← Quay lại trang sách

Quyển 5- SƠN QUỶ GIÁNG Chương 1 Săn bắn

Núi kia dường có bóng ai,

Eo thắt nữ la quàng vai tiết lệ.

Ánh mắt đượm tình cười xinh thế,

Chàng mến em rồi bởi yểu điệu.

Cưỡi báo đỏ chân hoa theo,

Tân di xe đó quế treo làm cờ.

Phủ thạch lan mang theo đỗ hạnh,

Lựa hoa thơm hái gửi người thương.

Em nơi trời khuất trúc sương,

Gian nan những phải vượt đường đến sau.

Đỉnh núi thẳm một mình đau đáu,

Nhìn mây trôi cuồn cuộn dưới chân.

Vẻ trời u tối vô ngần,

Gió đông ào ạt bởi thần giáng mưa.

Đợi chàng mãi đà quên quay lại,

Tuế nguyệt trôi há đẹp bằng xưa.

Linh chi trên núi hái đưa,

Đá to cản lối cỏ vừa giữ chân.

Oán chàng lắm buồn quên trở lại,

Chàng nhớ em nhưng lại bận chăng.

Sơn nhân hoa sánh sao bằng,

Suối trong uống nước nắng nương bóng tùng.

Hỏi chàng có thật lòng nhung nhớ,

Trông ngoài kia sấm giật mưa tuôn.

Đêm khuya nghe vượn hót buồn,

Cây xào xạc lá gió luồn miên man.

Nhớ chàng lẻ bóng buồn than...*

Nữ la, tiết lệ, tân di, thạch lan, đỗ hạnh... đều là tên hoa cỏ. (DG)

Đoạn này là bài Sơn Quỷ được Khuất Nguyên sáng tác, viết về nỗi niềm mong nhớ cùng đợi chờ của một cô gái với một chàng trai. Người đời sau cũng bởi thế mà có giải thích khác nhau về thân phận của Sơn Quỷ, có thuyết cho rằng Sơn Quỷ là nữ thần, tức chính là “dường có bóng ai” trong lời thơ, lại có thuyết nói rằng Sơn Quỷ là nam, chính là “chàng” trong bài thơ. Tranh đi cãi lại, mãi không ngã ngũ. Đương nhiên, những điều này không phải là cái người kể chuyện muốn giải quyết. Những người theo chủ nghĩa hoài nghi thì đại khái tới cả quỷ thần cũng nằm trong vòng nghi vấn của họ, quản gì nam hay nữ. Lưu ý chỗ này, chẳng qua là để làm một cái mào đầu không liên quan cho lắm, bắt đầu chương mới.

Trường tiễn rạch trời, phát ra tiếng kêu bén nhọn. Liền sau đã có tiếng kêu bi thảm vọng lại, một con nhạn mình cắm mũi tên dài rơi xuống. Người cầm cung vui mừng hô lên một tiếng, giục ngựa chạy tới, lúc đến trước con mồi săn thì người cong thấp xuống, không hề xuống ngựa, đã nắm được con nhạn vào tay. Người nọ thuận tay rút lại mũi tên cắm trở vào ống tên sau lưng, con nhạn thì được quăng một cách chuẩn xác vào cái túi da sau yên ngựa.

“Tiễn thuật giỏi.”

Lời khen này có tiếng mà không có hơi, lòng để tận đẩu tận đâu, hoàn toàn chẳng giống thái độ vui vẻ khích lệ cổ vũ nên biểu lộ ra khi khen ngợi người khác. Người đi săn nọ tuy chậm chạp nhưng cũng cảm nhận ra được, không khỏi nhăn mày.

“Hay là Lý huynh cũng thử xem?”

Lắc đầu, người kia vẫn nguyên bộ dạng không sao khơi dậy hứng thú cho nổi. “Miễn đi, ta không có cái tài trăm phát trăm trúng nọ của Uất Trì.”

