CHƯƠNG 7
Quả bom đó là một thiết bị phóng hỏa căn bản, và nếu phát nổ, ngọn lửa sẽ nhanh chóng bao trùm phòng in của chúng tôi. Tiếp sức cho ngọn lửa là nhiều loại hóa chất và không dưới 400 lít mực in đang nằm sẵn trong phòng, chừng đó là đủ để nó lao nhanh ra tiền sảnh. Và trong vài phút, với một tòa nhà không có vòi phun tự động hay báo cháy, ai biết còn cứu được bao nhiêu phần ở hai tầng trên. Có lẽ là không nhiều. Khả năng cao là nếu quả bom đó phát nổ đúng vào giờ ban sớm sáng thứ Năm thì nó sẽ thiêu trụi cả bốn tòa nhà liền kề này.
Nhưng may thay, nó đã được phát hiện đang nằm nguyên vẹn cạnh bên một chồng giấy cũ trong phòng in, nhờ công một gã khờ. Hay nói đúng hơn là một trong số những gã khờ của thành phố. Clanton có nhiều cái lạ lắm.
Ông ấy tên là Piston, và như tòa nhà này hay cái máy in cổ lỗ sĩ và thư viện chẳng ai mó tới trên lầu, Piston cũng nằm trong thỏa thuận mua lại tòa soạn Thời báo . Dù không phải là nhân viên chính thức, nhưng thứ Sáu nào, ông cũng đến để lấy 50 đô tiền lương, chỉ nhận tiền mặt, không nhận chi phiếu. Và để đền đáp số thù lao đó, thỉnh thoảng ông quét nhà, lâu lâu chùi bụi bẩn trên cửa kính mặt tiền, đem rác đi vứt nếu có ai phàn nàn nhắc nhở. Ông không có giờ giấc làm việc, đến đi tùy thích, chẳng màng gõ cửa khi chúng tôi đang họp, lại còn thích dùng điện thoại và uống chùa cà phê của chúng tôi. Dù ấn tượng ban đầu nơi ông có vẻ hơi ghê rợn với đôi mắt cách xa nhau sau cặp kính dày, chiếc mũ lưỡi trai kéo thấp, bộ râu rậm rạp lộn xộn và hàm răng hô xấu kinh hồn, nhưng thật ra ông ấy vô hại. Ông còn làm việc lau dọn cho vài chỗ khác ở quanh quảng trường, và không hiểu sao sống được bằng mấy đồng bạc lẻ đó. Chẳng ai biết Piston sống ở đâu, với ai hay vào thành phố kiểu gì. Càng biết ít về Piston càng tốt.
Sáng thứ Năm đó, Piston đến sớm, vào bằng chìa khóa ông đã giữ hàng chục năm trời rồi, và nghe thấy có tiếng tích tắc gì đó. Khi đến gần kiểm tra, ông để ý thấy ba can nhựa 20 lít cột vào một chiếc hộp gỗ nằm trên sàn. Tiếng tích tắc phát ra từ chiếc hộp đó. Piston hay lảng vảng ở phòng in nhiều năm rồi, thỉnh thoảng cũng giúp Hardy vào những tối thứ Ba khi ông ấy hết giấy.
Gặp chuyện như thế, hầu hết mọi người sẽ tò mò rồi hoảng loạn, nhưng với Piston thì diễn biến hơi chậm hơn chút. Sau khi chọc quanh mấy cái thùng để đảm bảo chúng đang chứa đầy xăng và sau khi đi đến quyết định rằng mấy thứ này mà nằm chung chỗ với nhau thì cực kỳ nguy hiểm, ông mới tới văn phòng của Margaret và gọi báo cho Hardy, nói rằng tiếng tích tắc đang ngày một lớn hơn.
Hardy liền gọi cảnh sát và tầm 9:00 sáng, tôi bị cuộc gọi lôi ra khỏi giường.
