← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6

Khi mua tờ Thời báo , tôi mua lại luôn ngôi nhà cổ của nó, một ngôi nhà không mấy giá trị. Nó nằm ở phía nam quảng trường Clanton, một trong bốn công trình đang dần mục nát được xây liền kề bởi một toán thợ hấp tấp, với thiết kế dài mà hẹp, cao ba tầng kèm một tầng hầm mà mọi nhân viên của tôi đều chẳng muốn bén mảng xuống. Mặt tiền là vài văn phòng với những tấm thảm cũ nát xơ chỉ, những mảng tường bong tróc và mùi khói của cả thế kỷ ám lên tận trần.

Mặt hậu, vốn xa mặt tiền khủng khiếp, là nơi để máy in. Mỗi tối thứ Ba, nhân viên in báo, Hardy, lại làm phép để cái máy in xếp chữ sống dậy và cố ra thêm một mẻ báo mới. Chỗ làm việc của ông sực nức mùi mực in.

Lên đến tầng một thì có một căn phòng với những kệ sách xếp hàng dài gồng gánh hàng đống sách phủ lớp bụi hàng chục năm trời, một bộ sưu tập về lịch sử, kịch Shakespeare và thi ca Ireland cũng như một loạt bách khoa toàn thư cổ lỗ sĩ của Anh quốc. Ông Bớt nghĩ đống sách này sẽ gây ấn tượng cho bất kỳ ai bước vào đây.

Trước cửa kính mặt tiền, qua lớp kính xỉn màu có mấy chữ “THỜI BÁO” được vẽ từ thời nào không biết, chính là Tòa án Hạt Ford và bức tượng lính gác Liên bang đang đứng đó canh giữ. Phía dưới chân bức tượng là tấm bảng đồng viết tên 61 chàng trai của hạt đã chết trong Nội chiến, hầu hết là ở trận Shiloh.

Từ văn phòng của tôi ở tầng hai cũng có thể nhìn thấy bức tượng đó. Văn phòng tôi nằm cùng dãy với thư viện riêng của ông Bớt, một bộ sưu tập những tác phẩm chiết trung nữa có vẻ cũng bị quên lãng như đám ở tầng một. Phải nhiều năm sau tôi mới đụng đến quyển nào trong đám sách đó.

Văn phòng tôi rộng rãi mà lộn xộn, với một đống cổ vật vô dụng và những hồ sơ vô giá trị chất đống cùng với những tấm chân dung nhái của các tướng lãnh phe Liên minh miền Nam. Tôi mê chỗ này lắm. Khi ra đi, ông Bớt chẳng đem theo thứ gì, và sau vài tháng, có vẻ cũng chẳng ai muốn thứ gì trong đống tạp nham của ông. Vậy là nó cứ yên vị chỗ cũ, bị bỏ bê như lâu nay vẫn vậy, và dù tôi chẳng hề chạm đến nhưng dần dần chúng mặc nhiên trở thành đồ của tôi. Tôi đã đóng thùng các vật dụng cá nhân của ông, gồm thư từ, sao kê ngân hàng, ghi chép, bưu thiếp, rồi trữ chúng trong một phòng không ai sử dụng ở cùng tầng hai này để chúng tiếp tục bám bụi và mục rã.

Văn phòng của tôi có hai bộ cửa kính kiểu Pháp mở ra một ban công nhỏ với lan can sắt đủ rộng cho bốn người bắc ghế ngồi ngắm quảng trường. Thật ra ở đây chẳng có mấy thứ để ngắm, nhưng ngồi trên đó giết thời gian cũng hay, nhất là những lúc có rượu để uống.

Baggy lúc nào cũng sẵn sàng làm một ly. Sau giờ ăn tối, ông đem đến một chai bourbon và chúng tôi ra ngồi trên hai chiếc ghế lắc lư. Thành phố nhỏ này vẫn còn dư âm của phiên điều trần bảo lãnh. Hầu hết đều cho rằng Danny Padgitt sẽ sớm được thả, ngay khi Lucien Wilbanks và Mackey Don Coley thu xếp được mọi chuyện. Sẽ có hứa hẹn, có tiền trao tay, rồi cảnh sát trưởng Coley sẽ đích thân bảo đảm hắn sẽ xuất hiện trước tòa đúng hẹn. Nhưng thẩm phán Loopus lại có kế hoạch khác.

