- III - Bốn con yêu và...
Ở một địa-phương, đều có hai chế độ thống quản.
Một chế độ chánh trị thống quản phần thật tế và một chế độ thần kỳ ma quỉ thống trị phần linh hồn. Mỗi một ông quan trị nhậm một hạt là đánh một dấu trên thời gian cho địa hạt ấy; thời gian ông ấy trị nhậm dường như muốn là một kỷ nguyên, một quãng thời gian riêng đặt bằng tên ông ấy. Trong triều nói: thời Hồng Đức, thời Gia Long, thời Xuân Phù, thời Thuận Thiên vân… vân...; thì ngoài dã, trong dân gian, người ta cũng thường nói: Thời quan trấn thủ Nguyễn Lệ, thời quan Tổng Đốc Võ Trọng Bình, thời quan hiệp thống Trịnh Huệ.
Dân gian ghi thời đại một vị quan tuần Iương cũng như nhớ kỹ, chôn sâu một thiên tai ghê gớm. Bởi vậy người ta nói: ‘‘bão Quí-Mão’’ ‘‘lụt Quí tị’’ cũng như người ta nhớ không quên quan Đốc Đồng Trần với cái việc ăn lễ của thằng thợ đóng cối xay năm quan. Người ta nhớ quan Hành Tham Tụng Bùi với việc in và phát mấy bộ sách thư kinh, quan Hiệp Thống Phạm với việc trị mấy bọn giặc dân vùng Thượng Hồng, cũng như người ta nói ‘‘vụ gặt năm Tân-vị’’, khoa thi năm Giáp Thìn.
Đó là cách ghi thời gian bằng việc dương.
Còn cách ghi thời gian bằng việc âm nữa.
Dường như, theo ý người xưa, phần âm cũng có từng hồi từng đoạn. Mỗi hồi mỗi đọan lại có một hoặc hai ba con yêu con ma dùng làm mốc để định thời hạn hẳn hoi. Ở dương có thời của ông Hiệp Thống Nguyễn Đăng Giai, ông Đốc thị Phạm Ngô Cầu, ông Quận Việp thì ở âm cũng có từng hồi của từng con yêu con ma. Yêu ma cũng đủ hồi phế hưng suy thịnh như những kẻ cầm vận mệnh một nước hoặc một vùng.
Hà nội mới là nơi có đĩ thượng lưu, ăn cắp
Lành nghề, yêu ma phong nhã.
Yêu ma ở Hà nội cũng khác yêu ma các nơi.
Hồi cuối đời Lê đầu Nguyễn, thành Thăng Long có bốn con yêu:
Long Thành có bốn yêu tinh.
Yêu hồ trước Giám, yêu đình Đồng xuân
Yêu cây Bàng giữa hàng Cân
Yêu gốc cây Liễu giữa sân chùa Tàu
Bốn con yêu ấy thống quản phần âm-u, phần tín ngưỡng, lòng dục vọng của người thành Thăng Long suốt đời Cảnh-Hưng, Chiêu -Thống, Quang-Trung, Cảnh-Thịnh, Gia-Long. Đời của nó kể ra cũng bằng đời một triều đại nhơ nhỡ. Tám mươi năm làm ma, làm yêu ở thành Thăng Long, bốn con yêu ấy kể ra cũng khỏe, cũng dai lắm đó. Sau nó, sau khi nó đã tàn thời hết thiêng, mà thiên hạ cũng vẫn còn e ấp sợ hãi mãi. Sau nó, đến một hồi loạn ma, không con nào làm chủ nữa. Sau nó, là một hồi ma khách do trận Đống Đa, trận Phù Kiều của triều Tây Sơn gây ra. Ma khách nhất loạt bằng đẳng cả. Cô Quyền ở hàng Bông cố hết sức đánh dấu thời đại của cô cũng không nổi; tuy cô cũng có một vài cái hiển tích hay hay. Cô cố muốn kể thống bốn con ma trên, nhưng cũng không ai muốn tôn cô lên bực ấy, mặc dầu cô đã hiển linh nhiều lần, cô đã làm hunh hại dân gian nhiều lần. Cô thiêng từ cuối Gia Long rồi đến hồi quốc biến, nghĩa là sau đời Tự Đức thì cô cũng mất thiêng liền. Cô cũng òm ọe hách dịch trong dân giang được sáu bảy chục năm. Mười lăm năm đầu dung để ra oai mà trấn áp nhân tâm. Hai mươi năm cuối, dung để vớt vát lại uy quyền gần tàn, gần mất. Thành ra, trừ dầu, trừ đuôi, còn được độ ba mươi năm chi chi đó. Mà trong ba mươi năm ấy thì có trò gì hiển hách lắm đâu. Thỉnh thoảng hiện ra ban đêm làm con gái đẹp để lừa những công tử ăn sương, họa hoằn mới có lúc dám hiện ra ban ngày vào hàng trêu những cô gái bán hàng chua ngoa khó chịu. Mấy năm tàn thời lại càng nhạt nhẽo lắm. Đêm lập lòe như quả bưởi bằng lửa lượn từ hàng Bông đến đầu hàng Tiện rồi lại quay về hàng Bông. Có thế mà thôi, có thế mà thôi, thì sao đánh dấu đời mình một cách hiển hách được. Có thế mà thôi, thì sao dân gian có chịu uy quyền? Cuối cùng, có một đêm kia cô vô ý thành ra trọn kiếp hết thiêng. Một đêm, cô hiện lên rồi vào ngồi chiếc nhà nghĩ mát ở vườn hoa sau nhà bên cạnh. Chủ nhân nhà ấy, một vị quan to kiêm một nhà nho ngạo nghễ, đêm hôm ấy ra chơi vườn hoa bắt gặp. dám ở cái nhà cạnh cây đa Cô Quyền, dám có cái vườn hoa u uất sau nhà, dám đến cạnh cửa sổ mà chơi hoa, dám nửa đêm trăng mờ sao tỏ ra vườn hoa chơi, con người ấy chẳng cần phải nói, ai cũng phải chịu là bạo. Đã có cái bạo ấy thì có sợ gì nữa mà chẳng tiến đến cái bóng Hằng Nga mới hiện xuống chiếc tạ [1] giữa vườn?