Khi tôi đến nơi, hầu hết dân ở trung tâm thành phố đã di tản. Piston thì đang ngồi trên nắp capô một chiếc xe, tâm trạng cực kỳ rối bời khi biết mình vừa thoát chết trong gang tấc. Vài người thân và một tài xế xe cứu thương đang tụm lại hỏi han và có vẻ ông thích thú được làm trung tâm chú ý lắm.
Wiley Meek đã chụp hình quả bom trước khi cảnh sát đổ hết xăng trong mấy cái can ra và đặt chúng vào nơi an toàn ở con hẻm phía sau tòa nhà. “Thứ này chắc sẽ thổi bay nửa thành phố mất,” Wiley bình phẩm dựa trên kiến thức ảo tưởng về bom. Ông lo lắng rảo quanh hiện trường, ghi lại cảnh nhộn nhạo để sau này có khi dùng đến.
Cảnh sát trưởng thành phố giải thích với tôi là khu vực này vẫn đang bị phong tỏa vì chưa mở được chiếc hộp và thứ nằm trong đó vẫn đang kêu tích tắc không ngừng. “Có lẽ nó sẽ nổ, anh nói với giọng nghiêm trọng như thể mình là người đầu tiên đủ thông minh để nhận ra mối họa. Tôi cảm thấy anh ấy chẳng có mấy kinh nghiệm về bom, nhưng cũng hùa theo. Có người ở phòng xét nghiệm hình sự của bang đang cấp tốc đến, và phía cảnh sát quyết định rằng bốn tòa nhà liền kề của chúng tôi phải tiếp tục bị phong tỏa cho đến khi chuyên gia này xong việc.
Một quả bom ở trung tâm Clanton! Tin này lan nhanh hơn lửa cháy, và ai cũng gác công gác việc để hóng chuyện. Văn phòng hành chính của hạt, các ngân hàng, cửa hàng, quán ăn đều đóng cửa, và chẳng mấy chốc, một đám đông hiếu kỳ đã tụ tập bên kia đường, dưới những tán sồi lớn ở phía nam tòa án, cách một khoảng vừa đủ an toàn. Họ chăm chăm nhìn về tòa nhà nhỏ của chúng tôi, rõ ràng là đầy quan ngại và sợ hãi, nhưng cũng đang chờ đợi chuyện gì đó giật gân thú vị. Cả đời chưa hề thấy bom nổ mà.
Cảnh sát thành phố Clanton, cảnh sát hạt, và mọi công chức ở hạt cũng sớm tề tựu, họ đi vẩn vơ bên vệ đường dù chẳng làm được việc gì. Cảnh sát trưởng Coley và người đứng đầu cảnh sát thành phố tụm lại bàn bạc và quan sát đám đông bên kia đường, rồi họ ra lệnh này lệnh kia, nhưng nếu không ai thi hành thì cũng chẳng ai biết. Rõ ràng là thành phố và hạt đều không có đội phá bom.
Lúc này, Baggy lại muốn uống một ly. Với tôi giờ còn quá sớm để mớm cồn. Tôi theo ông ra phía sau tòa án, lên một cầu thang hẹp, qua một hành lang rồi lên thêm 20 bậc thang nữa đến một phòng bẩn thỉu và trần thấp. “Đây từng là phòng bồi thẩm đoàn, rồi làm phòng thư viện luật.”
“Còn giờ là gì?” tôi hỏi, mà sợ chẳng muốn nghe câu trả lời.
“Phòng Luật. Chỗ của mấy luật sư, nhưng chủ yếu là để chứa rượu.” Trong phòng có một bàn nhỏ, chân gập và sứt mẻ đủ chỗ cho thấy rõ tuổi đời lâu lắm rồi. Quanh bàn có gần chục cái ghế, mỗi chiếc mỗi loại, kiểu mấy chiếc ghế chuyền tay qua phòng ban này đến phòng ban kia rồi cuối cùng bị vứt vào cái xó này.
