← Quay lại trang sách

Chương 9 Tượng đồng

Trong phòng tạm thời yên tĩnh. Lý Thuần Phong liếc đối phương một cái, bỗng nhiên mắt thoáng lóe sáng: “Có muốn biết người nọ chết như thế nào không?”

“Không!” Hiệu úy chẳng chút suy nghĩ buột miệng thốt, kế đó định thần lại. “Người đó sao lại chết thế?”

Nét cười tủm tỉm hiện lên khóe môi Lý Thuần Phong:

“Dùng ngân châm thử thì thấy trong máu không có độc. Phủ tạng hoàn hảo, tim đúng là bị moi ra nhưng sau khi mổ banh, bên trái hiện màu xám trắng, cũng không hề có dấu máu chảy mà lại có vết bầm tím.”

“… Thế nghĩa là gì?”

“Là hiện tượng máu trong tim đột ngột dừng chảy. Tim là thần khiếu*, thất tình lục dục đều phát động từ nó, quá buồn quá vui, quá sợ quá giận đều có thể khiến máu trong tim tạm thời dừng chảy.” Gã chủ quán rượu lắc đầu, nói: “Nhưng người này rõ ràng không thuộc vào loại ấy, ngược lại rất giống tâm mạch đột nhiên bị đứt vỡ trong một khoảng thời gian cực ngắn.”

Khiếu: Lỗ. “Thất khiếu” là hai lỗ tai, hai mắt, miệng, hai lỗ mũi. Đồng thời “khiếu” cũng chỉ những bộ vị quan trọng trên cơ thể, tức các “khiếu huyệt”. (DG)

“Không hiểu.”

“Đưa tay ra.”

Uất Trì Phương tuy không rõ đối phương muốn làm gì nhưng vẫn thành thành thật thật đưa tay trái ra, mà đối phương cũng chẳng chút khách khí chụp lấy một chỗ trên cánh tay hắn rồi đột nhiên véo mạnh một cái.

“Ái! Huynh làm, hức làm, làm gì thế?”

Câu này gần như nói không xong được, bởi vì Lý Thuần Phong vừa ra sức véo, thân thể hắn liền không tự chủ được nhảy dựng lên, trước sau ba lần ra sức véo, câu nói nọ cũng theo đó ngắc ngứ ba lần.

“Thứ lỗi!” Lý Thuần Phong buông tay hiệu úy, trên mặt chẳng có chút xíu ý tứ xin lỗi nào. “Trong sách Hoàng đề nội kinh có chương ‘Linh khu’, nói về kinh mạch trên thân thể con người. Một người bình thường khỏe mạnh, kinh mạch toàn thân tự nhiên là thông suốt, ví dụ mới rồi ta đè vào huyệt Khích Môn của huynh, khí huyết bị ngăn trở liền tạo thành phản xạ cơ thể.”

Uất Trì Phương hậm hực rụt tay về, xoa xoa cánh tay tê dại. “Thế thì làm sao?”

“Nếu như kích thích một vài huyệt vị đặc thù, quả thực có thể khiến kinh mạch bị tắc ứ, tâm trí mơ hồ, từ đó tiến tới khống chế thân xác người khác. Điểm này trong nội kinh không chép kỹ, cũng có người cho rằng Hoàng đề nội kinh được lưu truyền lại không phải là bản gốc, trong sách gốc có chương này, nhưng vì lo có kẻ lòng dạ bất lương lợi dụng cho nên cố ý loại bỏ. Các loại giả thuyết lộn xộn, mãi không ngã ngũ; mãi tới thời Chiến Quốc, xuất hiện một vị thần y tên gọi Biển Thước, người thời ấy tôn sùng y thuật của ngài không thôi, thậm chí còn bảo ngài có thuật cải tử hoàn sinh, có điều về sư thừa của người này thì lại chẳng ai biết được gì.”

“Chân tướng của sự việc được làm sáng tỏ vào lúc nhà Tần diệt sáu nước. Sau khi Doanh Chính đánh vào nước Tề, ở trong cung tìm được một hình vẽ kinh mạch, vừa trông thấy đã không khỏi hoảng sợ: Trên đồ hình ngoài biểu thị kinh mạch bình thường còn có cả kỳ mạch, khác hẳn hình vẽ kinh mạch lưu truyền phổ biến thời bấy giờ, đây chính là thứ Biển Thước để lại. Nghe nói, chính là chương bị hủy đi trong Linh khu, trong đó bao hàm thuật pháp khống chế kinh mạch, được gọi là thuật con rối.”

“Thuật… con rối?”

“Không sai. Lúc bấy giờ Thủy Hoàng vừa mới thống nhất thiên hạ, để diệt sạch hậu họa bèn thu gom binh khí toàn thiên hạ về cửa Hàm Cốc, đúc thành mười hai bức tượng đồng, rồi đem đồ hình này khắc lên hai bức trong đó, cất giấu vào trong cung A Phòng, không tùy tiện để kẻ khác trông thấy.”

