← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4

Hôm trước, ông Deece kể lại là khi biết chắc Rhoda đã chết, ông đành để cô nằm trên xích đu trước hiên nhà. Ông vào phòng tắm, thay đồ tắm rửa, máu của cô chảy dài đẫm cả sàn. Ông thay bộ đồ đi làm vào, chờ cảnh sát và xe cứu thương đến. Ông ngồi đó nhìn về phía nhà Rhoda, trên tay cầm khẩu shotgun đã lên đạn, sẵn sàng bắn ngay bất kỳ thứ gì động đậy, nhưng chẳng có động tĩnh gì. Rồi xa xa, văng vẳng tiếng còi hụ.

Vợ ông đang ở với bọn trẻ trong phòng ngủ sau nhà, ôm chặt chúng dưới lớp chăn kín mít. Michael cứ hỏi mẹ nó đâu, và người đó là ai? Nhưng Teresa thì quá sốc đến nỗi không thốt lên tiếng nào. Cô bé chỉ có thể rên rỉ thảm não khi mút mấy ngón tay như thể chúng đang bị đóng băng tê cứng.

Chẳng mấy chốc, đường Benning đã náo động với những ánh đèn đỏ xanh của cảnh sát. Họ chụp hình kỹ thi thể của Rhoda rồi mới đưa đi. Một đội cảnh sát do cảnh sát trưởng Coley dẫn đầu vào khám xét trong nhà cô. Ông Deece, tay vẫn cầm súng, tường thuật mọi chuyện cho viên cảnh sát điều tra, rồi cho cảnh sát trưởng.

Vừa qua 2 giờ sáng, một cảnh sát đến báo là đã thông báo cho một bác sĩ trong thành phố và nên đưa hai đứa bé đến đó khám xem thế nào. Michael bám chặt ông Deece, còn Teresa thì nằm trong lòng vợ ông, ở băng ghế sau xe tuần tra. Đến bệnh viện, hai đứa trẻ được cho một liều an thần nhẹ, rồi cho nằm nghỉ ở một phòng riêng. Các y tá đem bánh quy và sữa đến để chúng ăn vặt cho đến khi ngủ thiếp đi. Đến sáng, một người dì từ Missouri tới và đón chúng đi.

Điện thoại tôi đổ chuông ngay trước nửa đêm. Wiley Meek, thợ ảnh của tòa soạn gọi. Ông nghe được vụ này qua tần số của cảnh sát và đã đến chực sẵn ở nhà giam hòng lấy hình nghi phạm. Ông bảo là cảnh sát dày đặc, nghe giọng có vẻ ông phấn khích đến phát cuồng rồi. “Nhanh đến đây,” Wiley giục tôi. “Đây có thể là một vụ cực lớn đấy.”

Lúc đó, tôi sống trên một gara kế bên biệt thự Hocutt, một lâu đài theo kiểu kiến trúc Victoria đang ngày càng đổ nát. Trong nhà đó toàn là các ông bà cụ nhà Hocutt, ba bà, một ông, và họ thay nhau vào vai chủ nhà với tôi. Biệt thự rộng năm mẫu của họ cách quảng trường Clanton năm khối nhà. Nó được xây từ cả trăm năm trước bằng tiền của gia tộc họ. Khu đất rộng phủ đầy cây cối, những thảm hoa phát triển quá mức, những bãi cỏ dại dày đặc, và đủ thú vật để làm khu bảo tồn. Ở đây có thỏ, sóc, chồn hôi, chồn túi, gấu mèo, cả triệu con chim, và một cơ số không ít rắn màu đen và lục dù mấy ông bà già bảo tôi là chúng không có độc. Ngoài ra còn có vài chục con mèo, nhưng tuyệt nhiên không có con chó nào. Nhà Hocutt ghét chó. Con mèo nào cũng có tên, và trong hợp đồng thuê nhà của tôi còn có cả điều khoản là tôi phải tôn trọng lũ mèo này.

Dĩ nhiên là tôi làm đúng như thế. Căn hộ ở tầng áp mái có bốn phòng này thật rộng rãi sạch sẽ mà chỉ tốn của tôi có 50 đô mỗi tháng. Với cái giá đó, nếu họ muốn tôi tôn trọng mèo của họ, tôi sẵn sàng.

