– Nếu vậy thì anh đừng nhìn em như một con quái vật nữa. Em biết rằng lúc này em xấu lắm, nhưng nếu không thế thì sao em đến được đây. Bây giờ thì anh có mời em ngồi không.

– Chết thật. – Tuấn vội vàng xin lỗi.

Leila cởi cái khăn vấn đầu để rơi cái bím tóc dài to như cả một khúc thừng, cởi luôn cả chiếc áo khoác rồi ngồi xuống ghế ở cạnh giường

Trông Leila đẹp hẳn lên, một vẻ đẹp hơi du côn, nữ tặc. Tuấn sung sướng và quả thật chàng mải vui thích nên không hề thoáng trong đầu óc một ý-nghĩ đen tối nào nhưng rồi thực tế trở lại, nhắc cho chàng biết rằng ngày mai sẽ phải đi làm việc, tí nữa Leila phải về đêm khuya thế, làm sao mà đi.

Tuấn thắc mắc hỏi:

– Leila ở đây đến bao giờ về?

– Đến sáng.

– Rồi làm sao ngủ.

– Ngủ với anh. Sao anh bảo anh em xem như bạn anh Xalem.

– Ừ nhỉ, nhưng… nhưng Leila không sợ à.

– Sợ gì, sợ mất trinh rồi sau này lấy chồng bị chồng đuổi ấy à, hẳn anh muốn nói thế chứ gì.

Tuấn ngơ ngác, Leila tiếp theo:

– Mẹ em gào vào tai mỗi ngày, từ năm em lên 11 tuổi, ngấy muốn chết, nhưng anh hỏi em không sợ, tại sao em lại sợ. Nếu em có mất trinh thì em càng có thể tự chọn lấy người chồng nào em muốn chứ. Sau này khi người đàn ông nào muốn cưới em, nghe em nói sự thật mà vẫn cứ yêu em thì có phải là người ấy xứng đáng không?

Tuấn mỉm cười với những ý nghĩ ngổ ngáo của Leila, đời Tuấn chưa bao giờ sống những phút kỳ lạ như đêm nay.

– Dầu sao, Leila đừng lo, chúng ta không phải là những kẻ không biết tự điều khiển.

Leila đưa tay lên ra hiệu bảo cắt ngay:

– Ấy chết, đừng điều khiển, em muốn rằng chúng ta sống rất tự nhiên bên nhau, đừng tính toán, đừng dàn cảnh mà cũng đừng điều khiển, cái gì phải đến thì cứ để nó đến, cái gì không đến thì đừng gò ép, anh chịu không. Nếu anh đồng ý thì em còn gặp anh luôn được nếu không thì..

– Tôi sẽ chiều Leila, miễn rằng làm gì đừng để khổ cho Leila là được.

– Cái khổ hay sướng tùy ý mỗi người, cô gái Ả-rập cho sự được gặp một người chồng cưới về nuôi ăn, nuôi mặc, đẻ con thật nhiều, tay chân đeo vàng ngọc mà cấm được đi ra ngoài, cấm được giao thiệp với những ai mình muốn giao thiệp. Cuộc sống như thế họ cho là sung sướng, với em là một cuộc sống ở tù. Hơn nữa sống với người chồng mà lắm khi còn đần độn hơn mình, chỉ biết ăn và ngủ thì sung sướng là sung sướng chỗ nào cơ.

Nghe Leila lý-luận Tuấn chỉ mỉm cười. Leila đã dạy chàng một bài triết-lý mới ; sống không gò ép, không tính toán.

Leila có một vài điểm giống Phượng: Phượng là kết quả của sự tự do văn minh, Leila là kết quả của gò bó chật hẹp. Hai bên đều phải bùng nổ, giống như một bình ga bị ép hơi đến quá độ.

Đêm ấy Leila ngủ cạnh Tuấn như một chú bê non nằm bên mẹ.

Mới bảy giờ sáng Tuấn vội vã thức Leila dậy để ra về vì sợ muộn quá thì ở nhà biết được chăng.

