Chương 10 Địa cung
“Sư huynh vất vả rồi, hay là để đệ canh thay cho.”
Chủ quán rượu mình mặc áo tăng mặt mày tươi cười nói, cực kỳ hiền hòa thân cận.
“Chuyện này… như thế sao tiện?” Hiếu Đạt một bên từ chối bên kia nhìn nhìn đối phương. “Có điều, vị này là sư huynh ở điện đường nào thế? Sao tiểu đệ…”
Còn chưa dứt lời gáy đã trúng một đập, hai mắt Hiếu Đạt lập tức trợn trắng, đổ gục xuống. Uất Trì Phương thu tay lại, vội vàng nhìn Huyền Trang một cái. Hòa thượng cũng không hề nổi giận, chỉ thở dài một tiếng, miệng niệm Phật hiệu.
“Hai người đi đi, ta ở đây canh.”
Lý Thuần Phong gật đầu, kéo hiệu úy nói: “Đi!” Rồi chạy thẳng tới chân tháp.
Ánh trăng tựa dải lụa trắng, mạ toàn bộ tòa tháp cao một màu ánh bạc, so với vẻ trang nghiêm ban ngày lại có thêm một phần thần bí.
“Tình cảnh hôm đó huynh có nhớ chăng? Huynh muốn lên tháp.” Chủ quán rượu đi tới trước tháp thì đứng lại. “Đây là vị trí của huynh.” Rồi lại bước về hướng khác vài bước. “Đây là chỗ Nguyên Giác đứng.”
“Phải rồi.”
“Ừm. Sau đó thì sao?”
Trong ký ức của hiệu úy hiện lên cảnh tượng lúc ấy. “Nguyên Giác nói, tháp này do thượng hoàng ban sắc chỉ cho xây, còn chỉ ta xem bia văn.”
“Không sai.” Lùi lại hai bước, Lý Thuần Phong đi tới đứng trước bia văn, mô phỏng lại động tác của Nguyên Giác. “Ta còn nhớ, hắn vừa mở miệng đã ngừng lại, thần thái bỗng dưng trở nên khác thường, sau đó liền một mực hết hồn hết vía. Lúc ấy rất có khả năng Nguyên Giác đã phát hiện ra điều gì đó, mà nói không chừng hung thủ cũng có mặt ở đó, quan sát thấy thái độ hắn khác thường rồi mới có ý giết người diệt khẩu.”
“Liệu có thể là gì?”
“Ví dụ như, một chỗ vết máu nào đó quên chưa lau đi…” Ánh mắt Lý Thuần Phong rơi xuống chân tấm bia đá ngự ban. “Hoặc là một cơ quan không cẩn thận để lộ.”
Lý Thuần Phong một bên nói, bên kia đưa tay chầm chậm lần sờ trên tấm bia. Bề mặt bia đá trơn bóng lạ thường, không hề bám bụi, tựa hồ gần đây mới được cố ý lau chùi. Ngón tay chạm vào một nơi nào đó sau tấm bia, ấn mạnh, “cách”, tấm bia nặng nề xoay tại chỗ giống như con quay, đồng thời trên mặt đất xuất hiện một cửa động vuông vắn rộng độ bốn thước, mà Lý Thuần Phong vốn đang đứng đó đã không thấy đâu nữa.
Uất Trì Phương kinh hoàng biến sắc, vội vàng xông tới bên bia đá. Cửa động sâu tối, không thể quan sát được chút nào tình hình bên dưới. Hiệu úy nén giọng gọi: “Lý huynh! Lý huynh!” Nhưng nơi đó vẫn im phăng phắc không hề có hồi đáp. Lòng biết không hay, Uất Trì Phương cắn răng, tung người nhảy xuống. Bất ngờ chính là chân rất nhanh đã chạm xuống đất, thì ra từ chỗ đặt chân lên tới mặt đất cũng chỉ cao độ chiều cao một người. Chưa kịp thở phào, đáy giày đã thấy trơn tuột, cả người thuận theo một con đường hướng xuống dưới mà trôi trượt đi.
Lúc này lập tức luống cuống chân tay, hai tay chụp loạn mọi chỗ nhưng chẳng thấy được nơi nào có thể níu lấy. Ban đầu thì hẵng còn miễn cưỡng duy trì được thăng bằng nhưng về sao thì lộn ngã liên tục, cho tới lúc “bịch” một tiếng, đụng vào một bức vách tựa tường ngăn mới dừng lại. Hiệu úy hoa mày chóng mặt có thừa, khó khăn lắm mới vịn đứng thẳng lên được. Bên tai bỗng nghe có người “khục” một tiếng, tựa hồ không nhịn được cười, thế là vội vàng sờ xuống eo, còn may bảo đao vẫn còn. Tiện tay rút đao cầm chắc trong tay, Uất Trì Phương cất tiếng gọi: “Lý huynh! Huynh có đấy không?”