Ở một góc phòng có cái tủ lạnh nhỏ kèm ổ khóa. Dĩ nhiên, Baggy có chìa, ông mở ra và bên trong có sẵn một chai bourbon. Ông rót một ly thật đã tay vào cái cốc giấy rồi bảo tôi, “Kéo ghế ngồi đi.” Chúng tôi kéo hai cái ghế ra cửa sổ, nhìn xuống đám đông phía dưới. “Quang cảnh không tệ nhỉ?” ông tự hào nói. “Ông thường lên đây không vậy?"
“Mỗi tuần hai lần, có khi hơn. Chúng tôi chơi bài ở đây mỗi trưa thứ Ba và thứ Năm.”
“Hội gồm những ai?”
“Hội kín mà.” Ông nhấp một ngụm và chép môi thỏa mãn như thể người khát trong sa mạc. Trên cửa sổ, có một con nhện đang giăng mạng dày đặc. Bụi thì bám cả lớp trên bệ cửa sổ. “Chắc họ đang phát khùng rồi,” ông nói, mắt vẫn nhìn chăm chăm xuống đám đông chen chúc dưới kia.
“Họ là ai?” Tôi ngập ngừng hỏi.
“Nhà Padgitt.” Ông nói ra với giọng khá tự hào, rồi để lửng ngang đó.
“Ông chắc chắn là nhà Padgitt à?” tôi hỏi.
Baggy nghĩ ông ấy chuyện gì cũng biết, và phân nửa là đúng. Baggy cười nhếch mép, nhấp một ngụm, “Họ đốt nhà suốt mà. Một trong những chiêu của họ, lừa tiền bảo hiểm. Họ đã kiếm cả đống gia tài từ mấy công ty bảo hiểm.” Rồi lại nhấp một ngụm mới nói tiếp. “Nhưng cũng lạ khi họ dùng xăng. Anh biết mấy tay phóng hỏa nhà nghề kiêng dùng xăng vì dễ bị lần ra mà. Anh biết vậy chứ?”
“Không.”
“Chắc vậy rồi. Lính cứu hỏa thực thụ có thể ngửi ra mùi xăng ngay sau khi dập lửa. Mà xăng đồng nghĩa với phóng hỏa. Phóng hỏa nghĩa là khỏi có tiền bảo hiểm.” Lại thêm một ngụm nữa. “Nhưng dĩ nhiên trong vụ này họ muốn anh biết đây là phóng hỏa. Hợp lý mà, nhỉ?”
Lúc đó, tôi chẳng thấy ra cái gì hợp lý cả. Tôi quá hoang mang nên chẳng nói được gì.
Baggy rất thỏa mãn khi thể hiện mình biết nhiều vậy. “Anh cứ nghĩ đi, hẳn là vì thế mà quả bom chưa được kích nổ. Họ muốn anh thấy. Nếu nó kích nổ, thì thành phố không có báo đọc, và chuyện đó sẽ khiến vài người bực. Dù cũng khiến vài người khác vui.”
“Cảm ơn ông.”
“Dù gì, giải thích như thế thì hợp lý hơn. Đây là hành động dọa dẫm tinh vi.”
“Tinh vi à?”
“Phải, cứ so sánh với khả năng kia đi. Tin tôi đi, đám đó rành chuyện đốt nhà lắm. Anh gặp may đấy.”
Tôi để ý thấy ông ấy đã kín đáo tách mình ra khỏi tòa soạn. Là “anh” gặp may, chứ không phải “ta” gặp may.
Rượu vào lời ra là thế đấy. “Tầm ba năm trước, có một vụ hỏa hoạn lớn ở xưởng cưa trên xa lộ 401, ngay bên kia cồn. Họ chẳng bao giờ đốt gì trên cồn vì đâu muốn nhà chức trách lên đó săm soi. Dù gì, công ty bảo hiểm cũng đặt nghi vấn, không chịu thanh toán, vậy là Lucien Wilbanks đệ đơn kiện ầm ĩ. Vụ đó được lôi ra tòa của thẩm phán Reed Loopus. Tôi đã nghe từng lời trong phiên tòa đó.” Lại thêm một ngụm rượu dài đầy thỏa mãn.