Ngày hôm sau người ta thấy Tuấn vừa làm việc vừa nghêu ngao hát suốt cả buổi không ai biết chàng có gì mà vui vẻ thế. Tuấn không ngờ Leila lại hợp chuyện với mình, hai kẻ chưa hề quen nhau mà tuồng như làm ra để sống cạnh nhau. Tuấn biết rằng thuở nhỏ Leila được giả con trai để đi học cô bé đã thuộc làu cả bộ kinh. Lớn lên cha mẹ bắt mặc quần áo có mạng che mặt vì sợ nàng quen lối đi đứng ngổ ngáo mất cái vẻ dịu dàng thuần túy của người đàn bà Ả-rập. Tuy hai năm nay Leila thôi đến trường nhưng ở nhà nàng vẫn tiếp tục đọc sách Pháp với sách Ả-rập để hiểu biết thêm. Nàng muốn trau dồi mãi mà mẹ nàng lại không nghĩ như thế. Người mẹ chỉ mong con làm sao để biết thêu may, biết nhồi hạnh nhân vào trái « đát » cho thật gọn thật xinh. Bỏ vừa mật, vừa mầu, đừng xanh quá mà cũng đừng nhạt quá. Mỗi lần như thế thì Leila lại cằn nhằn, làm mất công chết đi mà rồi ăn béng một cái là hết ngay.

Nàng vẫn bảo với các em tụi bây cứ bốc một nắm hạnh nhân ăn với mấy quả « đát » là vào trong ruột chúng nó trộn nhau cũng giống như thế chứ việc gì phải đòi ăn cái thứ nhồi sẵn cho mất công làm.

Cả nhà cho rằng Leila dở người mới có những ý nghĩ kỳ lạ như thế.

Nhưng Tuấn không đồng ý, Leila không dở người, nàng chỉ đặc-biệt khác người mà thôi.

– Ban đầu có lúc em ghét anh lắm.

– Tại sao, anh có làm gì đâu?

– Vì anh là người Pháp, em luôn luôn tự trách mắng sao mình lại có thể nghĩ đến một người dân nước thù, trong khi đồng bào đang đau khổ? Sau nầy em thấy em vô lý. Đấy là lỗi ai ấy chứ có phải lỗi anh đâu. Bây giờ thì thôi em hết có những ý nghĩ ấy rồi. Em không xem em là một người Ả-rập cũng như anh không phải là người Pháp, chúng ta chỉ là hai kẻ sinh ra để gặp nhau có thế thôi.

– Nếu các cụ biết được rằng em trốn nhà đi chơi như thế nầy thì sao? – Tuấn vẫn không hết thắc mắc với những ý nghĩ ấy.

– Thì giết đi là cùng chứ sao.

– Em liều thế, anh chưa thấy em sợ một cái gì cả.

– Anh lầm, em rất sợ, em sợ sự độc ác tham lam của loài người.

Tuấn chịu không biết phải giả lời làm sao với người con gái chưa đến hai mươi tuổi nhưng đầu óc không chịu theo vào một khuôn phép nào cả. Có nên cho Leila là một cô gái hư chăng. Tuấn cố thử khách quan để xét đoán nhưng chàng vẫn không thể nào trách Leila được. Sống trong cái xã-hội càng ngày càng văn-minh càng giả đối, tâm hồn và ý nghĩ của Leila đối với Tuấn là một thứ ánh sáng mới lạ.

– Có phải tại em bị những cái triết-lý của kinh Coran làm em nên như thế không.

– Một phần thôi, còn nửa phần kia là tự em suy luận lấy. Em ghét tất cả những diễn viên ở ngoài cuộc đời. Con người càng ngày càng giả dối, sáng ngủ dậy vừa mở mắt là đã tính toán, làm sao cho có lợi có lãi, làm sao lừa người nầy bẫy người kia. Vào đến bãi tha ma thấy xương nổi đầy lên mặt đất mà cũng chưa biết lo sợ. Nhưng có nhiều đoạn trong kinh em không hài lòng, những đoạn mà trời hứa hẹn với người nếu ngoan đạo thì được lên thiên đàng, nơi ấy đàn bà rất đẹp và rất trinh tiết, đức hạnh, hoa quả rất ngon lành. Y như con người khi làm việc thiện chỉ vì trông mong vào những sự ấy, thành thử lắm khi người có đạo làm việc gì cũng hóa ngại ngùng.