Ông cụ thân sinh của các bô lão trong nhà này là một tiến sĩ lừng danh ở Clanton suốt hàng chục năm. Mẹ của họ đã qua đời khi sinh con, và theo lời đồn đã thành huyền thoại trong vùng thì sau cái chết của bà, ông Hocutt chăm sóc đàn con đến mức ám ảnh. Để bảo vệ họ khỏi thế giới bên ngoài, ông dựng lên một trong những chuyện dối trá khủng nhất từng có ở Hạt Ford. Ông giải thích với các con rằng, trong nhà họ có bệnh điên gia truyền, nên họ tuyệt đối không nên kết hôn để khỏi truyền lại một dòng giống khùng điên thảm hại. Các con của ông tôn sùng ông, tin tưởng ông, và có lẽ cũng không mấy tỉnh táo cân bằng cho lắm. Họ không hề kết hộn. Người con trai, Max Hocutt, đã 81 tuổi. Hai bà sinh đôi, Wilma và Gilma, đã 75, còn Melberta, bà út thì 73 và đã lú lẫn hoàn toàn.

Vào nửa đêm hôm đó, khi tôi bước xuống cầu thang gỗ để lên đường, hình như bà Gilma đã nhìn trộm từ cửa sổ căn bếp. Có một con mèo nằm ngủ trên bậc thang, ngay hướng tôi đi, nhưng tôi kính cẩn bước qua, không dẫm lên nó, dù thật lòng tôi chỉ muốn đá cho nó bay ra đường.

Trong gara có hai chiếc xe. Của tôi là chiếc Spitfire, được phủ bạt để tránh lũ mèo. Bên cạnh là chiếc Mercedes đen bóng, trên cửa có hình một cặp dao chặt thịt trắng đỏ. Dưới cặp dao là số điện thoại màu xanh lá. Có người từng bảo ông Max Hocutt là ông có thể thu lại toàn bộ chi phí mua xe, xe gì cũng được, nếu dùng nó phục vụ cho việc làm ăn và sơn logo gì đó lên cửa xe. Thế là ông mua một chiếc Mercedes mới và làm thợ mài dao. Ông nói dụng cụ của ông luôn để sẵn trong xe.

Chiếc xe này đã mua được mười năm mà lái chưa đến 13.000 cây số. Bố của họ còn dạy rằng phụ nữ mà lái xe là tội ác, vậy nên ông Max làm tài xế cho cả nhà.

Tôi lướt con xe Spitfire ra con đường sỏi, vẫy tay chào bà Gilma đang nhìn hé từ sau tấm rèm. Bà liền quay đầu và biến mất. Nhà giam cách đây sáu khối nhà thôi, và tôi mới ngủ được nửa tiếng trước khi bị Wiley đánh thức.

Khi tôi đến nơi, Danny Padgitt đang bị lấy dấu vân tay. Văn phòng cảnh sát trưởng nằm ở sảnh trước dãy buồng giam, chỗ đó đang chật kín cảnh sát viên, quân dự bị, lính cứu hỏa tình nguyện và tất cả những ai bắt được sóng liên lạc của cảnh sát. Wiley Meek gặp tôi ở lối vào.

“Là Danny Padgitt!” ông nói, giọng đầy phấn khích.

Tôi khựng lại một giây, cố lục lọi trong đầu. “Là ai?”

“Danny Padgitt, dân ở cồn.”

Tôi mới đến Hạt Ford chưa được ba tháng và chưa gặp người nhà Padgitt nào. Họ vốn kín tiếng. Nhưng tôi có nghe vài mẩu chuyện về huyền thoại gia tộc họ. Kể chuyện về nhà Padgitt gần như đã thành một kiểu giải trí ở Hạt Ford này.

Wiley liến thoắng khoe, “Tôi đã chụp được mấy tấm cực đẹp vừa đúng lúc họ lôi hắn ra khỏi xe. Trên người hắn còn dính máu. Ảnh đẹp cực kỳ nhé! Cô gái đó chết rồi!”

“Cô gái nào cơ?”

“Cái cô bị giết ấy. Hắn còn hiếp cô ấy nữa, ít nhất là họ đồn thế.”

Danny Padgitt, miệng tôi lẩm nhẩm cái tên đó còn đầu óc thì miên man với câu chuyện giật gân này. Tôi đã mường tượng về tít báo, chắc chắn sẽ là cái tít bạo nhất của tờ Thời báo suốt mấy năm qua. Ông Bớt già có thói quen tránh mấy chuyện giật gân và đã rơi vào cảnh phá sản. Kế hoạch của tôi thì khác.

Chúng tôi chen được vào trong và dáo dác tìm cảnh sát trưởng Coley. Tôi đã gặp ông hai lần kể từ khi làm chủ tờ Thời báo , và tôi thấy ấn tượng với bản tính nồng hậu và lịch sự của ông. Ông luôn miệng gọi tôi là anh, và gặp ai cũng nở nụ cười. Ông làm cảnh sát trưởng kể từ vụ thảm sát năm 1943, giờ cũng đã bảy mươi rồi. Dáng người ông dong dỏng, hơi gầy, không có cái bụng béo của hầu hết cảnh sát trưởng ở miền Nam. Nhìn bên ngoài, ông đúng là một quý ông, và hai lần trước gặp ông, tôi đều dấy lên thắc mắc tại sao một người tử tế như vậy lại biến chất cơ chứ. Cuối cùng, Coley cũng xuất hiện, đi cùng một cảnh sát viên, và tôi dặn lòng phải quả quyết, liền bước thẳng tới chỗ ông.

