← Quay lại trang sách

Chương 6 Phượng Hề

Một mảng tối đen, cái gì cũng không thấy, chỉ ở chỗ tận cùng con đường là có chút ánh sáng. Nhưng cự ly xa là thế, rốt cuộc không nhận ra được đấy là chân thực hay chỉ là cái đền từ tưởng tượng. Trong ý thức mịt mùng, hai bức tường càng lúc càng co hẹp, vốn là chỉ chứa được một người, càng tiến tới, hít thở cũng theo đó mà càng dồn dập. Trong tịch mịch chỉ nghe được tiếng bước chân cùng tiếng tim đập của bản thân.

Bất kể là ai, ở trong tình cảnh thế này thường khó tránh khỏi hoảng sợ, Phương Khác cũng không ngoại lệ, áp lực vô hình trong bóng tối khiến con người xưa nay luôn tự giữ mình ngay thẳng này gần như phải mở miệng kêu cứu, lý trí lại báo cho hắn một cách rõ ràng, cho dù có gào lớn cũng không ai nghe được.

Phương Khác mạnh mẽ áp sự sợ hãi trong lòng xuống, từng bước từng bước tiến tới, sau đó phát hiện, ánh sáng kia càng lúc càng lớn, càng lúc càng rạng rỡ. Tuy vẫn cứ như đom đóm nhưng lòng vẫn không tự chủ được mà mừng rỡ như điên, bước chân cũng mau hơn.

Điểm sáng nho nhỏ đó như có sinh mạng từ từ di động, cảnh vật xung quanh cũng trở nên rõ rệt hơn. Nhìn khắp xung quanh, Phương Khác kinh ngạc phát hiện nơi đây bày biện hệt như nha môn của mình tại Hoa Nguyên, tới cả bàn ghế cũng chưa hề bị động đến, trên giá áo vẫn là quan phục màu lục của bản thân được treo chỉnh tề. Đầu bàn nét bút còn mới, không tự chủ được bước tới xem, chữ trên giấy cực nhạt, nhìn không rõ. Trong nghiên còn có mực thừa, thế là nhấc bút chấm một cái, tách một tiếng, mực đậm rơi trên giấy, nhanh chóng lan ra. Định thần nhìn kỹ, đột nhiên hít vào một hơi, cuống quýt lùi về sau mấy bước… Trên giấy là một mảng đỏ tươi, chính là máu! Chính lúc này, quan phục không gió tự bay, quay đầu lại thình lình xuất hiện một bộ xương khô, hốc mắt trống rỗng chằm chằm nhìn hắn, hàm răng trắng hếu tựa hồ đang cười gằn.

“Đại nhân, đại nhân?”

Phương Khác ngẩng phắt đầu, trước mắt là ánh đèn nhỏ như hạt đậu đang tỏa sắc vàng ấm áp. Một ông già râu bạc trắng, mặt mày trung hậu, đang lo lắng nhìn mình. Lại nhìn bốn phía, làm gì có quan phục, làm gì có xương khô, trên bàn vẫn là cuốn sách mở mình đang xem ban nãy, bút mực giấy nghiên toàn bộ nguyên vẹn, cũng không có máu tươi. Bấy giờ mới bình tâm lại, ban nãy chẳng qua là ngủ gật trên bàn, mơ thấy ác mộng.

“Đại nhân, ngài không sao chứ?”

“A, không… không việc gì, đa tạ lão nhân quan tâm.”

“Vậy thì tốt, mới nãy tuần tra, nghe thấy trong phòng này có tiếng lạ, còn tưởng Phương đại nhân gọi tôi…”

“Yên tâm, ta không sao. Đêm khuya rồi, lão cũng mau nghỉ ngơi đi thôi.”

“Vâng, vâng. Tôi ở ngay kế bên, Phương đại nhân có chuyện gì xin cứ truyền gọi.” Công tích vỗ yên nạn dân của Phương Khác ở Hoa Nguyên sớm đã vang khắp kinh thành, ai nấy truyền miệng khen ngợi. Đối với vị quan tuổi trẻ nhưng lễ độ lại cần cù trước mặt, viên Quán thừa lớn tuổi cực kỳ yêu kính.

Mắt tiễn viên Quán thừa run run khép lại cửa phòng, Phương Khác bất giác thở ra một hơi dài. Ánh mắt dừng ở quan phục màu lục treo trên tường, hắn nhíu mày, đứng dậy lấy xuống lật lại. Ngón tay lơ đãng đưa qua một chỗ có vết ố mờ gần như không thấy được, đột nhiên rụt tay về như bị điện giật, vẻ mặt tựa như sợ hãi lại pha cả một chút buồn bã.