– Em nhiều chuyện lắm, nếu ai cũng suy nghĩ như em thì nguy quá.

– Mẹ em bảo tại uống nước thiêng mới sinh ra em như thế, ngày xưa còn bé em hay cãi, người lớn cho rằng thông minh. Bây giờ cãi người ta bảo điên.

Leila khác hẳn với những cô gái Ả-rập từ trước đến nay. Đấy là một mối lo cho cha mẹ nàng, càng ngày càng thấy Leila có vẻ kỳ lạ nên mọi người đều nghi ngờ.

Một hôm cha mẹ bắt cô con gái ra hỏi. Leila không những không chối mà còn khai hết với mẹ.

– Đem trinh đi hiến cho kẻ thù. Đem trinh đi hiến cho kẻ thù.

Đây là lời cha đay nghiến, rền rĩ mỗi lần nhớ đến hành động ngu muội của đứa con gái. Mẹ nàng thì chỉ khóc thầm và đổ lỗi cho Xalem.

– Tại mầy, tại mầy đưa đường dẫn lối nên nó mới ra nông nổi ấy.

Đứa con gái thông minh, xinh đẹp, đứa con gái mà gia đình họ hàng đều kiêu hãnh, nuôi dưỡng toàn bằng đạo đức lễ giáo. Mỗi câu khuyên bảo là một lời kinh, thế mà ai ngờ. Biết vậy thì thôi cứ để cho Leila sống như tất cả những người đàn bà con gái khác. Đừng cho học hành, hiểu biết có đưa đến gì hơn đâu, trái lại vì nó mà hôm nay cha mẹ Leila hết mong được sống cái ngày vinh hiển, ngày gả con gái về nhà chồng và được họ nhà chồng đưa cái khăn trắng có dính máu ra khoe với bà con hai bên gia đình.

Thế là hết, bao nhiêu hy vọng nuôi từ mười tám năm trời đã tan vỡ như bong bóng nước mưa.

Một điều lạ, bị đánh mắng mấy mà Leila cũng cứ trơ ra như không biết đau đớn gì cả. Cuối cùng, trong khi chờ đợi giấy tờ đuổi về quê, cha Leila nhất định bỏ cô con gái hư vào phòng kín. Mất người rồi mới làm chuồng là thế nhưng có cách gì hơn. Nếu giết được con chắc ông cụ cũng giết đi cho khỏi nhục. Mặc dầu tôn giáo cho phép nhưng cái luật lệ của ba thằng thực dân đã làm tán loạn cả một nền luân lý cương thường cổ truyền.

Trong căn phòng tối mờ mờ, Leila ngồi tựa lưng vào tường nghĩ vơ vẩn, mỗi ngày chỉ có người đưa cơm và thay cái chậu vệ sinh còn thì cấm không ai được đến gần chỗ ấy. Bị giam đã ba hôm, thiếu không khí với mặt trời làm Leila hơi mệt, ngoài ra thì chẳng có gì thay đổi. Trái lại ý-nghĩ của cha mẹ, Leila còn cảm thấy vui thích, đối với nàng ở tù cũng là một vinh dự, có phải ai cũng được giam như nàng cả đâu. Cô nào chẳng sợ, cô nào chẳng lo giữ gìn để kiếm chồng. Sống cuộc sống của con lừa, ai hò đi đầu là cúi đầu vâng lệnh, thế mà vẫn kiêu hãnh, vẫn thấy sung sướng. Ở nhà ngoài hay vào ngồi trong này có khác nhau là mấy.