Hai gã kỵ sĩ, một người trang phục gọn gàng lưng đeo ống tên, khí thế bừng bừng, người kia áo xanh tóc buộc, uể oải lờ đờ, đây chính là hiệu úy phủ Huân Vệ cùng gã bằng hữu cực kỳ lạ đời của hắn. Lúc này nơi hai người đang có mặt là ở trong núi Chung Nam phía tây nam thành Trường An, từ thời Hán đã khoanh khu đất này làm nơi săn bắn của hoàng gia, gọi là vườn Thượng Lâm, nghiêm cấm dân thường đi vào; cho tới triều đại nhà Đường, vì việc xây dựng hành cung Ly Sơn mà vườn Thượng Lâm được mở rộng xuống phía nam, nơi này dần dần ra ngoài khu vực cấm, biến thành chỗ săn bắn của đám thanh niên con cháu quyền quý thành Trường An. Không hỏi cũng biết săn bắn vốn là chủ ý của Uất Trì Phương, sở dĩ người còn lại chịu tới ngoài lý do đã buồn chán tới cùng cực thì quả thật chẳng có cách giải thích nào khác.

“Thật ra cũng không cần phải có lực tay hơn người, chỉ cần tư thế thích hợp, ngắm đủ chuẩn là được rồi.” Hiệu úy nhiệt tình hướng dẫn đối phương, theo hắn thấy, trên đời sao có thể có người không thích dạng hoạt động như săn bắn được, thế thì thật quá mức không thể tưởng tượng nổi. Đây cũng chính là nguyên nhân hắn lôi kéo ép buộc nhất định bắt Lý Thuần Phong phải ra ngoài. Con người ta khi còn trẻ thường cho rằng tất tần tật lạc thú trên đời đều có thể chia sẻ với người khác, nếu không như thế liền cảm thấy trong lòng tiếc nuối.

Chủ quán rượu miễn cưỡng đón lấy cây cung Uất Trì Phương đưa sang, nhìn nhìn nhưng rồi ngừng lại, hồi lâu không động đậy, tựa hồ mất hồn.

“Lý hynh?”

“A.” Lý Thuần Phong hoàn hồn lại, nâng cây cung trong tay. “Cây cung này làm bằng gỗ gì?”

“Là gỗ chá, chất gỗ cứng mà dẻo dai, có thể nói là chất liệu làm cung thượng hạng.”

“Nếu như muốn cứng mà dẻo dai, vì sao không thay bằng sắt?”

“Chuyện này...” Hiệu úy nghe thế ngẩn ra: “Chuyện này chưa từng nghe nói. Có điều cung sắt tuy cứng nhưng không tránh khỏi nặng nề, thợ không dùng sắt có lẽ chính là vì nguyên nhân này.”

“Dùng gỗ làm cung, bản thân cây gỗ đã có vân cây thế mọc, khó làm thẳng được. Nếu dùng cách đúc rèn, phẩm chất đều nhau, có lẽ càng gia tăng độ chuẩn xác không biết chừng.”

“Cũng có lý.” Gãi gãi đầu, Uất Trì Phương nói: “Không ngại ngày mai để phường thợ thử làm một cây xem sao.”

“Bỏ đi, binh khí là thứ hung hiểm, tiêu tốn tâm sức chỉ để tạo ra nghiệp báo, vậy thì đi lệch quá xa với mong muốn ban đầu rồi.”

Vừa nói, Lý Thuần Phong vừa nâng cây cung trong tay lên, tư thế cũng coi như đúng quy củ. Tầng không trong biếc, vừa hay đang có một con nhạn lẻ bay ngang qua, dáng vẻ hốt hoảng, tựa hồ biết được mình đã thành mục tiêu của nhân loại. Dây cung khẽ bật tiếng, tên rời dây mà đi, gần như cùng lúc, con chim nọ rơi thẳng xuống.