• • •

Có vài chuyện, có vài khoảnh khắc không cần cố ý ghi nhớ. Ví như là vào một đêm trời đẹp trăng trong, tình cờ gặp một nữ tử. Vào lúc đó chẳng qua là một phen kinh diễm, nhiều năm sau hồi tưởng, có lẽ dung mạo đã phai nhạt đi, tựa như cơn mộng mị; nhưng hương hoa hương rượu đêm đó lại vẫn cứ vấn vương không tan. Đối với Uất Trì Phương mà nói, đêm nay chính là như thế. Người ở trong thuyền, trước mắt là nữ tử áo trắng cúi mày giữ áo, lòng lại như tỉnh như mê, không biết đã lạc mất ở đâu.

Và rồi một thoáng tâm tình này lập tức liền bị gã bên cạnh phá hoại. Một bàn tay thò tới, khua khua trước mắt mình, bấy giờ mới hoàn hồn, vội vàng quay đầu sang, trên mặt gã chủ quán rượu lộ vẻ kinh ngạc, rõ ràng là giả vờ giả vịt.

“Rượu còn chưa uống, Uất Trì đã say rồi sao?”

“A, đâu, đâu có…” Giờ mới nhận ra vừa rồi Phất Vân quận chúa đang hỏi họ tên mình, vội vàng ngồi ngay ngắn nghiêm chỉnh, đáp: “Tại hạ Uất Trì Phương thuộc phủ Huân Vệ.”

“Ừm, Uất Trì hiệu úy. Không biết xưng hô thế nào với Ngô quốc công?”

“Chính là gia thúc.”

“Thảo nào.” Phất Vân buông nở nụ cười, như bông thược dược mới hé. “Lệnh thúc võ nghệ cao cường, là người trung nghĩa, vốn là bậc trước nay ta bội phục. Giang sơn Đại Đường nhờ cậy các vị giữ gìn, mời.”

Nhấc chén mời rượu, đặt xuống chén đã cạn lòng. Vị quận chúa dung mạo hoa lệ này không hề có cái vẻ ngượng ngùng làm bộ của nữ tử thông thường, khi uống rượu rất có cái khẳng khái của nam nhi. Uất Trì Phương vội vàng uống cạn chén rượu trước mặt, lại vì uống quá vội, lập tức sặc. Bên tai nghe tiểu thị nữ khúc khích bật cười, mặt đỏ bừng tức khắc. Phất Vân quay sang lườm thị nữ một cái, thần sắc có ý trách cứ.

Thấy tình hình này, nam tử áo xanh tỉnh như không giúp bằng hữu giải vây: “Đêm khuya thế này, nhã hứng của quận chúa thật không cạn. Nhưng không biết là vô tình gặp gỡ hay là cố ý an bài?”

Sóng mắt Phất Vân xoay chuyển, không đáp mà hỏi ngược lại: “Ai cũng bảo Lý tiên sinh của Tùy Ý lâu có tài biết trước, sao không đoán xem sao?”

“Lời đồn phố chợ, há lại đáng tin.” Lý Thuần Phong nhấc chén rượu trước mặt, ánh mắt không hề chạm với đối phương. Ánh nến tô đậm đường nét rõ ràng trên khuôn mặt, nhưng lẫn thêm ánh sáng mờ mờ lại khiến những phần còn lại trên đó chìm vào bóng khuất. “Vô tình cũng tốt, mà cố ý cũng được, lúc này, nơi này, người tại đây, đó mới là quan trọng.”

“A? Chẳng lẽ Lý tiên sinh cũng định bắt chước thuật sĩ giang hồ, dùng lời lập lờ nước đôi thăm dò ý tứ của ta?” Lời của Phất Vân tuy dí dỏm nhưng không che giấu được sự thất vọng nhàn nhạt.

“Quận chúa nói quả không sai, Lý mỗ đúng là xuất thân giang hồ, chẳng có sở trường gì. Một chút thuật bịp bợm nho nhỏ, dùng để kiếm ăn kiếm uống mà thôi.” Lý Thuần Phong bên thì nói, bên thì ung dung uống hết rượu trong chén, tựa hồ muốn chú giải cho bốn chữ “kiếm ăn kiếm uống”.

Uất Trì Phương thì nghe mà như ngồi trên đệm châm, sợ Phất Vân bởi thế mà tức giận, vội vàng hòa giải: “Lý huynh nói đùa quen rồi, quận chúa chớ để trong lòng. Bản lĩnh của Lý huynh tại hạ tận mắt trông thấy, tuyệt đối không phải cái mà thuật lừa bịp giang hồ so được. Bất kể chuyện gì, nhờ hắn là được.”