Vợ của Baggy là một y tá. Bà làm việc ca đêm ở phòng cấp cứu, còn Baggy thì làm ca ngày nếu như ta chấp nhận cái màn lừ đừ quan sát thành phố đó là lao động. Hai người hiếm khi gặp nhau, một chuyện rõ ràng là rất tốt vì họ vốn cãi nhau như chó với mèo. Con cái của họ đã lớn và đi xa cả rồi, để lại hai ông bà cứ việc chiến tranh thoải mái. Uống được vài ly là Baggy sẽ lôi vợ ra phê phán. Ông đã 52 tuổi nhưng trông phải hơn ông cụ 70, và tôi cho rằng rượu là lý do chính khiến ông nhanh già và hay cãi nhau với vợ.

“Chúng ta sẽ xử đẹp họ,” Baggy nói đầy hãnh diện. “Chưa hề có bài báo nào được minh oan rõ ràng đến thế. Ngay tại tòa nhé.”

“Lệnh cấm phát biểu là gì thế?” Tôi hỏi. Tôi là lính mới thiếu kinh nghiệm và rõ ràng ai cũng biết thế, nên chẳng có lý do gì để phải giả vờ biết cái tôi chưa biết.

“Tôi chưa hề thấy lệnh đó ban hành bao giờ. Có nghe về nó rồi, và tôi nghĩ mấy thẩm phán dùng nó để bắt đám luật sư và bị đơn im miệng.”

“Vậy là nó không áp dụng cho báo giới?”

“Chưa hề. Wilbanks làm trò mèo thôi. Lão là thành viên của Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ, thành viên duy nhất ở Hạt Ford. Lão hiểu Hiến pháp. Không đời nào tòa lại bảo một tờ báo không được in gì đó. Chỉ là lão đang nản vì thân chủ của lão vẫn phải ăn cơm tù, nên lão bày trò gỡ gạc thôi. Mấy chiêu của đám luật sư ấy mà. Người ta dạy thứ đó ở trường luật đấy.”

“Vậy ông không nghĩ ta sẽ bị kiện?”

“Không đời nào. Nghe này, trước hết, có gì để kiện đâu. Ta đâu có phỉ báng hay bôi nhọ ai. Chắc chắn ta có viết hơi thoáng vài chuyện, nhưng đều là mấy chuyện nhỏ nhặt và có lẽ cũng đúng sự thật nữa. Vả lại, nếu Wilbanks có muốn kiện thì cũng phải đệ đơn ở đây, Hạt Ford. Cũng tòa án đó, cũng phòng xử đó, cũng thẩm phán đó. Thẩm phán Reed Loopus sáng nay đã đọc bài báo của ta và tuyên bố là ổn mà. Đơn kiện đó đã phế từ khi Wilbanks chưa kịp chắp bút rồi. Tuyệt vời.”

Tôi lại chẳng thấy có gì tuyệt vời cả. Tôi đang lo về tổn thất một triệu đô và không biết nếu chuyện xảy ra như thế thì tôi kiếm đâu ra số đó. Cuối cùng rượu cũng ngấm và tôi cũng bắt đầu được xả hơi. Tối thứ Năm ở Clanton này, không mấy người ra ngoài. Mọi cửa hàng và văn phòng quanh quảng trường đều đóng cửa.

Baggy, như thường lệ, đã xả hơi từ nãy giờ rồi. Margaret đã mách nhỏ cho tôi biết là ông ấy thường uống bourbon vào bữa sáng. Ông và một luật sư cụt chân tên Major thường có thói quen pha rượu vào cà phê. Họ sẽ gặp nhau ở ban công bên ngoài văn phòng của Major đối diện quảng trường, hút thuốc uống rượu và tám chuyện luật pháp chính trị từ khi tòa án vẫn còn vắng bóng người. Theo lời kể của Major thì ông đã mất một chân ở Guadalcanal trong Thế chiến II. Công việc luật sư của ông chỉ có một ngành, là soạn di chúc cho người già. Ông tự đánh máy luôn, khỏi cần thư ký. Về mức độ “chăm chỉ làm việc,” ông không kém gì Baggy, hai người lúc nào cũng có mặt ở phòng xử với tình trạng lâng lâng, xem hết phiên xử này đến phiên xử khác.