“Ở đây.”
Sau lưng vọng tới tiếng đáp lười nhác, kế đó có đốm sáng bừng lên. Vội vàng quay người lại, quả nhiên là cái kẻ mất tích lúc trước, đang nhàn nhã có thừa mà ngồi dưới đất, lấy mồi lửa trong tay châm một ngọn đuốc. Lúc nhìn kỹ thì thấy người nọ đầu tóc tán loạn, mũ tăng không biết đã quẳng đi đâu, bộ dạng lôi thôi lếch thếch tức cười, trên mặt cũng có một chỗ tím bầm, ắt hẳn mới rồi cũng gặp cảnh y hệt hiệu úy.
“Hầy, vẫn tốt, vẫn tốt.” Hiệu úy bấy giờ mới thật sự thở phào, rồi lập tức oán trách: “Sao lại không trả lời? Nhắc trước một chút cũng được, hại ta sảy chân ngã một vố.”
Đứng thẳng dậy, Lý Thuần Phong phủi bụi trên người. “Đấy gọi là có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu, có hang cùng nhảy, có sẩy cùng ngã. Đã là bằng hữu, Uất Trì hẳn cũng không ngại cùng chịu thiệt một vố này chứ?”
“Huynh…”
Lúc này hắn mới biết hóa ra kẻ này cố ý dẫn bản thân nhảy xuống để làm trò cười, đang định phát tác, đối phương lại nói tiếp như chẳng có chuyện gì: “Huống chi ta một thân một mình ở dưới lòng đất, xung quanh tối om, tình hình không rõ, sao dám tùy tiện lên tiếng trả lời để bại lộ vị trí? Tự nhiên là phải tìm một góc ẩn nấp trước.”
Uất Trì Phương nghĩ cũng thấy có lý, lửa giận bèn nguôi đi. Bàn tay thấy hơi đau đau, đưa lên trước mắt nhìn, thì ra là do lúc mới rồi quệt dưới đất, có mấy vệt rêu xanh đen. Quay đầu nhìn, trên đường dốc còn nguyên vết tích, rêu xanh mọc đầy, khó trách lại trơn như thế.
“Đây chính là nguồn gốc vết tích trên tay Tịnh Tu và Nguyên Giác. Rêu xanh không chỉ sinh trưởng trong núi mà dưới đất âm u ẩm ướt cũng có.” Lý Thuần Phong nhấc đuốc trong tay chiếu lên, trên tường có giọt nước rịn ra. “Thổ nhưỡng nơi đây vốn khô ráo, nhưng bên trên vừa vặn có máng trúc, ngày tháng lâu dài, bèn tích thành lớp rêu xanh dày.”
“Cũng chính là nói, hai người họ đã tới chỗ này!” Uất Trì Phương cực kỳ phấn khởi. “Quả nhiên không tìm lầm!”
Lý Thuần Phong chán nản nhìn hiệu úy một cái, lời kế tiếp hệt như giội một chậu nước lạnh xuống đầu.
“Không chỉ từng tới đây, mà còn chết ở đây.”
Bốn bề tăm tối, nguồn sáng duy nhất chính là cây đuốc trong tay Lý Thuần Phong. Tường xung quanh là do đất sét nện thành, tựa hồ đã trải nhiều năm tháng.
“Sao dưới tháp lại có cái địa đạo này? Xem ra còn phải cổ xưa hơn chùa miếu.”
“Không có gì kỳ lạ, chùa Vô Lậu được xây dựng sau này, tháp chùa chốn cửa Phật thường có thứ dạng như địa cung, dùng để cất giấu thánh vật với của báu. Ta đoán địa đạo này đã có từ trước, trên mặt đất bị lửa chiến tranh thiêu hủy, dưới lòng đất thì vẫn được bảo tồn. Lúc xây lại tháp, liền xây ngay trên nền cũ.”
Hai người tiến lên trước mấy bước, trước mặt xuất hiện một con đường, tối om không biết dẫn tới đâu. Cửa thông đạo cao không tới năm thước, chật hẹp chỉ đủ một người nghiêng người đi qua. Còn may đuốc lửa vẫn cháy bình thường, không hề có dấu hiệu không khí loãng, hẳn là bên trong có đường thông gió khác.
“Đi.”
Lý Thuần Phong không chút do dự cúi người khom lưng tiến vào. Uất Trì Phương bám sát sau lưng, trong lòng hơi thấp thỏm, nhưng trông bộ dạng trong lòng đã có tính toán của Lý Thuần Phong thì lập tức yên tâm trở lại.