“Tượng đồng này có phải vẫn còn tồn tại?”

“Thời Đông Hán lúc Đổng Trác nắm quyền bính, vì thu gom kim loại đi đúc tiền bừa bãi dẫn tới việc thiếu đồng nghiêm trọng, không thể không đem mười bức tượng đồng trong số đó nung ra. Chỉ lưu lại có mỗi hai bức, đấy chính là tượng đồng có khắc kinh mạch trong nội cung A Phòng thuở trước. Tai kiếp của tượng đồng không chỉ dừng ở đây, trăm năm sau, hai bức tượng đồng còn lại cũng bị Phù Kiên nhà Tiền Tần hủy hoại, từ đó tung tích của đồ hình kinh mạch Linh khu cũng không còn ai biết được.”

Mấy chuyện này đều là cái chưa từng nghe qua, nếu là trước lúc này, hiệu úy tất sẽ mắng loại chuyện này là ăn nói bậy bạ, nhưng với những thứ đã trải qua từ lúc quen biết tới giờ, trong lòng hắn không khỏi sinh ý kính trọng cùng bội phục đối với người này. Hắn nghĩ một chút rồi cẩn thận hỏi: “Lý huynh làm sao biết được những chuyện ấy?”

“Người bình thường ai cũng có sở thích của riêng mình, ham mê của Lý mỗ chính là sưu tầm những chuyện thú vị trên đời. Trăm năm đời người đằng đẵng là thế, nếu không có mấy chuyện linh tinh để giết thời gian, há chẳng vô vị quá mức sao?”

“Cái sở thích này quả thật…” Uất Trì Phương nghĩ mãi mà không biết nên hình dung thế nào, chỉ đành nói: “Quả thật… khác người.”

“Quá khen.” Lý Thuần Phong thản nhiên như không, tách vỏ một củ lạc: “Thật ra ngoài chuyện này, tại hạ cũng có vài sở thích giống hệt người khác.”

“Ví dụ như?”

Liếc bộ mặt tò mò pha chút kính sợ của hiệu úy, gã chủ quán rượu dùng một thứ ngữ khí thành thật để bày tỏ: “Ví dụ như, ngân lượng.”

“… Lý huynh!”

Trên khuôn mặt Uất Trì Phương tràn ngập vẻ tức tối sau khi bị trêu chọc, Lý Thuần Phong cười lớn.

“Được rồi được rồi, không nhắc chuyện linh tinh nữa. Uất Trì có sẵn lòng cùng ta đi một nơi không?”

“Đi đâu thế?”

“Y lời hẹn.” Nhìn khuôn mặt thắc mắc của hiệu úy, Lý Thuần Phong cười bảo: “Mỗi tội không phải lời hẹn của ta mà là của huynh.”

“Xin thứ lỗi, Liễu cô nương đã tới phủ Tôn Tư Mã, hôm nay không thể bồi tiếp.”

Nữ đồng đáp lời trông chỉ tầm mười bốn mười lăm, vậy mà ứng đối lanh lợi, thái độ chín chắn hơn xa so với đám trẻ đồng lứa, tuổi tuy hẵng nhỏ nhưng đã có chút vẻ phong tình quyến rũ. Lúc này hai người kia tới trước Minh Thúy các, muốn hỏi thăm ca cơ Liễu Ngũ Nương ngày trước thiếu chút nữa thì bị ngựa lồng đụng thương trên chợ, sau lại được Uất Trì Phương cứu giúp. So với các giáo phường trăng hoa khác trong thành Trường An, nơi này thật sự có thể khen là chốn phong nhã, tới đứa hầu nhỏ coi cửa cũng nói năng nhã nhặn.

Uất Trì Phương là nam tử thẳng tính, nghe thế liền bảo: “Nếu đã vậy, ngày khác lại tới xin bái phỏng.”

Hắn vừa định quay, nào ngờ bị Lý Thuần Phong tóm lại. Đang kinh ngạc thì thấy đối phương nháy mắt với mình rồi quay đầu bảo nữ đồng: “Đáng tiếc, bọn ta mộ dung mà tới, vị Uất Trì đại nhân này tơ tưởng Liễu cô nương đã lâu, sớm nhớ chiều mong, thao thức ước ao, nếu không thể trông thấy mặt hoa một lần, chỉ sợ từ đây tương tư thành bệnh.”

“Cái… cái gì cơ?”

“Ai da, biết thưởng thức sắc đẹp liền yêu thích hạng thanh xuân mỹ miều*, đây thực là thường tình của con người, Uất Trì hà tất phải giấu giếm.” Lý Thuấn Phong làm như không thấy bộ dạng lúng túng của hiệu úy, tiếp tục nói: “Có thể châm chước để bọn ta tới phòng Liễu cô nương đợi được chăng?”