“Ai thắng kiện?”
Baggy lờ câu hỏi của tôi đi vì câu chuyện ông kể vẫn chưa đến đoạn đó. “Đấy là một vụ hỏa hoạn lớn. Lính cứu hỏa Clanton phải huy động toàn bộ xe họ có. Dân tình nguyện ở Karaway cũng đến, thêm toàn bộ xe cảnh sát trong vùng nữa. Ở đây, cảnh sát và cứu hỏa nhộn nhạo nhất mỗi khi có cháy lớn. Cháy và bom, có lẽ vậy, nhưng tôi nhớ là chưa hề có vụ gài bom nào.”
“Và.”
“Xa lộ 401 chạy qua vài chỗ đất thấp gần cồn Padgitt, những đoạn đầm lầy. Có một cây cầu bắc qua lạch Massey, và khi xe cứu hỏa đến cầu, họ thấy một chiếc bán tải đang nằm chắn đường, có vẻ đã bị người ta lật. Thế là con đường đó bị chặn hoàn toàn, chẳng cách nào đi vòng vì quanh đó toàn là đầm lầy và mương rãnh.” Baggy chép môi rồi rót thêm rượu ra ly. Lúc thế này, tôi nên chêm lời dù biết có mở miệng thì thế nào cũng bị lờ đi, nhưng Baggy lại thích như vậy mới chịu nói tiếp. “Chiếc bán tải đó của ai?” Tôi hỏi, vừa mở miệng thì Baggy đã lắc đầu, như thể câu hỏi đó lạc đề quá rồi.
“Lửa cháy dữ dội. Mấy chiếc xe cứu hỏa phải dừng ở xa lộ 401 vì có thằng điên đã lật xe ở đó. Chẳng bao giờ tìm ra kẻ đó. Chẳng hề thấy bóng dáng người lái xe. Cũng không biết được chủ nhân chiếc xe vì nó không được đăng ký và chẳng có biển số. Ngay cả số khung cũng bị cào nhẵn rồi. Chưa ai đứng ra nhận mình là chủ chiếc xe đó dù nó chẳng hề bị hư hỏng gì mấy. Toàn bộ chuyện này đều được đưa ra trước tòa. Ai cũng biết nhà Padgitt đã phóng hỏa, lật một trong những chiếc bán tải họ trộm để chặn đường, nhưng công ty bảo hiểm không thể chứng minh được chuyện này.”
Dưới kia, cảnh sát trưởng Coley đã tìm được bộ loa. Ông ta đang bảo mọi người tránh xa con đường trước mặt văn phòng tòa soạn. Cái giọng rít lên của ông ta tạo cảm giác tình hình đang cấp bách hơn nữa.
“Vậy là công ty bảo hiểm thắng kiện?” tôi hỏi, nóng lòng muốn nghe kết quả.
“Đúng là một phiên tòa khốc liệt. Diễn ra trong ba ngày. Thường thì Wilbanks sẽ kiếm được thỏa thuận với một vài bồi thẩm. Lão làm thế lâu rồi và chưa hề bị tóm. Hơn nữa, lão quen hết mọi người trong hạt mà. Đám bảo hiểm là dân ở Jackson, và chẳng nắm rõ tình hình. Bồi thẩm đoàn họp trong hai tiếng, quay lại với phán quyết cho bên kiện, 100.000 đô, và phí phạt một triệu đô.”
“Một triệu mốt đô!” tôi thốt lên.
“Đúng rồi đấy. Phán quyết triệu đô đầu tiên ở Hạt Ford. Phải một năm sau, Tòa án Tối cao mới ra tay và giảm mức phí phạt xuống.”
