Chương 5 Quen lối
Một canh giờ sau, hai người đã theo chân con ngựa đen ra khỏi cửa Khai Nguyên. Tuyết ở ngoài thành dày hơn trong thành, con đường cũng bởi thế mà trở nên khó đi. May là con ngựa vẫn cứ không nhanh không chậm tiến tới, không hề có dáng vẻ ngần ngừ dù chỉ một chút.
“Ngựa già quen lối, quả nhiên không sai.” Uất Trì Phương hớn hở không thôi, lỏng tay cương để con ngựa tự tìm lấy đường: “Huynh coi, con ngựa này thật sự đang đi con đường ngày nọ.”
Vừa khéo tương phản với vẻ tinh lực tràn trề của đồng bạn, chủ quán rượu cuộn chặt tấm chăn trên người mà đi theo sau, thần sắc rũ rượi phạc phờ, tựa như hận không thể rúc toàn thân vào trong chăn lông để chống cự khí lạnh bốn bề theo cảnh chiều tà ập tới.
“Đây chính là nơi án mạng phát sinh sao?”
“Không sai.”
Trong không khí phảng phất mùi máu tanh, cái thứ mùi khiến người ta không thoải mái này dẫn tới một vài liên tưởng càng không thoải mái hơn. Vài tiếng khóc thét theo làn gió vọng tới, khiến hiệu úy triệt để biến sắc.
“Là nạn dân ngoài thành.” Lý Thuần Phong không dừng bước chân, nhàn nhạt nói. “Gần chỗ này có gò Loạn Táng, người đã khuất sẽ đưa tới chỗ đó. Người bị sát hại đêm qua hẳn cũng ở nơi ấy. Lẽ nào huynh chưa từng nghe nói đất này là hung thành sao?”
Cách cửa Khai Nguyên độ khoảng năm dặm có một ngôi thành cũ của triều trước. Tương truyền lúc xây thành có chuyện quái lạ, cứ xây lại đổ, lặp đi lặp lại. Về sau bèn đem tất tật thợ xây thành chôn sống dưới nền, thành này mới xây xong. Từ đó thường hay có chuyện ma quỷ, nửa đêm có tiếng xây tường, nghe bảo là oan hồn của đám công thợ không tan, mò ra quấy phá. Không ai dám ở nơi này, chỉ đành dùng nó làm bãi tha ma. Có kẻ rỗi hơi từng đánh cuộc với người khác, nửa đêm ngủ lại đây, kết quả bị quỷ hồn mê hoặc, phát điên mà chết. Từ đó chớ nói là ban đêm, ngay cả ban ngày cũng ít ai dám đi ngang qua đây. Nghĩ tới muôn kiểu đồn đại, kẻ to gan như Uất Trì Phương cũng có chút khó chịu, liền vội vàng đổi đề tài.
“Còn may thiên tai không hại tới kinh thành, nghe bảo một dải Lũng Tây người chết vì đói không ít.”
Người bên cạnh chẳng buồn mở mí mắt, nói: “Sao huynh biết là không hại tới kinh thành?”
“Chí ít phần quân lương mà huyện Hoa Nguyên trực thuộc kinh thành phải cung ứng toàn bộ đã nhập kho, không những không giảm mà còn hoàn thành vượt mức. Huyện lệnh Phương Khác, Phương đại nhân nhờ đó mà được khen thưởng đề bạt.”
“Đã là thiên tai, lẽ nào ông trời lại chỉ ưu ái có mình Hoa Nguyên?”
“Chuyện này ta cũng không rõ, có điều nghe Phương đại nhân nói, là do ông ta phòng ngừa chu đáo, đốc thúc nông dân cày sâu gieo rộng, nhờ đó mà không bị ảnh hưởng.”
“Thế thì đám lưu dân ngoài thành phải giải thích thế nào?”
“Lưu dân đa số là từ khu vực bị thiên tai xa xôi chạy nạn tới, còn như vùng này thì lại chẳng có là bao.”
“Xem ra, vị Phương đại nhân này quả thật là có tài làm rường cột nước nhà.”
Lời Lý Thuần Phong tuy là lời khen nhưng ngữ điệu lại khá là cười cợt không nghiêm túc, chẳng phân rõ được khen hay chê. Uất Trì Phương trong lòng không vui, đang định mở miệng, bên tai lại nghe được gì đó. Lần này thì không giống âm thanh của con người mà tựa như tiếng kêu gào của dã thú phát ra trước khi chết, sắc trời đã dần ngả tối, bầu trời phản xạ ánh sáng trên đồng tuyết, chuyển thành màu hồng đậm như máu, nhìn vào cực kỳ quái dị.