Lời trong sách Mạnh Tử thiên Vạn Chương thượng: “Nhân thiêu tắc mộ phụ mâu, tri hiếu sắc tắc mộ thiếu ngải, hữu thê tử tắc mộ thê tử, sĩ tắc mộ quân, bất đắc vu quân tắc nhiệt trung. Đại hiếu chung mộ phụ mẫu, ngủ thập nhi mộ giả, dư ư Đại Thuấn kiến chi hỹ.” tức: Con người ta lúc nhỏ thì ngưỡng mộ cha mẹ, tới lúc biết thưởng thức sắc đẹp thì yêu thích thiếu nữ xinh đẹp, khi có vợ ắt ưa thích vợ, làm quan thì tôn sùng vua, không được vua thích thì trong lòng nóng nảy. Bậc đại hiếu thì tới cuối đời vẫn yêu kính cha mẹ, tới năm mười mà vẫn còn như thế, ta chì thấy ở mỗi Đế Thuấn mà thôi. (DG)

“Chuyện này…” Nữ đồng ngập ngừng một thoáng. Hiệu úy phong thái hiên ngang, thiếu niên anh võ, lại toát cả một thứ chính khí trung hậu, tuyệt đối chẳng phải dáng vẻ của hạng con em quyền quý dâm đãng chốn gió trăng; người còn lại thì tiêu sái lịch lãm, cười nói thân thiết, khiến người ta vừa thấy liền sinh hảo cảm, không nỡ cự tuyệt lời thỉnh cầu của hắn. “Được rồi, để em đưa các ngài tới phòng cô nương.”

Hương thầm thoang thoảng, hơi ấm êm đềm. Đây là một gian phòng khách không lớn, một tấm rèm châu chia cách trong ngoài, trang trí không tính là xa hoa mà trang nhã phù hợp. Trên tường có treo một cây cổ cầm sắc gỗ đẹp đẽ, gần cửa sổ là một cái sạp, trên có trải qua loa tấm đệm ngồi bằng da hồ ly trắng bạc. Trên bàn là một cái bình màu trắng, cắm vài nhánh mai hồng, cành khô gầy vươn nghiêng tán rộng, đẹp tựa như nét bút thần tô vẽ. Trên tường đối diện lại treo một bức chữ, bút lực cứng cáp tựa muốn phá giấy mà ra, hẳn là do nam tử viết.

Uất Trì Phương ngồi ngay ngắn nghiêm túc, bứt rứt không thôi. Từ nhỏ hắn theo thúc phụ, về sau gia nhập phủ Huân Vệ, ngoài tập võ với chấp hành công vụ ra, đa phần là uống rượu cùng đồng liêu, thi thoảng cũng tới sòng bạc, còn chốn trăng gió như thế này cực ít mon men, càng đừng nói tới chuyện bước vào khuê phòng của con gái. Mũi ngửi thấy trong làn hương xông còn pha chút mùi phấn son nhàn nhạt, vừa suy nghĩ xa xôi, lại có chút không tự nhiên. Lý Thuần Phong thì chẳng chút bận tâm, ngả người trên kỷ, tiện tay nhón bánh trên bàn đưa vào miệng, tùy ý hệt như đang ở trong nhà mình.

“Sao phải tới chỗ này?”

“Đương nhiên là để giải tỏa nỗi khổ tương tư của Uất Trì rồi.”

“Huynh…”

“Hà hà, chớ giận, chớ giận. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Uất Trì tuổi trẻ anh tuấn, chuyện phong lưu tao nhã bậc này tự nhiên là càng nhiều càng tốt.”

“Nhưng ta, ta nào từng…”

Hiệu úy chưa dứt lời, rèm cửa đã lay động, một ca cơ ôm đàn tiến vào. Tuổi nàng độ mười bảy mười tám, vẻ ngoài chỉ vào tầm trung nhưng thần thái lại thành thạo tự nhiên, hướng hai người thi lễ chào, nói: “Ra mắt hai vị công tử.”

Uất Trì Phương vội vàng đứng dậy hoàn lễ, Lý Thuần Phong lại ngồi yên không động đậy. “Xin hỏi tên họ cô nương?”

“Tiện thiếp họ Tống, tiểu danh Song Hồng, là đệ tử của Ngũ Nương.”

“May mắn gặp mặt. Nói như vậy, cô nương cũng sở trường cầm kỹ sao?”

Cô gái che miệng bật cười. “Trên dưới Minh Thúy các, từ lúc các chủ lập nghiệp chính là dựa vào cầm nghệ để nổi tiếng. Có điều Song Hồng mới học, chỉ sợ khiến bậc sành sỏi cười chê.”