Leila mới đáng sung sướng vì đã làm tất cả những gì mình muốn làm. Từ nay lại còn thoát khỏi cái nạn bị cha mẹ gả cho một người không quen biết, hoặc có quen biết mà nàng không yêu. Không còn thằng nào dám cưới nàng, thế là nàng có thể yên thân cho đến khi nào nàng muốn lập gia đình, khi nào gặp được người mà mình bằng lòng hợp ý. Cả một cuộc cách mạng lớn mà ngay đến các thiếu nữ ở những nước văn minh tân tiến cũng chưa chắc đã dám hành động như thế. Nếu họ được như Leila là nhờ hoàn cảnh và sự ngẫu nhiên chứ họ đâu có biết vạch cả một kế hoạch đầy đủ như nàng, Leila chỉ tiếc rằng không có cách nào để liên lạc với Tuấn. Thế nào Tuấn cũng bị cha mình tìm đến hoặc Xalem nhắn nhe cho biết mặc dầu Leila đã khai cả sự thực rằng chính nàng tìm đến Tuấn trước.

Mẹ nàng hỏi:

– Mầy không thấy nhục nhã khi bị một người thù nắm lấy bàn tay sao?

Người mẹ nói thế vì trong lòng bà vẫn từ chối cái ý nghĩ con gái mình đang trong trắng mà dám đem dâng cái trong trắng cho một kẻ không phải là chồng, không phải là người Ả-rập.

Leila bảo: Tuấn không phải là người thù. Ai cầm súng, ai ra lệnh, ai lợi dụng đầu cơ thì mới là những người thù. Anh em một nhà mà còn có thể ghét bỏ nhau, cầm súng nhắm vào đầu nhau. Tuấn chỉ sống như mọi người Ả-rập khác mà thôi, Leila không thể gọi những người như Tuấn là kẻ thù được. Những lập luận ấy ngay cả đến cha nàng, một người thông thạo kinh sử, Xalem một kẻ đã sang du học về chính trị ở bên Pháp mà cũng còn ngơ ngác huống hồ là với một người mẹ chất phác? Sự bị cha giam vào phòng tối, Leila không tự cho việc mình làm là tội lỗi, nhưng nàng vẫn công nhận rằng cha đã hành động đúng với đường lối của cha. Căn phòng này xưa kia của các phú ông vẫn giam những cô vợ trẻ lẳng lơ hoặc gian trá, hỗn láo. Leila cũng can tội lẳng lơ, giam vào đây là phải chỗ lắm rồi. Cha nàng không giết đi còn là nhân đạo.

Có tiếng mở khóa lách tách và giọng mẹ nàng nói vào:

– Con Leila không chịu ăn, bộ mày muốn tuyệt thực cho chết à?

– Con không đói.

Tội nghiệp người mẹ tuy cố lấy giọng lạnh lẽo vì sợ chồng nhưng trong mâm cơm bà cụ đã cố ý để một gắp thịt cừu lớn với mấy trái táo, một tô couscous. Vì biết rằng không vận động thì khó tiêu hoá, nên cụ cố làm cho ngon, may ra Leila chịu ăn. Lúc bày thức ăn lên mâm quả thực lòng người mẹ đã quên mọi sự giận hờn.

Leila nhìn mâm cơm cũng đoán hiểu ý mẹ, nàng hơi hối hận nhưng nàng chẳng muốn ăn, không thấy đói, giọng mẹ lại nói với vào:

– Gắng ăn chứ, không thì làm sao mà đi. Cha cho mày ra nhưng phải về quê ngay. Thật là không biết tao có tội vạ gì.

Giọng người mẹ nghẹn ngào, nước mắt chận cả lời nói.

– Con không ra, mẹ khỏi rầy.

Leila đổi giọng bướng bỉnh giả lời mẹ, nhưng có tiếng khóa cửa lớn mở. Ánh sáng tuôn tràn từ bên ngoài vào làm Leila hoa cả mắt, nàng đứng dậy vươn vai cho giãn gân cốt. Bây giờ Leila mới ngửi ra tất cả các thứ mùi hôi thối xông lên mũi, mùi mốc của gian phòng thiếu khí trời, mùi cái thùng vệ sinh, mùi ẩm thấp. Thế mà hôm nay Leila đã thở quen với những cái mùi ấy, không ngửi thấy gì cả.