“Có lẽ Mackey Don cho thằng nhóc vào phòng VIP.” Baggy nói, giọng bắt đầu lè nhè.

“Phòng VIP à?” tôi hỏi.

“Phải... anh thấy phòng giam chưa?”

“Chưa.”

“Chỗ đó còn không hợp nuôi chó. Chẳng có máy sưởi, thiếu không khí, phân nửa thời gian chẳng có nước dùng. Bẩn thỉu kinh khủng. Đồ ăn thì tởm. Mà đấy là cho dân da trắng. Dân da đen ở buồng đối diện, tất cả chung một buồng. Vệ sinh thì chỉ có cái hố trên sàn.”

“Chắc nói đến đấy là được rồi.”

“Nó là nỗi hổ thẹn của hạt, nhưng nói thật, quanh đây hầu như ở đâu cũng thế thôi. Nhưng trong dãy đó có một phòng có máy điều hòa không khí và thảm trải sàn, một chiếc giường sạch sẽ, tivi màu, đồ ăn ngon. Tôi gọi nó là phòng VIP, nơi mà Mackey Don cho mấy kẻ hắn ưa vào.”

Tôi ghi nhớ chuyện này trong đầu. Với Baggy, nó là “công chuyện” thường lệ, còn với tôi, một cựu sinh viên cao đẳng và từng học đại học báo chí, thì đấy là một câu chuyện thâm cung bí sử cần lôi ra. “Ông nghĩ Padgitt ở phòng VIP à?”

“Có lẽ. Hắn mặc đồ của hắn đến tòa mà.”

“Còn ngược lại thì sao?”

“Thì mặc đồ màu cam như mọi kẻ khác. Anh chưa thấy à?” Tôi thấy rồi chứ. Tôi từng đến tòa một lần, cách đây tầm một tháng, và giờ tôi mới nhớ ra hai hay ba bị cáo ngồi trong phòng xử chờ thẩm phán, ai cũng mặc bộ đồ áo liền quần màu cam dù mỗi bộ mỗi tông màu cũ mới khác nhau với dòng chữ “Trại giam Hạt Ford” in ở mặt trước và sau áo.

Baggy nhấp một ngụm rồi giải thích cặn kẽ. “Anh thấy đấy, cho những phiên điều trần sơ bộ hay đại loại thế, thì các bị cáo, nếu vẫn ở trong trại giam thì sẽ đến tòa với bộ dạng tù nhân. Thời trước, Mackey Don sẽ bắt họ mặc mấy bộ áo liền quần đó suốt toàn bộ tiến trình xử. Lucien Wilbanks đã đảo ngược một phán quyết có tội với lập luận rằng bồi thẩm đoàn có khuynh hướng kết tội bị cáo vì thân chủ của lão trông như một kẻ có tội trong bộ áo tù màu cam đó. Và lão đúng chuyện đó. Thật khó để thuyết phục bồi thẩm đoàn là ta không có tội khi mà ta đang ăn mặc như phạm nhân, chân thì đi đôi giày cao su dùng trong phòng tắm.”

Một lần nữa tôi lại phải ngạc nhiên trước sự lạc hậu của Mississippi này. Tôi có thể hình dung một bị cáo, nhất là bị cáo da đen, đang đối diện với bồi thẩm đoàn và mong có được phiên tòa công bằng, nhưng trên mình lại là bộ đồ trại giam được thiết kế để cách xa hàng dặm vẫn có thể nhận diện được. “Vẫn trong Cuộc chiến” là câu khẩu hiệu mà tôi đã nghe vài lần ở Hạt Ford này. Người ta có một sự kháng cự đến phát ngán trước thay đổi, nhất là khi liên quan đến vấn đề tội ác và hình phạt.