Chuyện Lucien Wilbanks thao túng các bồi thẩm đúng là đáng ngại. Baggy để ly bourbon ngồi không một hồi và nhìn gì đó dưới đường. “Đây là dấu hiệu xấu, con trai à. Rất xấu.”
Tôi là sếp của ông và không thích bị gọi là “con trai”, nhưng tôi cũng cho qua. Hiện giờ có nhiều chuyện cấp thiết hơn nhiều. “Chuyện đe dọa à?” tôi hỏi.
“Phải. Nhà Padgitt hiếm khi rời cồn. Nội chuyện họ gây vụ việc ầm ĩ công khai thế này nghĩa là họ sẵn sàng tuyên chiến rồi. Nếu họ có thể đe dọa một tờ báo, thì thế nào chẳng làm vậy với bồi thẩm đoàn. Cảnh sát trưởng nằm trong tay họ rồi mà.”
“Nhưng Wilbanks nói lão muốn đổi tòa.”
Baggy khịt mũi, tay lại với lấy ly rượu. “Đừng tin chuyện đó làm gì, con trai.”
“Gọi tôi là Willie đi.” Chẳng hiểu sao tôi cứ bám lấy cái tên đó.
“Đừng tin chuyện đó làm gì, Willie. Thằng đó có tội, cơ hội duy nhất cho hắn là mua chuộc hoặc đe dọa bồi thẩm đoàn. Tôi cá một ăn mười là phiên tòa sẽ diễn ra ở đây thôi, ngay trong tòa nhà này.”
Sau hai tiếng chờ đợi trong vô vọng mong đám đông chuyển ý, cuối cùng giờ ăn trưa cũng đến và đám người tản ra dần. Chuyên gia của bang cuối cùng cũng đến và bắt đầu xem xét phòng in. Tôi vẫn không được phép vào tòa nhà, cũng chẳng sao cả.
Vậy là tôi, Margaret và Wiley, ngồi ăn sandwich ở tiền đình trước sân tòa án. Chúng tôi ăn trong lặng lẽ, trao đổi những câu ngắn gọn, mắt đều chăm chú hướng về văn phòng tòa soạn bên kia đường. Thỉnh thoảng, có người thấy chúng tôi, ngại ngùng hỏi thăm dăm ba câu. Biết nói gì với nan nhân vụ đánh bom mà bom chưa nổ nhỉ? May thay, dân ở đây không mấy kinh nghiệm trong chuyện này nên cũng ngại thực hành. Nhưng chúng tôi cũng nhận vài lời cảm thông, vài đề nghị giúp đỡ nho nhỏ.
Rồi cảnh sát trưởng Coley tìm tới, nói qua báo cáo sơ bộ về quả bom. Đồng hồ trong chiếc hộp là loại báo thức vặn dây cót mua ở đâu cũng có. Mới đầu, chuyên gia nghĩ dây nổ có vấn đề, còn chê tay nào chế bom mà nghiệp dư quá.
“Vậy ông định điều tra thế nào?” tôi bồn chồn hỏi.
“Chúng tôi sẽ lấy dấu vân tay, và xem có tìm được nhân chứng nào không. Quy trình như thường lệ thôi.”
“Ông nói chuyện với nhà Padgitt được không?” tôi hỏi, giọng còn bồn chồn hơn nữa. Xét cho cùng, tôi là đại diện cho cả đống nhân viên tòa soạn mà. Và dù tôi đang sợ chết khiếp, nhưng vẫn muốn họ thấy tôi gan dạ đến thế nào.
“Anh biết chuyện gì tôi không biết à?” Coley hỏi ngược lại tôi.
“Họ là nghi can à?”
“Còn anh là cảnh sát trưởng à?”