Vó ngựa ô vẫn đang không nhanh không chậm tiến tới, Lý Thuần Phong thì đã đứng lại.
“Hay là quay về trước đã?”
“Sao cơ?”
“Muộn quá rồi, hoang vắng thế này… sợ không tiện.”
“Không tiện?”
“Ừm…”
Đầu tiên Uất Trì Phương không mò ra đầu cua tai nheo, tới khi trông thấy bộ dạng co ro cúm rúm của người nọ mới hiểu hóa ra đối phương thấy sợ. Hiệu úy không khỏi nổi cơn thịnh nộ: Nếu không phải cái vị chưởng quầy họ Lý này một mực bảo không được cưỡi ngựa thì cũng không đến nỗi rề rà tới tận bây giờ. Tham tài lại nhát gan, không khách khí mà nói, kẻ này đơn giản chính là gánh nặng chẳng hề có chút tác dụng.
“Có ta đây, sợ cái gì?”
“Các hạ võ nghệ cao cường tự nhiên không sợ, nhưng Lý mỗ trói gà không chặt.” Lý Thuần Phong làm như không thấy bộ mặt càng ngày càng đen của hiệu úy: “Huống chi, kể cả không có ma quái yêu tà gì, nhỡ gặp phải giặc cướp, nói không chừng sẽ tốn kém. Tùy Ý lâu kia của tại hạ kinh doanh nhỏ, không có nhiều ngân lượng như thế…”
Không đợi hắn nói xong, Uất Trì Phương “keng” một tiếng, rút bội đao ở eo lưng ra một nửa, lại thu vào, quắc mắt gằn giọng: “Có đi hay không?”
Lại thở dài một tiếng, sắc mặt gã chủ quán rượu như vừa bị người ta ghi sổ hai trăm văn tiền: “Đi.”
Bốn bề đã thành đống tuyết mênh mang, không nhận rõ được đường đi. Bóng cây khô, đá lạ, tường thành hoang phế lộ ra mờ ảo, tựa như quái thú rình cắn người. Chính lúc này, dây cương trong tay Uất Trì Phương chợt hẫng, con ngựa đen hí dài, vùng thoát xông về phía trước. Hắn vội vàng đuổi theo, bỗng thấy con ngựa dừng trước một đoạn tường thành đổ nát, lỗ mũi phì phì. Hơi thò đầu nhìn, lập tức sợ điếng người: Sau đoạn tường thành đó chồng chất lộn xộn mấy chục thi thể, mặc dù bên trên dùng chiếu phủ, lại có tuyết rơi đầy, trong ánh sáng mặt tuyết phản chiếu vẫn thấy rõ được tứ chi căng cứng cùng mái tóc khô hỗn loạn lộ ra ngoài.
“Khó trách trong thành Trường An có lời truyền, ‘Ngoài cửa Khai Nguyên, Loạn Táng cương. Ai đi tới đây chẳng hồi hương’.” Một giọng nói bình tĩnh tới khác thường vang lên, ra là Lý Thuần Phong. “Hẳn đúng là đây rồi. Người bị sát hại đêm qua chắc cũng ở đây.”
Uất Trì Phương nghe thế sững người, một luồng khí lạnh dâng lên trong lòng. Bãi tha ma trống trải lặng ngắt như tờ, chỉ nghe thấy từng đợt hu hu quái đản, đấy là hai con chó hoang gầy tới đáng sợ đang tranh ăn. Xem kỹ thì nhận ra là một đoạn xương đùi máu me đầm đìa, ắt hẳn giằng từ trên thây người chết đói chưa kịp chôn cất. Mấy ngày nay hiệu úy phụng lệnh tuần tra, mỗi ngày đều nhìn thấy hiện trạng thê thảm của nạn dân, ức chế tích tụ lại đang không chỗ phát tiết, bèn cúi xuống nhặt một bụm tuyết, nhắm chuẩn chó hoang mà ném, khiến chúng phải nhả miếng ăn trong miệng xuống hoảng hốt bỏ chạy, lúc này hắn mới thở ra một ngụm ác khí thật dài. Bỗng Lý Thuần Phong nói: “Cho dù có đánh chết hết chúng nó cũng chẳng cứu nổi ai. Không cần uổng phí sức lực.”
Hắn vẫn dùng thứ ngữ khí biếng nhác chẳng thèm quan tâm nọ, lúc này nghe vào đặc biệt chối tai, như thể đang giễu cợt. Trong lòng Uất Trì Phương bừng nộ, quay lại nhìn thì thấy hắn đã ngồi xổm xuống, vén cái chiếu đang phủ lên một thi thể trong số đó. Đây là một bé gái xem ra chỉ độ mười ba đến mười bốn, toàn thân trần truồng, gầy yếu cực độ. Bản năng sinh tồn khiến một khi có người chết đi, người còn sống liền vội vàng đoạt lấy tất tật mọi thứ trên thi thể họ, gồm cả chút quần áo mỏng manh tới đáng thương nọ. Ánh mắt chạm tới bộ ngực gầy gò tím tái của cô bé, hiệu úy vội vàng quàng chiếu, che thi thể lại.