“Cảnh sát trưởng, cho tôi hỏi vài câu thôi,” tôi nói với giọng đầy nghiêm nghị. Cho tới giờ, chưa có phóng viên nào vào được đây. Lính của ông, cả biên chế, dự bị và dân quân mặc đồng phục tự may ở nhà, tất cả đều im lặng và ném cho tôi cái nhìn khinh khỉnh. Với họ, tôi vẫn là thằng nhóc giàu có láo xược dùng thủ đoạn nào đó để chiếm đoạt tờ báo của họ. Tôi là kẻ ngoại bang, chẳng có quyền gì mà xông vào đặt câu hỏi trong những lúc như thế này.

Cảnh sát trưởng Coley nhìn tôi mỉm cười như thường lệ, như thể những cuộc gặp lúc nửa đêm này là chuyện thường ở huyện. “Vâng, chào anh Traynor.” Giọng ông có một điệu trầm nghe rất dễ chịu. Một người như thế làm sao có thể nói dối, hay là không?

“Ông có thể nói được gì về vụ giết người?”

Coley khoanh tay trước ngực, cho tôi vài thông tin căn bản kiểu cảnh sát. “Nữ, da trắng, 31 tuổi, đã bị tấn công ở nhà trên đường Benning. Bị hiếp, đâm, giết. Chưa nói chuyện với người thân của cô ấy thì tôi chưa tiết lộ tên tuổi được.”

“Và ông đã bắt giữ một người?”

“Phải, anh à, nhưng giờ tôi không nói cụ thể được. Anh vui lòng chờ thêm vài tiếng nữa. Chúng tôi vẫn đang điều tra. Thế thôi, anh Traynor.”

“Người ta đồn là ông đã bắt giữ Danny Padgitt.”

“Tôi không quan tâm tin đồn, anh Traynor à. Ngành của tôi không làm kiểu đó. Của anh cũng thế mà.”

Vậy là tôi và Wiley lên đường đến bệnh viện, đi quanh dò la khoảng một tiếng mà chẳng tìm được gì để viết bài, rồi lái xe đến hiện trường vụ án ở đường Benning. Cảnh sát đã chăng dây phong tỏa ngôi nhà, vài người hàng xóm đang tụm lại với nhau trong im lặng cạnh bên dải dây vàng gần hộp thư đầu ngõ. Chúng tôi lặng lẽ tiến tới gần chỗ họ, dỏng tai mà chẳng nghe được gì. Có lẽ họ quá choáng váng không mở miệng nổi. Sau vài phút nhìn quanh ngôi nhà, chúng tôi đành lẩn ra xe đi về.

Wiley có một người cháu họ làm cảnh sát viên bán thời gian, anh chàng đang đứng gác ở nhà Deece cùng với nhóm cảnh sát đang xem xét và lấy mẫu ở hiên trước và chiếc xích đu nơi Rhoda trút hơi thở cuối cùng. Chúng tôi kéo anh ấy ra sau tán bằng lăng nhà Deece và anh kể hết mọi chuyện. Dĩ nhiên tất cả đều là thông tin chưa chính thức, như thể mấy chuyện máu me cướp hiếp giết này không nằm ngay của miệng dân Hạt Ford vậy.

Quanh quảng trường ở Clanton, có ba quán ăn nhỏ, hai cho dân da trắng và một cho dân da đen. Wiley đề xuất chúng tôi nên đến sớm kiếm một bàn mà nghe ngóng.

Tôi không ăn sáng vì vào giờ họ phục vụ bữa sáng thì thường tôi vẫn chưa ra khỏi giường. Tôi thức đến nửa đêm làm việc cũng được, nhưng lại không muốn dậy khi mặt trời chưa đứng bóng. Tôi cũng sớm nhận ra rằng, một trong những lợi điểm của việc có một tờ tuần báo nhỏ là tôi có thể tùy ý làm việc muộn và đi ngủ muộn. Các bài báo viết giờ nào chẳng được, miễn là kịp hạn chót để in. Ngay cả ông Bớt cũng có tiếng là đến gần trưa mới ló mặt ở tòa soạn, và dĩ nhiên, ngay sau đó là lên đường đến nhà tang lễ. Tôi thích kiểu giờ giấc làm việc của ông.