“Nhà Padgitt là đám phóng hỏa kinh nghiệm nhất hạt, đã đốt nhà bao lâu nay mà chẳng bị gì. Tuần trước, luật sư của họ đã đe dọa tôi ở tòa. Và chúng tôi đã cho Danny Padgitt chường mặt lên trang nhất hai lần. Không nghi họ thì nghi ai đây?”
“Anh cứ tự nhiên viết truyện đi, con trai. Cứ chỉ thẳng mặt họ. Có vẻ đằng nào anh cũng quyết tâm kiện vụ này mà.”
“Tôi lo tờ báo,” tôi giằng lại, “còn ông lo bắt tội phạm.” Coley ngả mũ chào Margaret rồi quay người bước đi.
“Năm sau là bầu cử rồi,” Wiley nói, mắt nhìn Coley đang dừng lại hỏi thăm hai cô ở gần máy bán nước, “tôi mong lão sẽ có đối thủ.”
Chuyện đe dọa lại tiếp diễn, và lần này, tổn thất là Wiley. Ông sống cách thành phố một dặm, ở một trang trại nhỏ rộng năm mẫu, chỗ để vợ ông trồng dưa hấu và nuôi vịt. Tối đó, ông vừa đỗ xe trước nhà và bước ra thì hai tên du côn nhảy ra khỏi bụi và xông tới. Tên to con đánh ông ngã ngửa rồi đấm vào mặt ông, tên kia thì lục lọi băng ghế sau xe để lấy hai máy ảnh. Wiley 58 tuổi và là cựu thủy quân lục chiến, ông xoay xở đạp được tên to con một cú ngã lăn ra đất. Hai bên đấm nhau và Wiley đang dần chiếm thế thượng phong thì tên nhỏ con nhảy ra lấy cái máy ảnh đập đầu ông. Wiley nói sau đó ông chẳng nhớ được gì nữa.
Vợ ông nghe thấy tiếng ồn ào thì chạy ra, thấy Wiley đang nằm bất tỉnh, hai cái máy ảnh đều vỡ nát. Đưa ông vào nhà, bà lấy túi đá lạnh chườm lên mặt, khám qua thì thấy chưa gãy xương nào. Ông cựu thủy quân lục chiến chẳng muốn đến bệnh viện làm gì.
Sau đó, một cảnh sát đến lấy lời khai. Wiley chỉ thoáng thấy mặt của hai kẻ tấn công nhưng ông chắc chắn là chưa hề gặp chúng bao giờ. “Giờ chúng về lại cồn rồi. Chẳng tìm được chúng đâu,” ông bảo vậy.
Cuối cùng bà vợ cũng thuyết phục được ông, rồi một tiếng sau, họ mới gọi báo cho tôi từ bệnh viện. Tôi đến nơi khi ông đang chụp X-quang. Mặt ông bầm dập, nhưng vẫn mở miệng cười được. Ông cầm tay, kéo tôi lại gần. “Số tuần tới, trang nhất” ông nói qua cái hàm sưng và môi rách tím đen.
Vài tiếng sau, tôi rời bệnh viện, lái xe quanh quẩn vùng đồng quê, mắt cứ liếc nhìn gương chiếu hậu, sợ lại có thêm một đám nhà Padgitt cầm súng nhảy ra.
Đây đâu phải là một hạt vô pháp, nơi đám tội phạm có tổ chức xách súng chạy quanh làm luật. Ngược lại thì có, đây là nơi hiếm có tội ác xảy ra. Dân chúng cũng nghiêm khắc về chuyện tham nhũng biến chất. Nhưng mà cũng đâu hẳn là vậy, và tôi thà chết chứ không chịu khuất phục. Tôi sẽ mua một khẩu súng, trời ạ, ở hạt này ai chẳng có hai hoặc ba khẩu chứ. Và nếu cần, tôi sẽ thuê một vệ sĩ gì đó. Tờ báo của tôi đang ngày càng táo bạo hơn khi giờ xử án ngày một đến gần.