“Ấy, làm cái gì thế?”
“Làm cái gì?!” Hiệu úy đầy một bụng giận giữ. “Chết oan đã đủ đáng thương, vì sao còn phải khiến cô bé phơi bày thân thể?”
Lý Thuần Phong lắc đầu, ôn hòa nói: “Linh hồn thoát xác, còn lại chỉ là bộ xương với túi da, chẳng hay chẳng biết. Nếu không tra xét, làm sao biết được đã có chuyện gì xảy ra. Tấm lòng Uất Trì đại nhân tuy tốt nhưng không được tính thông đạo tra án lắm.”
Lời vừa dứt, mắt Lý Thuần Phong bỗng sáng lên, đưa tay nhặt lên một đồ vật dưới đất. Đây là một cái khăn rơi ngay cạnh thi thể. Dưới ánh sáng nhạt nhòa, hắn lật tới lật lui cái khăn để xem xét, lại đưa lên mũi ngửi ngửi, sau cùng chẳng chút áy náy đút vào tay áo mình. Hiệu úy trông thấy mà rùng mình, trừng mắt với đồng bạn: “Cái gì mà bộ xương túi da, thảm trạng là thế, lẽ nào huynh chẳng có chút lòng trắc ẩn?”
“Trời đất chẳng có lòng nhân, coi vạn vật chỉ như chó rơm.* Lý mỗ chỉ là kẻ làm ăn tầm thường, chẳng quản được nhiều như thế.” Vừa nói, gã vừa đứng dậy, thản nhiên rúc tay vào trong tay áo. “Có lòng nhưng không có sức, trắc ẩn đành dằn lại.”
Câu trong Đạo đức kinh: Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Ý muốn nói trời đất không có lòng nhân, không ưu ái, thương xót riêng ai, trước trời đất mọi vật đều như nhau, đều chỉ là thứ chó rơm thôi. Sô cẩu: Thời cổ đại, người ta tết rơm cỏ thành hình con chó dùng trong việc tế tự. Sau dịp tế tự đồ vật này trở thành đồ bỏ, không có giá trị. (DG)
Giọng ôn hòa mà trầm thấp, trong cái cảnh trời đêm rét buốt này nghe có vẻ tịch liêu. Dưới ánh sáng tuyết phản chiếu, khuôn mặt nam tử lạnh lùng, thậm chí là băng giá. Uất Trì Phương sửng sốt, từ lúc quen biết chưa từng thấy đối phương có thần sắc này. Chẳng kịp nghiền ngẫm ý vị trong lời đối phương đã buột miệng: “Có sức hay không có sức cái gì, cứu được người nào hay người nấy, giúp được lúc nào hay lúc ấy. Tóm lại không thể thấy nguy không cứu, gặp nạn không giúp chứ?”
Trong mắt Lý Thuần Phong chợt lóe lên một thứ ánh sáng như sương lại như điện rồi vụt tắt, vừa giống như ngạc nhiên, lại tựa như khen ngợi. Nét cười bên khóe môi thoáng cái lan ra, cứ như nắng xuân ấm áp, khiến cả khuôn mặt trở nên ôn hòa.
“Uất Trì, huynh đúng là người khiến kẻ khác bất ngờ.”
Uất Trì Phương cho rằng đối phương đang nhạo báng mình, không khỏi phẫn nộ. “Cười cái gì mà cười, ta nói là lời thực.”
Lý Thuần Phong đang định đáp lời, sắc mặt đột nhiên thay đổi, ngón tay đưa lên môi, “suỵt” một tiếng. Hiệu úy nghiêng tai lắng nghe, dường có thứ âm thanh kỳ quái mơ hồ vọng tới, tựa như tiếng đàn chợt vang chợt ngắt, không thành điệu khúc, bên trong còn lẫn tiếng lạo xạo của bánh xe. Uất Trì Phương kinh ngạc ngẩng đầu, bỗng trông thấy phía trước có một đốm sáng lúc tỏ lúc mờ, lơ lơ lửng lửng.