Khoảng trưa ngày hôm sau, tôi rảo bộ đến trại giam để tìm cảnh sát trưởng Coley với cái cớ là hỏi vài câu về chuyện điều tra vụ này, nhưng dự định thật của tôi là nhìn xem càng nhiều phạm nhân càng tốt. Thư ký cảnh sát trưởng báo cho tôi bằng giọng hơi xẵng rằng ông ta đang họp và tôi cũng chẳng lấy thế làm phiền.

Hai tù nhân đang lau chùi ở tiền sảnh. Bên ngoài là hai tù nhân nữa đang nhổ cỏ ở bồn hoa. Tôi bước quanh khối nhà và khi ra sau trại giam, tôi thấy có một khu vực mở nho nhỏ kèm một khung lưới bóng rổ. Sáu phạm nhân đang trốn nắng dưới bóng một cây sồi nhỏ. Ở phía đông trại giam có ba tù nhân đang đứng sau song sắt, mắt nhìn tôi chằm chằm.

Tổng cộng có 13 phạm nhân, 13 bộ đồ cam.

Tôi cũng đã hỏi chuyện người cháu họ của Wiley về trại giam này. Mới đầu, anh ta ngại không muốn nói, nhưng anh có ác cảm sâu sắc với cảnh sát trưởng Coley và nghĩ có thể tin tưởng tôi. Anh đã xác nhận những gì Baggy đoán, Danny Padgitt đang sống thoải mái trong buồng giam có điều hòa và muốn ăn gì thì ăn, muốn mặc gì thì mặc, còn chơi cờ với cảnh sát trưởng, gọi điện thoại cả ngày.

Số tiếp theo của tờ Thời báo đã củng cố chắc chắn danh tiếng của tôi là một thanh niên 23 tuổi gan dạ và cứng rắn. Trên trang nhất là tấm ảnh lớn chụp cảnh Danny Padgitt được đưa vào phòng xử cho phiên điều trần bảo lãnh với tay bị còng và bộ đồ dạo phố. Hắn còn phô ra cả vẻ mặt ngạo đời của mình. Phía trên tấm ảnh là dòng tít to tướng: BÁC BỎ BẢO LÃNH CHO DANNY PADGITT. Bài báo đó dài và cực kỳ đầy đủ chi tiết.

Bên cạnh còn có một bài báo khác, cũng dài như thế nhưng gây tai tiếng hơn hẳn. Trích lời của những nguồn tin không tên, tôi mô tả cặn kẽ tình trạng giam giữ của gã Padgitt. Tôi liệt kê đủ mọi đặc quyền của hắn, kể cả thời gian riêng với cảnh sát trưởng Coley bên bàn cờ. Tôi nói về chế độ ăn của hắn, về tivi màu và điện thoại gọi thả ga. Mọi thứ tôi xác minh được đều viết ra mặt báo. Rồi tôi so sánh điều kiện của hắn với 21 phạm nhân khác.

Trên trang hai là tấm ảnh đen trắng chụp bốn bị cáo đang được dắt vào phòng xử. Dĩ nhiên, cả bốn đều mặc bộ đồ áo liền quần, cả bốn đều bị còng tay và râu tóc bù xù. Tôi đã tô đen mặt họ để dù họ là ai cũng sẽ khỏi phải chịu thêm phần sỉ nhục không cần thiết. Những vụ của họ đã qua lâu rồi.

Bên cạnh tấm ảnh đó là ảnh Danny Padgitt được dẫn vào phòng xử mấy hôm trước. Nếu không có còng tay, hẳn ai cũng nghĩ hắn chuẩn bị đi tiệc tùng. Sự tương phản quá rõ ràng. Hắn được cảnh sát trưởng Coley chiều chuộng, và cho đến giờ ông ta vẫn không chịu ngồi lại cho tôi hỏi về vấn đề này. Sai lầm lớn quá rồi.

Trong bài báo, tôi cũng nói rõ biết bao lần tôi đã cố nói chuyện với cảnh sát trưởng, gọi nhiều cuộc mà chẳng hề được hồi âm. Tôi đã đến nhà tù hai lần nhưng ông ta cũng không chịu tiếp tôi. Tôi còn để lại một danh sách câu hỏi và ông ta cũng chọn cách lờ đi. Tôi đã họa lên hình ảnh một nhà báo trẻ tuổi đầy nhiệt huyết mong mỏi tìm sự thật và bị một công chức do dân bầu lên cản trở.