“Hay!” Tiếng hô này của Uất Trì Phương còn vui mừng phấn khởi hơn cả lúc nãy chính mình bắn trúng. Nâng tay vỗ mông ngựa, phóng thẳng qua đó, lúc định nhặt lấy con mồi thì đột nhiên có hai người từ đâu xông ra, đoạt lấy trước.

“Đứng lại!” Mắt thấy hai người nọ ngông nghênh xoay người đi, Uất Trì Phương không khỏi nổi giận. “Bỏ xuống cho ta!”

Bị uy thế của hắn chấn nhiếp, hai người kia thật sự đứng lại, quay đầu, thì ra là hai thợ săn. Một người độ hai mươi đổ lại, xương gò má nhô cao, người kia trông chỉ độ mười lăm mười sáu, thân hình nhỏ gầy nhưng đôi mắt thì cực kỳ lanh lợi, trong tay đang cầm con nhạn xấu số nọ.

“Muốn làm gì?” Người lớn tuổi hơn trong hai người đánh giá một lượt Uất Trì Phương, sau đó lên tiếng hỏi, thái độ không chút khách khí.

“Làm gì à?” Uất Trì Phương chỉ đứa thợ săn bé hơn, hỏi: “Cướp con mồi của ta, còn hỏi ngược lại ta?”

“Ai cướp con mồi của ngươi?” Đứa nhỏ hơn lập tức cãi lại. “Rõ ràng là bọn ta bắn được!”

Thiếu niên nọ nói năng hùng hồn, Uất Trì Phương nghe mà lửa giận bốc cao.

“Tên này là do bằng hữu của ta bắn, từ lúc nào đã biến thành của các ngươi? Tuổi còn bé tí vậy mà lại ngang ngược vô lễ như thế, thật là thiếu giáo dục!”

“Ngươi!”

Thiếu niên trừng to mắt, đang định xông lên trước ngựa. Gã thanh niên bên cạnh chợt ngăn nó lại, lạnh lùng xem xét Uất Trì Phương.

“Thì ra là một vị quan lão gia, thôi đi, chúng ta không chọc nổi. A Dung, đưa con nhạn cho hắn.”

Thiếu niên dường như còn muốn phản bác, nhưng bị ánh mắt của huynh trưởng chặn lại, chỉ đành oan oan ức ức quăng con nhạn trong tay xuống đất. Oán hận trợn mắt với Uất Trì Phương một cái, vẫn còn chưa nguôi giận, nhổ toẹt một bãi nước bọt, thế rồi mới theo thợ săn lớn hơn rời đi.

Tâm tình vốn đang cực kỳ phấn chấn của Uất Trì Phương bị hai gã thợ săn vô lại phá hoại, ít nhiều gì cũng bị ảnh hưởng một chút. Còn chưa kịp cầm con mồi dưới đất lên, đằng sau đã có người ho một tiếng, nói: “Uất Trì...”

“Hử?”

Người áo xanh trên ngựa nọ thở dài một tiếng, cúi đầu, bộ dạng chột dạ, trong tay cầm một mũi tên.

“Mới nãy ta chưa hề bắn tên đi.”

“Cái... cái gì?”

“Việc này, ta cũng không biết vì sao, có điều ta mới kéo dây cung nó liền bật trở lại...”

“A? Thế, thế...”

Uất Trì Phương vội vàng cúi đầu, xem mũi tên cắm trên mình con nhạn nọ quả nhiên không phải tên lông trắng do quân đội chế tạo mà tên ngắn lông đen thường dùng trong dân gian.

“Hai người kia không nói sai.” Chớp chớp mắt, chủ quán rượu cực kỳ vô tội nói: “Là huynh cướp con mồi của họ.”

Nhất thời hai người mắt to trừng mắt nhỏ, bầu không khí lập tức trở nên ngượng ngùng.

“Đúng là vận khí không tốt!” Đau lòng xem xét con tuấn mã của mình, Uất Trì Phương nói: “Kẻ nào lại đi đào cái hố bẫy to thế, hại nó bị thương ở chân.”