Mùi bùn đất phả ngay vào mặt, gần như làm cho người ta có ảo giác là đang tiến vào một ngôi mộ. Lý Thuần Phong đi rất chậm, vừa đi vừa nhìn xung quanh, nhưng bước chân chưa từng dừng lại. Bốn bề yên ắng tới độ nghe được tiếng hai người hít thở. Bước qua một bậc thềm đá trên mặt đất, “vù” một tiếng, có gió ập vào mặt. Lý Thuần Phong nhanh chóng lùi lại một bước, vươn tay kia che ngọn lửa. Khoảng không trước mắt đã hơi rộng ra, bề ngang độ bảy bước, đối diện phía trước là một gian nhà đá.
“Xem kìa!”
Uất Trì Phương không nhịn được hô thành tiếng: Mặt đất chỗ cửa đá cho tới rìa cửa, đâu đâu cũng có vệt máu nhàn nhạt.
“Ừm, xem ra hôm đó Tịnh Tu bị giết ở đây.” Nam tử áo xanh mặt không đổi sắc, cúi xuống xem xét vết tích, sau đó đứng dậy, chìa tay.
“Đao.”
Uất Trì Phương vội vàng đưa sang. Lý Thuần Phong ra hiệu cho hiệu úy đứng bên cạnh, rồi trước tiên nhìn kỹ xung quanh cửa đó, xác định xong thì mới luồn đao vào khe cửa rồi lập tức tránh đi. Quả nhiên như đã liệu trước, không hề có cơ quan ám khí, tiếp đó mới đi tới trước kéo mở cửa.
Lọt vào mắt là một cái xác, nằm sấp dưới đất, áo màu tro, tóc đen, thân hình gầy nhỏ, trông ra là một thiếu niên. Lý Thuần Phong cắm đuốc xuống đất rồi ngồi xuống, nhẹ nhàng vén mớ tóc tán loạn, lộ ra một bộ mặt rúm ró đáng sợ. Làn da đã ngả màu xám tro như bùn đất, vì thối rữa mà chỗ miệng lộ ra hàm răng xỉn màu. Ngoài ra, nửa bên mặt đã bị kiến với côn trùng gặm nhấm tới mức tan nát không nguyên dạng, trông không rõ tướng mạo. Ánh mắt dừng ở vùng cổ của xác chết, nơi đó có đeo một sợi dây đỏ đã phai màu, ở giữa đã đứt, vết đứt hẵng còn rất mới.
Uất Trì Phương trông thấy mà sởn hết gai ốc, không nhịn được hỏi: “Đấy… đấy là ai thế?”
“Người này có tóc, trông bộ dạng không phải là tiểu tăng. Áng theo tình hình thi thể, đại khái đã chết từ ba bốn năm trước.”
Lý Thuần Phong nhặt sợi dây đỏ cất vào người rồi mới đứng dậy, quét mắt nhìn khắp trong phòng. Trông một lượt, trong phòng trống rỗng, nhưng trên mặt đất có dấu vết, hình như gần đây có người qua lại, mà ở chính giữa phòng có một bệ đất, dường như từng dùng để đặt đồ, lúc này chỗ đó lại không hề có gì.
Lắc đầu, Lý Thuần Phong nói: “Xem ra ta với huynh tới muộn rồi. Nơi đây hẳn vốn có thứ gì đặc biệt, có lẽ là bảo tàng, có lẽ là thứ gì đó khác. Tịnh Tu và Nguyên Giác hẳn là vì lần lượt phát hiện ra bí mật nơi đây nên mới bị hại.”
Đang định tiến vào trong, Lý Thuần Phong bỗng biến sắc mặt, quay đầu quát: “Cẩn thận!”
Lời vừa thốt ra, cánh cửa đá nặng nề đã đổ ập xuống Uất Trì Phương. Không kịp nghĩ nhiều, hiệu úy thuận thế lộn một vòng, uỳnh một tiếng, cánh cửa chạm đất, đụng tới mức đất bụi tung tóe, còn chưa kịp đứng dậy, một thứ gì đó lành lạnh đã đặt lên cổ mình. Uất Trì Phương cảm nhận được cái lạnh thấu xương từ cổ họng truyền tới, không dám mảy may cử động. Miễn cưỡng quay đầu, dọc theo cánh tay cơ thịt khô héo, nhìn thấy một ống tay áo màu xám, cùng thanh đao lập lòe lóe sáng trong tay người nọ.
Liền đó có tiếng thở dài vang lên. “Đã vào cửa Phật, hà tất vẫn còn chấp trước?”
Người trong bóng tối thoáng sững người, qua một lúc mới cất giọng khàn khàn nói: “Người đời đều chấp trước, há chỉ mỗi mình ta?”
Dầu rằng tính mạng còn đang nằm trong tay người nọ, Uất Trì Phương vẫn không nhịn được kêu lên: “Phưởng Hy đại sư!”