Vì Lucien Wilbanks là một trong số những người bị chán ghét nhất ở Clanton, nên tôi cũng lôi cả lão vào. Tôi đã gọi điện, một chiêu mà tôi sớm thấy cực kỳ hữu dụng, đến văn phòng của ông ta bốn lần, rồi lão mới chịu gọi lại cho tôi. Mới đầu, lão không muốn bình luận gì về thân chủ của mình hay về vụ án, nhưng khi tôi khăng khăng đặt ra những câu hỏi về cách đối đãi hắn được nhận trong tù, thì lão liền nổi khùng. “Tôi đâu có điều hành cái trại giam chết tiệt đó, nhóc,” nghe tiếng của lão là tôi cũng hình dung ra đôi mắt long sòng sọc đang muốn trừng tôi. Tôi cũng trích lại câu của lão.

“Ông đã hỏi chuyện thân chủ của mình ở trại giam chưa?”, tôi hỏi.

“Dĩ nhiên là có.”

“Anh ta mặc đồ gì?”

“Cậu không có việc gì hay hơn để viết báo hả?”

“Không, thưa ông. Anh ta mặc đồ gì?”

“Không trần truồng.”

Lại một câu rất hay để trích lại, và tôi còn cho in đậm nó lên.

Một bên là một kẻ hiếp giết, một cảnh sát trưởng biến chất và một luật sư cấp tiến, còn bên kia là đơn độc mỗi mình tôi, nhưng tôi biết mình không thua trong cuộc chiến này. Phản ứng của dân tình trước bài báo thật khủng khiếp. Baggy và Wiley kể lại là ở các quán ăn, ai cũng đua nhau bày tỏ sự ngưỡng mộ dành cho chủ biên trẻ tuổi của tòa soạn. Dân tình khinh ghét nhà Padgitt và Lucien từ lâu lắm rồi. Và giờ cũng đã đến lúc loại bỏ Coley.

Margaret cho biết độc giả gọi đến liên tục để bày tỏ sự giận dữ trước sự biệt đãi mà Danny Padgitt được hưởng. Anh cháu họ của Wiley thì kể là trại giam rơi vào cảnh hỗn loạn, còn Mackey Don thì hục hặc với các cảnh sát viên. Ông ta đã chiều chuộng một kẻ giết người vào đúng năm 1971, năm bầu lại vị trí cảnh sát trưởng. Dân tình đang phẫn nộ và có lẽ họ sẽ phế truất ông ta.

Hai tuần đó là thời điểm sống còn của tờ Thời báo . Độc giả thèm khát biết thêm chi tiết về vụ việc, và nhờ chọn thời điểm tốt, vận may và táo bạo, tôi đã cho họ đúng những gì họ muốn. Tờ báo đột nhiên sống dậy mãnh liệt, trở thành một thế lực trong vùng. Nó đã được tin tưởng vì dân ở đây muốn tờ báo phải đưa tin chi tiết và không sợ hãi.

Baggy và Margaret kể cho tôi là ông Bớt chưa bao giờ dùng những tấm hình có máu, cũng chẳng hề đứng ra thách thức cảnh sát trưởng. Nhưng thái độ của họ vẫn còn khá e dè. Có vẻ sự bạo gan của tôi vẫn chưa thấm được vào đội ngũ nhân viên tòa soạn. Tờ Thời báo đã, và sẽ là, màn diễn của một người với một đội ngũ hỗ trợ khá yếu ớt.

Nhưng tôi cũng chẳng mấy quan tâm chuyện đó. Tôi đang nói ra sự thật và bất chấp hậu quả có thế nào. Tôi là anh hùng trong vùng. Còn số người đăng ký mua báo tăng vọt lên gần 3000. Doanh số quảng cáo tăng gấp đôi. Tôi không chỉ rọi một ánh sáng mới vào hạt này mà còn kiếm tiền nhờ ánh sáng đó.