Sau khi hai người đuổi theo con mồi vào núi, con ngựa của Uất Trì Phương thình lình rơi vào một cái hố bẫy dùng để săn bắn, ngã gãy chân. Lúc này hai người đang xúm quanh con ngựa bị thương, vắt óc nghĩ cách.

“Phải rồi, Lý huynh không phải là biết y thuật sao?”

“Tại hạ chữa cho người, không chữa được cho ngựa.”

Tuy trả lời có vẻ giận dữ, Lý Thuần Phong vẫn nghiêm túc xem xét, sau đó xoay người đi tới vách đá, hái mấy cây cỏ thuốc, sau khi nhai nát liền đắp lên cái chân sau của con ngựa, rồi lại tìm hai cành cây, xé áo nẹp chặt, cố định chỗ bị thương.

“Trước cứ thế này đã, may là vẫn còn Ô Dạ Đề.” Hắn leo trở lên ngựa, kéo cả hiệu úy lên trên. Một tay dắt con ngựa bị thương, từ từ đi tiếp. Sắc trời dần dần sầm tối, từ lúc vào núi tới giờ đã đi ba canh giờ, lúc này muốn quay trở lại, e là với tốc độ này chỉ sợ phải đi tới sáng.

“Hay là tìm chỗ nào trú tạm?”

“Xem vận may thôi. Một lúc nữa nếu không tìm được chỗ trú mưa, ta với huynh sẽ ướt như chuột lột.”

Bấy giờ hiệu úy mới để ý thấy sắc trời đã trở nên cực kỳ âm u, mây đen kìn kịt che hết trăng sao. Trong không khí phảng phất mùi tanh của đất bùn, một trận mưa lớn đang ấp ủ trong núi. Lúc này chắc chắn không thể quay về đường cũ, bởi vì trên đường tới đây không hề có nhà cửa, chỉ đành tiếp tục đi tới xem xem vận may thế nào. May là vừa ra khỏi khe núi không lâu đã thấy được một ngôi nhà lớn sáng đèn, nằm trơ trọi giữa núi. Cùng lúc ấy, cơn mưa to như trút đã bắt đầu đổ xuống. Hai người không nghĩ ngợi được nhiều, vội vàng thúc ngựa đi tới trước cửa ngôi nhà nọ. Mới có chốc lát mà quần áo đã ướt sũng, cực kỳ nhếch nhác. Nhảy xuống ngựa, Uất Trì Phương đi thẳng tới cửa, đang định gõ lại bị Lý Thuần Phong ngăn lại.

“Đợi chút.”

Để ý nhìn kỹ, cửa lớn này vậy mà là dùng kim loại đúc thành, đen sì sì không hề có trang trí. Trước cửa treo một đôi đèn trắng, bên trên có chữ “Hoài” viết bằng mực đen, đang đung đưa trong cơn mưa gió. Trên cánh cửa có một dấu tay màu đen, so ra phải to gấp đôi bàn tay người bình thường, bên trong im ắng không có tiếng người, xem ra khá là quái dị.

“Quái lạ, trong núi này sao lại có cái trang viên lẻ loi thế này?”

“Hầy, mặc kệ nó, cứ vào rồi nói tiếp.”

Uất Trì Phương bước lên gõ vòng cửa, gõ mãi mà không có trả lời. Mưa to như trút, khắp không gian đều là tiếng mưa rơi. Đang định mở miệng gọi cửa, lét két một tiếng, cửa đã hé một khe. Đầu tiên là có một cái đèn lồng bọc giấy trắng thò ra, kế đó, trong ánh sáng chập chờn bất định xuất hiện một khuôn mặt già nua. Uất Trì Phương đột nhiên giật thót mình: Người nọ tóc bạc rối tung, chỉ có mỗi mắt trái, khắp khuôn mặt toàn là sẹo bỏng, không thấy chỗ nào da thịt lành lặn, dưới ánh đèn lồng đặc biệt đáng sợ.