Đấy là một chiếc đèn lồng, mắc vào cần trúc treo trên một cỗ xe ngựa. Xe không có mái, chỉ lấy chiếu lau phủ qua loa; bánh xe nghiến trên tuyết phát ra âm thanh đơn điệu kẽo ca kẽo kẹt, ở nơi yên ắng nghe thấy, chói tai hệt tiếng sắt thép mài nhau. Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là xe vận chuyển thi thể trong thành. Điều kỳ quái chính là trước xe thây người đánh xe. Uất Trì Phương tuy to gan nhưng trông thấy cảnh tượng này cũng không khỏi sởn gai ốc trong lòng, tay bất giác đặt lên chuôi đao, lại bị ai đó giữ lại. Quay đầu nhìn liền thấy chủ quán rượu lắc đầu với mình, ra hiệu bình tĩnh quan sát biến động.
Mắt thấy chiếc xe nọ dừng cạnh gò Loạn Táng, bất thình lình chiếu phủ trên xe vén tung, một người ngồi dậy từ giữa đống thi thể, sự tình đột ngột không kịp phòng bị, Uất Trì Phương buột miệng “A” một tiếng, người nọ lại như căn bản chẳng hề nghe thấy, nhảy xuống xe, nhấc đèn lồng, lảo đảo đi tới bên hố. Ánh đèn mơ hồ chiếu lên một khuôn mặt gầy gò cực độ, trông như một cái đầu lâu bọc da bên ngoài. Nếp nhăn ngang dọc đan nhau chiếm cứ toàn bộ bộ mặt, tựa như đao khắc rìu đục, ngay ngũ quan cũng trũng sâu trong những đường hằn ấy, cả khuôn mặt giống hệt người bùn bị ánh mặt trời chiếu cho nứt nẻ, quái đản khôn tả.
Hiệu úy không nhịn nổi nữa, thẳng người tiến ra, quát: “Người nào?” Người nọ không hề đáp lời mà đảo đảo đôi mắt trống rỗng thẫn thờ, nhặt cánh tay đứt dưới đất lên rồi bỗng há miệng, lộ ra hàm răng trắng ởn sin sít cắn xuống. Uất Trì Phương toàn thân lạnh toát, hét lớn một tiếng, rút bội đao chém về phía trước.
Chính vào một thoáng ấy, bên tai hắn bỗng nghe có tiếng cười lạnh trầm thấp. Kế đó trước mắt đột nhiên chợt sáng, đấy là một luồng sáng lửa bay vọt lên không, hóa thành trăm ngàn đốm sáng, chụp xuống mình. Hiệu úy theo bản năng lùi lại một bước, đổi công thành thủ, tay múa trường đao. Người đời đều biết Uất Trì Cung dựa vào cặp roi để thành danh mà lại không hay cái người đó sở trường nhất kỳ thực là đao pháp, chỉ vì bội đao không thích hợp với việc cưỡi ngựa chiến đấu nên mới bỏ đao dùng roi. Đao pháp của Uất Trì Phương là do chú ruột truyền thụ, thực sự tinh thâm, lúc này thi triển ra quả thật hệt như một màn sáng, bảo hộ toàn thân. Đốm sáng theo đao múa mà rơi xuống, nhìn kỹ hóa ra không phải ám khí mà là các mảnh giấy cháy, lúc rơi xuống đất đã hóa thành tro. Uất Trì Phương còn đang kinh nghi, người ban nãy đã biến mất ngay trước mắt. Vội vàng nhìn lại, cỗ xe ngựa chở thi thể cũng chẳng thấy đâu nữa, dấu vết trên đồng tuyết trắng phau cũng mờ mịt, dường như tất thảy những thứ vừa trông thấy ban nãy đều chỉ là ác mộng.
Lưng hiệu úy lúc này đã ướt đẫm mồ hôi. Hắn cầm chắc bảo đao trong tay, gắng hết sức giữ vững tinh thần. “Chớ có giả thần giả quỷ, bước ra cho ta!”
Đúng lúc ấy, đằng sau lưng vọng tới tiếng vó ngựa phi gấp, Uất Trì Phương hoang mang quay đầu lại: Chính là con ngựa đã đưa mình cùng Lý Thuần Phong tới nơi này. Bóng người trên lưng ngựa cao to, bảo đao đen tuyền trong tay sáng loang loáng, rõ ràng chính là thanh bảo đao đúc bằng thép đen Thôi Nguyên Khải từng sử dụng lúc sinh tiền. Tình này cảnh này, tựa như cảnh tượng dưới chân thành đêm nọ lại tái hiện. Uất Trì Phương theo bản năng ngẩng đầu nhìn, trong chớp mắt lông mao toàn thân dựng đứng: Kỵ sĩ trên lưng ngựa mặc áo choàng đen, chỗ vốn nên có cái đầu thì trông không, đấy chẳng phải Thôi Nguyên Khải đã khuất thì còn là ai vào đây?