Hiệu úy vừa nói vừa đánh mắt, đâu ngờ Lý Thuần Phong chẳng chút cảm kích mà ngắt lời: “Bản lĩnh của Uất Trì đại nhân tại hạ tận mắt trông thấy, tuyệt đối không phải thuật lừa bịp giang hồ so được. Bất kể chuyện gì, nhờ ngài ấy cũng được.”

“Khụ, Lý huynh ngươi…”

Trông gã bằng hữu vô lại mặt chẳng đổi sắc trước mặt, hiệu úy bó tay hết cách. Ngược lại Phất Vân không nhịn được cười, tự tay rót đầy chén rượu trước mặt hai người.

“Là ta nói năng lỗ mãng, xin thứ lỗi xin thứ lỗi. Chẳng qua đúng là có việc muốn phiền hai vị.”

“Liên quan tới cây đàn của Lưu học sĩ sao?”

Câu này của Lý Thuần Phong vừa ra khỏi miệng, Phất Vân quận chúa sững người lại.

“Ngài…”

“Quận chúa cùng Lý mỗ chẳng hề quen biết, tự dưng mời ắt là có liên quan tới cái chết của Lưu Quân. Lưu Quân nổi tiếng bằng tài đàn, lại đang truyền dạy cầm nghệ cho quận chúa, ở chỗ ông ấy ta lại không thấy túi đàn. Nơi kinh thành ông ta không có ai thân thích, quận chúa với ông ấy lại là thầy trò, trao nó cho quận chúa cũng là lẽ đương nhiên.” Ánh mắt của Lý Thuần Phong chuyển về phía sau Phất Vân, tới vật được nâng trong tay thị tì. “Nếu ta đoán không sai, trong hộp kia chính là đàn của Lưu học sĩ.”

Trong mắt Phất Vân lộ vẻ giật mình trong thoáng chốc rồi lập tức bình tĩnh lại. “Không sai chút nào, Lý huynh quả nhiên liệu việc như thần.”

Nàng ra hiệu cho thị nữ mở hộp gỗ, một cây cổ cầm lập tức hiện ra. Cổ xưa đậm đà, không biết là vật của triều đại nào, chất gỗ đồng vì ma sát lâu ngày, tỏa ra vẻ sáng trơn mà mềm mại như mặc ngọc, ở một góc dùng lối Tiểu Triện khắc lên hai chữ “Phượng Hề”. Hơi gẩy nhẹ, liền có tiếng đá tiếng vàng xa xôi huyền ảo, lay động lòng người.

“Đàn tốt, thật sự là báu vật vô giá.” Lời khen này của Lý Thuần Phong buột miệng mà ra, tới từ nội tâm. Phất Vân quận chúa nhẹ nhàng vuốt ve cây cổ cầm, buồn bã nói: “Đúng thế, thầy còn coi trọng cây đàn này hơn cả tính mạng. Bởi thế ba ngày trước, lúc người tới tìm ta, muốn ta nhận lấy nó, ta cực kỳ kinh ngạc. Người lại nói, mạng không còn dài, điều duy nhất còn chưa yên tâm chính là cây đàn này, nhất định phải tìm được chỗ tốt cho nó.”

“Ba ngày trước… hẳn là ông ấy nhận được bộ phận tàn khuyết nào đó.”

“Đúng thế. Về sau ta liền nghe được tin thầy qua đời. Thầy si mê cầm nghệ, làm người lương thiện, trước nay chưa từng kết thù oán với ai, thực không nghĩ ra có kẻ nào lại muốn đẩy người vào chỗ chết. Nhân đây muốn nhờ vả hai vị, giúp tìm ra hung thủ, cũng để an ủi người nhà của người.”

Lý Thuần Phong gật đầu, nhưng lại không lên tiếng, chăm chú nhìn cây cổ cầm, xoay xoay chén rượu trong tay, tựa đang suy tư, rồi bỗng hỏi: “Ngoài ra, Lưu học sĩ còn nói gì chăng?”

Phất Vân đưa tay chống cằm, nghĩ ngợi, đáp: “Phải rồi, thầy có nói một câu rất kỳ quái.”

Trong mắt Lý Thuần Phong lóe lên một tia sáng, hệt như chim ưng phát hiện con mồi. “Câu gì?”

“Vì yêu mà thành si, hối hận đã muộn.”

Từng chữ từng chữ được chầm chậm nói ra, lại khiến cho hai người nọ đờ người tại chỗ.