Mấy đứa em đứng trố mắt nhìn chị, thằng Mustapha chạy vội đến ôm chân Leila, mấy hôm nay nó tìm mãi mà chẳng biết chị nó đi đâu, hỏi chẳng ai giả lời. Cha mẹ thì cứ lầm lì, mẹ khóc mắt đỏ hoe, thằng bé không hiểu có sự gì. Bây giờ chị nó đứng đấy, nó tin rằng có chị thì mọi người sẽ lại vui vẻ cả.

Sợ Leila tìm cách thông tin với Tuấn nên cha mẹ nàng đã lo chạy tất cả giấy tờ thuê bao riêng cả chuyến xe taxi, đi suốt hai ngày để đưa Leila về quê. Mẹ nàng cũng đã sắp sẵn quần áo chăn màn xếp trong hai cái va ly, Leila ra ăn cơm xong là lên xe ngay. Chỉ mẹ thằng Ahamed được đi cùng. Nhìn nét mặt Leila hốc hác bà Kheda cảm thấy như có muối chà vào vết đứt tay, bà chỉ muốn van lạy chồng tha cho Leila ở lại. Nhưng nhớ đến lời cãi bướng bỉnh của con gái bà biết rằng chồng mình có lý. Tính nó lì lợm như thế, thì rồi thể nào nó cũng lại tìm đến người Pháp ấy, may mà vợ chồng bà tinh mắt đoán biết, nếu không cứ để kéo dài ra rồi Leila mang về một cái bụng thì thật là nguy hiểm biết mấy.

– Đẻ ra quân thù để nó trở lại cầm súng bắn mình. – Lời ông Kheda.

Nghĩ đến đây người mẹ thầm cám ơn đấng chí thiêng còn nhủ lòng thương đến gia đình bà.

*

Đợi cho Leila về quê được mấy bữa rồi ông cụ mới bảo Xalem tìm đến Tuấn, nói cho Tuấn biết.

– Con bé gan góc vô cùng, nó mà ra được mặt trận thì có ích biết mấy. Nó làm mẹ tôi khóc sưng cả mặt mày.

– Anh có giận tôi không?

Tuấn có cảm tưởng Xalem cũng trách mình, nhưng sự thực ra cả nhà đều công nhận rằng không phải lỗi ở Tuấn. Chính ông cụ cũng đã bảo, tao làm đàn ông mà có đứa con gái trẻ đẹp đến gõ cửa thì tao mở cửa chứ dại gì. Xalem cũng đồng ý như thế. Người bị trách không phải là Tuấn mà chính là Xalem. Cả nhà cho rằng nếu Xalem không làm quen với Tuấn ở trên máy bay, không giao thiệp với Tuấn không đòi bắt điện thoại vào nhà thì Tuấn có làm sao gọi được Xalem để rồi gặp Leila và để Leila tìm đến làm quen. Một phần lỗi nữa là vì cha mẹ chiều con gái quá nên mới xảy ra nông nỗi ấy.

Tất cả bà con tản cư ở trong ngôi nhà đều thầm thì bàn tán. Mấy người mẹ khác lấy đó làm gương mà ráng dạy các con, chẳng ai dám cho con gái trả lời điện thoại, chẳng dám để các cô ấy tự do đọc tiểu thuyết như trước nữa. Không có tin tức gì được loan báo nhanh bằng chuyện xấu của một gia đình. Nếu là một chuyện tốt thì người ta để đấy chờ xem kết quả, chờ kiểm soát coi có thật đúng không rồi mới đi kể lại cho người khác, đến lúc kể cũng còn dè dặt chưa tin hẳn. Chuyện xấu thôi thì cho thả ga và sự thêm thắt cũng thả ga luôn.

Chuyện Leila yêu người Pháp đã biến thành Leila vừa sinh ra một đứa con giống hệt như tướng Massu. Mỗi người thêm bớt một tí và cha mẹ Leila đi ra đường phải cúi đầu không dám nhìn ai cả.