“Nghe nói cầm kỹ của Công Tôn các chủ đứng đầu thiên hạ, không biết bọn ta có duyên hân thưởng chăng?”

Tống Song Hồng lắc đầu, trên mặt lộ vẻ u buồn. “Mấy năm nay các chủ bệnh nặng quấn thân, một mực ở tiểu lâu nơi hậu viên tĩnh dưỡng, chớ nói khách bên ngoài, tới cả mấy đứa đệ tử bọn em cũng đã mấy năm không được gặp người rồi.”

“Đáng tiếc.” Vừa nói, chủ quán rượu vừa đứng dậy, bước tới chỗ bức chữ. Uất Trì Phương trong lòng mất kiên nhẫn, đang định mở miệng, bỗng nghe Lý Thuần Phong thản nhiên nói: “Sau khi Thôi tướng quân qua đời, nơi đây ắt hẳn cũng yên ắng hơn nhiều nhỉ.”

Giọng của hắn nhàn nhạt như thường, lọt vào tai uất Trì Phương lại tựa như sét đánh sấm rền, lập tức cứng người. Tống Song Hồng cũng giật mình, sau đó cúi đầu than thở: “Đúng thế. Hôm qua trong lầu mới nghe báo về cái chết của ông ấy.”

“A? Ắt hẳn Liễu cô nương nhất định thương tâm cực độ rồi.”

“Cũng không phải…” Cô gái vừa buột miệng, lập tức cảm giác thấy không ổn, lại thu trở về. “Chẳng qua nay người đã không còn, cho dù ơn tình tựa bể cũng chỉ đành vì người ra đi mà lưu lại thương cảm.”

“Ừm.” Lý Thuần Phong đưa tay tới trước mặt Uất Trì Phương còn đang ngơ ngẩn, vẫy vẫy.

“Làm cái gì thế?”

Thấy ngón tay đối phương chụm thành hình tròn, hiệu úy mới hiểu ra, vội vàng lấy trong người ra một xâu tiền đồng, đưa cho Song Hồng: “Bọn ta còn muốn ở đây đợi một lúc, cô nương tự nhiên đi.”

Mắt thấy bóng cô gái khuất ngoài cửa, Uất Trì Phương không nhịn nổi nữa kêu lên.

“Lý huynh làm sao biết Liễu cô nương có quan hệ với Thôi tướng quân?”

“Chỉ là tình cờ mà thôi.” Lý Thuần Phong ngồi trở lại trước bàn, tựa có suy tư. “Giữa các sự việc thường có nhân quả. Ví như việc săn bắn, xem sự lay động của cỏ cây mà biết được cáo thỏ đi lại bên dưới. Con Ô Dạ Đề rất có linh tính, sao đột nhiên lại phát điên, muốn đuổi theo một cô gái? Trong chuyện này, có lẽ có uyên nguyên ta và huynh không biết. Huống chi…” Lý Thuần Phong duỗi ngón tay dài chỉ về bức chữ viết theo lối thảo thư nọ: “Chữ của Thôi tướng quân ở đây, nếu ta còn không biết hai người đó có quan hệ, há chẳng phải ngu xuẩn hết mức sao?”

Bấy giờ Uất Trì Phương mới chú ý tới bức chữ nọ, viết là bài Cổ tòng quân hành*. Không hề có ấn chương lạc khoản, chỉ đề ở cuối cùng một chữ “Khải”.

Thơ của Lý Kỳ thời Thịnh Đường. (DG)

“Thôi Nguyên Khải nức tiếng về thư pháp, bức chữ này dẫu mực còn tươi mới, là được viết gần đây; đem Cổ tòng quân hành tặng cho giai nhân, chính là bản sắc của người trong quân đội, vả lại bút lực hùng hồn, tuyệt không phải lối viết của văn nhân. Xem ra Thôi tướng quân có tình cảm sâu đậm với vị cô nương này.”

“Hay quá, thật là thần kỳ lắm lắm! Lẽ nào trước khi tới đây huynh đã biết tới bức chữ này?”

“Đương nhiên là không, mới rồi chẳng qua là linh cơ máy động. Còn nguyên nhân ta tới đây, là vì vật này.”

Hắn rút từ trong tay áo ra một món đồ, trải lên trên bàn. Đó là một chiếc khăn tay màu lục nhạt, do gấm vóc dệt thành, còn đượm chút mùi thơm. Góc dưới bên phải thêu một chữ Liễu bằng chỉ xanh đậm.

“Vật này chính là thứ tìm thấy bên cạnh đống xác ở gò Loạn Táng hôm trước.” Chủ nhân quán rượu nhìn hiệu úy còn đang trố mắt líu lưỡi, nhàn nhạt nói: “Bây giờ chắc huynh đã biết, ngoài cửa Khai Nguyên đêm đó, hẳn không chỉ có hai người ta với huynh.”