Ngày thứ hai tôi sống ở căn hộ tại tầng trên gara nhà Hocutt, bà Gilma đã đập cửa phòng tôi lúc 9:30 sáng. Đập liên hồi, đập gấp gáp. Cuối cùng tôi cũng trườn ra được căn bếp nhỏ, với mỗi chiếc quần lót trên người, và thấy bà đang cố nhìn vào qua mấy khe rèm. Bà nói là bà đã định báo cảnh sát rồi. Mấy ông bà nhà Hocutt còn lại thì đi qua đi lại dưới lầu, quan sát xe của tôi, lòng chắc mẩm thế nào cũng đã có vụ án gì đó xảy ra.

Bà Gilma hỏi nãy giờ tôi làm gì. Tất nhiên là tôi đang ngủ thì nghe thấy ai đó đập cửa ầm ầm rồi. Thế là bà hỏi tiếp tại sao vào lúc 9:30 sáng thứ Tư mà tôi vẫn còn ngủ chứ. Tôi dụi mắt, cố nghĩ ra câu trả lời nào đủ thỏa đáng cho bà. Đột nhiên tôi nhận ra mình gần như đang khỏa thân đứng trước một trinh nữ 77 tuổi. Hình như bà cứ nhìn cặp giò của tôi suốt.

Bà giải thích cho tôi hay là cả nhà bà dậy từ năm giờ sáng. Ở Clanton, chẳng ai ngủ đến 9:30 cả. Bà không biết tôi có say rượu không? Và mọi người trong nhà, ai cũng lo lắng, chuyện chỉ có vậy thôi. Sau khi thưa với bà là tôi tỉnh táo khỏe khoắn cả, rồi với giọng còn ngái ngủ, tôi vừa đóng cửa tiễn bà vừa cảm ơn cả nhà đã quan tâm, nhưng tôi là người thường dậy sau 9:00 sáng.

Tôi có ghé Trà Quán vài lần vào cuối giờ sáng để uống cà phê muộn, cũng đã ăn trưa ở đó một lần. Là chủ một tờ báo, tôi thấy mình cần phải xã giao, phải chường mặt ra vào những giờ thích hợp vì một ý thức rõ ràng rằng mình sẽ viết về Hạt Ford, cư dân và sự việc ở đây trong nhiều năm trời nữa.

Wiley nói các quán ăn sẽ kín chỗ vào đầu giờ sáng. “Luôn là thế sau các trận bóng và tai nạn giao thông,” ông cho biết.

“Còn giết người thì sao?” tôi hỏi.

“Lâu rồi chưa có vụ này.”

Wiley nói đúng, mới hơn sáu giờ sáng một chút mà quán đã đông nghẹt. Wiley chào hỏi bắt tay vài người, vung ra mấy câu chửi thề. Ông là dân gốc Hạt Ford và quen biết tất cả mọi người. Tôi thì gật đầu, mỉm cười và nhận lấy những cái nhìn lạ lẫm. Chuyện này phải mất vài năm. Dân tình thân thiện nhưng luôn cảnh giác với người ngoài.

Chúng tôi tìm được hai chỗ ở quầy, và tôi gọi một ly cà phê. Chỉ cà phê, không gọi món ăn gì. Cô phục vụ chẳng vui gì với chuyện đó. Nhưng cô ấy lại nồng hậu với Wiley khi ông ngẫm nghĩ và gọi trứng tráng, thịt muối, bánh quy, yến mạch, và một miếng bánh khoai tây, đủ lượng cholesterol quật chết một con lừa luôn ấy.

Người ở quán tám chuyện về vụ hiếp giết, chỉ mỗi chuyện đó mà thôi. Nếu chuyện thời tiết mà đã đủ để người ta cãi nhau, thì một tội ác kinh tởm đến thế này sẽ gây xôn xao đến thế nào. Nhà Padgitt nắm hạt này cả trăm năm, giờ đã đến lúc cho họ vào tù. Nếu cần thì gọi Vệ binh Quốc gia bao vây cồn. Phải cho Mackey Don ra rìa, ông ta ăn lộc của bọn họ từ lâu, để đám nghiện chạy nhong nhong ngoài đường và nghĩ chúng đứng trên luật pháp, rồi giờ chuyện thành ra thế này đây.

Ít ai nói gì về Rhoda, vì ít ai biết gì về cô. Có vài người biết cô hay tới những phòng trà ven xa lộ nội bang. Có người nói là cô từng ngủ với một tay luật sư trong vùng, dù không rõ anh ta tên gì. Chỉ toàn là tin đồn thôi.

Tin đồn cứ thế đặc quánh trong không khí Trà Quán. Vài ông to miệng thay nhau làm chủ trì câu chuyện, còn tôi thì ngạc nhiên khi thấy họ quá tùy tiện xác định thật giả. Và tệ cái nữa là tôi đâu thể in hết cả lô lốc những chuyện đồn đãi chúng tôi nghe được ở đây lên báo.