Bao giờ Algérie độc lập, lạy trời những cái tính ấy cũng sẽ mất đi, thiên hạ còn mãi lo tranh đấu cho được bằng người, đâu có thì giờ mà ăn không ngồi rồi như thế. Chẳng ai nhàn rỗi bằng cái dân chạy nạn. Suốt ngày có bận gì đâu. Không có phòng thông tin nào làm việc giỏi bằng mấy cái sân thượng của các bà. Xalem hằn học nói với Tuấn những sự bực tức của mình, chính mấy hôm nay Xalem cũng phát cáu lên với dư luận. Ai gặp cũng thầm thì chuyện Leila theo trai.

– Bao giờ độc lập tôi sẽ về lại đây sống với anh. Ngày ấy chắc sẽ khỏi bị xem như một kẻ thù.

Tuấn thầm phục Xalem vì sao câu chuyện đã xảy ra như thế mà Xalem vẫn tiếp tục coi Tuấn như bạn không có gì thay đổi. Mấy ông anh khác thì phải biết.

Tuấn nói sẽ trở lại ngày nào Alger độc lập và chàng biết rằng mình cũng phải quay về Paris. Trong sở mọi người đều ghét Tuấn bởi Tuấn không bênh vực và còn công kích những sự cấm báo kiểm duyệt của chính phủ ở Alger.

Mấy ông chân đen cùng sở thì luôn luôn có một luận điệu: cái va ly hay là cái hòm chúng ta không thể nào rời bỏ quê hương của chúng ta. Đất đai mà ông cha ta đã mất bao nhiêu mồ hôi nước mắt mới tạo nên để cho ba cái thằng ratons, melons, bicots ấy thì làm được cái thá gì, nếu một ngày kia vào công sở nào mà chủ sở là một tên Ả-rập thì chúng ta chịu làm sao nổi.

Cái hòm hay cái va ly đúng lắm rồi chứ còn gì nữa. Họ không ngừng trách tướng De Gaulle là phản bội. Nhờ ai mà được lên chức Tổng thống, hứa hẹn với người ta đủ điều bây giờ thì trở mặt. Từ chân đen nhỏ đến chân đen lớn, ông nào cũng phác họa trong đầu óc một phương kế làm sao để bắt cóc De Gaulle.

Mỗi lần nghe nói thì Tuấn cứ y như người bị điện giật, thế nào chàng cũng phải trả lời:

– Tôi là đứa đã bỏ phiếu không cho De Gaulle, tôi không phải gaulliste thế mà càng ngày mình càng phải nhận là ông già khôn ngoan.

Câu nói của Tuấn được trả lời bằng những cái nguýt, háy, trừng, bĩu môi, nhún vai, đủ cả. Nhưng Tuấn vẫn không chừa, chàng còn dọa: Các anh muốn phải có một trận Điện Biên Phủ nữa mới chịu rút lui chứ gì.

Chính Leila cũng nhiều lần van lạy Tuấn hãy giữ mồm giữ miệng:

– Anh liệu hồn có ngày chúng nó thủ tiêu anh.

Nhưng Tuấn thuộc cái loại người gàn trong xã hội, chàng bực tức mỗi khi đi dạo ở Paradou nhìn những ngôi nhà tối tân mỹ thuật, vườn rộng thênh thang, trồng cỏ xanh rờn cho mát mắt chủ nhân. Trong lúc bao nhiêu người dân Ả-rập nghèo không có lấy một mảnh đất để dựng cái lều che nắng mưa. Dạo ở Paradou như lạc vào thiên thai, đi thêm vài cây số nữa thì ngược lại, những cái bidonvilles lụp xụp, mái « tôn » hoặc sắt lấy ở thùng «ét xăng » trải ra nóng bỏng khi trời nắng, dựng san sát bên nhau, ở vào mấy khoảng đất trống, mùa mưa nước đọng hằng năm bảy ngày chưa chảy hết. Nếu Tuấn không đồng ý với những vụ bạo động của mấy ông Ả-rập giết bao nhiêu người vô tội ở các nơi thì chàng cũng bực tức khi thấy những cảnh bất công ấy. Người như Tuấn đi đâu cũng bị ghét. Ở Paris, Tuấn có lần đi dự một buổi hội họp của mấy ông Ái hữu gì đó. Chàng ra về với những ý nghĩ tinh quái, chàng nói với mấy người bạn cùng đi: Loại dân ấy mà đến tám mươi năm mới bị đuổi ra khỏi nước thì các anh cũng đã kiên nhẫn.

Sự thật bao giờ cũng không nên nói ra mà Tuấn dám nói.

Vì thế, tất cả mọi người trong sở đều ghét Tuấn, đều muốn tìm cách đuổi Tuấn về Paris. Họ cảm thấy sự có mặt của Tuấn không giúp ích gì cho họ mà còn làm hại bằng cách bày vẽ cho những người Ả-rập khác xem thường họ. Tuấn cất mũ chào người phu dọn nhà, mời người gác cửa hút thuốc v.v… Ai mà chịu nổi những cử chỉ ấy.

Theo lời khuyên của Xalem và một vài người quen khác, Tuấn nên trả về Paris. Chàng đồng ý nhưng trong lòng hơi buồn, từ nay sẽ xa cách Leila hơn tí nữa. Biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại nhau.

Hai vợ chồng Xalem hẹn sẽ giúp đỡ Tuấn. Đời còn may mắn, còn có người biết cắt đứt những sợi dây ràng buộc bầy nhầy, vô lý của thành kiến, của sự thù hằn, ích kỷ, giả dối.

*

Ngồi trên máy bay nhìn xuống thành phố Alger mỗi phút một xa dần Tuấn bỗng cảm thấy bơ vơ, bơ vơ như ngày tiễn mẹ ra nghĩa trang, như ngày đưa Phượng lên máy bay, như ngày cha cưới vợ mới.

Lần này là lần thứ tư Tuấn thấy cái cảm giác ấy trở lại với mình tuy mỗi hoàn cảnh một khác hẳn nhau, nhưng sự bơ vơ thì chẳng có gì thay đổi. Con người sinh ra khỏi lòng mẹ là đã phải bơ vơ rồi chăng, ai có thể tự hào rằng mình không bơ vơ, hoặc là họ không biết hay chưa nhận thức biết đấy thôi.

Nghĩ đến Phượng, có lẽ Phượng cũng đã bơ vơ trong cuộc sống của nàng sau những đêm thức trắng ở các tiệm nhảy phòng trà hay sau một giấc ngủ nhọc mệt tỉnh dậy trong cánh tay của một nhân tình xa lạ, nhìn lại những đống tàn thuốc, những vỏ chai rượu vứt ngổn ngang. Hẳn Phượng cũng đã đó lần cảm thấy bơ vơ, nhưng vì tự ái nên nàng không chịu thú nhận đấy thôi. Bơ vơ nên Phượng mới tìm hết người này đến người khác như thế mà rồi chưa người nào có thể giúp nàng phá tan được những cảm giác ấy.

Tuấn cảm thấy thương hại Phượng, tội nghiệp Phượng, cũng như Tuấn đã thương hại và tội nghiệp cho mình.

Phượng và Leila là hai người đàn bà đã đến trong cuộc đời Tuấn. Leila cũng bơ vơ không kém, sống trong mái gia đình cổ kính, trong một xã hội chật hẹp, trong hoàn cảnh chiến tranh ở giữa thế kỷ hai mươi và khi người ta chưa đầy hai mươi tuổi, làm sao không bơ vơ.

Cử chỉ liều lĩnh của Leila đã đập tan một nền giáo-dục đó là cả một phản ứng lại sự đè nén áp bức của một tâm hồn không có bạn, không được ai hiểu biết.

Tuấn nhất định thế nào cũng sẽ trở về Alger tìm lại cô gái Ả-rập kỳ lạ ấy.

– Algérie sẽ độc lập.

Tuấn nói lên như để tự an ủi mình.