Chủ nhân đến nơi. Cô Quyền ra gan không thèm biến. Chủ nhân đến sát cạnh. Cô nhất định không lui. Chủ nhân nắm tay hỏi:
— Hằng Nga mới bỏ cung mây xuống trần từ bao giờ?
— Tôi là con gái nhà hàng xóm đây.
Chủ nhân vốn là người háo sắc khi nào lại có tha người con gái nửa đêm đến vườn hoa nhà mình, ông liền ôm lấy. Cô liền gỡ ra. Ông dằn cô xuống chiếc ghế đá trong nhà tạ. Cô không biến được nữa:
— Ông cố nài hoa ép liễu tôi chăng?
— Cô vô cố đến vườn hoa tôi làm gì? Dạ gian võ cố nhập nhân gia, phi dâm tắc đạo [2] ý cô muốn thì tôi xin chiều.
— Tôi nói thật: tôi là Cô Quyền ở gốc đa kia.
— Thì cô vật chết tôi, tôi cũng cam tâm.
— Tôi không vật chết nổi ông vì tinh-tướng ông to. Ông là ông đại khoa, ông là ông quan to. Nhưng nếu ông nài hoa ép liễu tôi thì tôi làm cho ông tuyệt tự.
— Tuyệt tự mà được hưởng sắc đẹp của cô, tôi cũng cam tâm.
Thế rồi thì:
Một đêm mưa gió nặng nề,
Sợ gì tuyệt tự, hãi gì ma thiêng.
Rồi từ đó cô Quyền hết thiêng. Đời ma thiêng của cô đến đêm ấy là hết hồi hết vận.
Từ đó hàng Bông chỉ còn có cây Đa không thôi.
Từ đó cô Quyền chỉ còn cái tiếng hờ. Đoạn phố ấy tuy vẫn mang tên cô — hàng Bông Cô Quyền — nhưng thật cô không còn nữa. Vài mươi năm gần đây, người ta đốn cây Đa đi thì cái chỗ cô nương nấp cũ cũng không còn. Khách qua đó đã nhiều phen nhớ đến câu ‘‘Cố nhất thế chi hùng giã, nhi kim an tại tai’’ [3] của Tô Đông Pha cùng câu «Nào đâu sương tuyết thuở xưa?» của Villon [4]
Lại nói bốn con yêu hồi cuối Lê ở thành Thăng Long.
Bốn con yêu ấy đều là yêu con gái cả và tính chất có khác nhau tuy rằng chúng đồng tính [2] và cùng sống một nơi như nhau.
☆
Trước cửa Giám ở Hà Nội bây giờ, người ta vẫn còn thấy một cái hồ con. Giữa hồ có một bãi cỏ xanh, giữa bãi cỏ xanh có một cái miếu nhỏ. Hồ ấy về đời cuối Lê còn rộng lắm. Sau này vì việc mở mang thành phố người ta mới lấp bớt đi. Phố Cao Đắc Minh chạy dọc phía tả Giám ngày nay, xưa chỉ là một con đường đủ hai ngựa đi dóng đầu. Chỗ đầu phố Sœur-Antoine, xưa cũng chỉ là ruộng thấp. Xưa: đôi bên cạnh Giám, trước sau Giám cây cối hoang vu, nhưng Giám từ cửa đến lầu Khuê Văn, từ lầu Khuê Văn đến Thiên Quang Tỉnh, đền thờ đứng Chi Thành, đứng Khải Thánh, đều trơn tru sạch sẽ. Nay: những chỗ bao bọc Giám thành nơi đường cái phố sá phong quang thì ở trong lại thành chỗ hoang vu hồ như vô chủ.
Hồi ấy, chung quanh hoang vu mà trong sáng sủa. Con yêu trước hồ thường ẩn hiện ở những nơi hoang vu quanh Giám mà ít khi dám vào đến trong đền.
Con yêu ấy, nói của đáng tội, cũng không yêu ác gì cho lắm, vì suốt đời tám mươi năm của nó, nó không từng làm hại một người nào. Nó chỉ đón bọn học trò rồi trêu ghẹo chơi nếu người ấy không đứng đắn. Nếu là người đứng đắn thì nó cũng chẳng trêu ghẹo chi cả. Có một điều người ta thường nhận là:
Ai gặp nó ôn tồn chào hỏi thì người ấy tất về sau khá. Ai thấy nó cung kính thì người ấy tất về sau nổi tiếng là được người ta kính trọng vô cùng, dù sự nghiệp lật đật, dù đời nhiều đoạn bi thương. Ai thấy nó hát hỏng bông đùa thì người ấy tất là người quỉ quyệt và hay chết một cách bất thường. Ai thấy nó quay mặt đi, người ấy tất là người tiểu nhân nham hiếm.
Năm ông Lê Quý Đôn đi thi gặp con yêu đó ở cổng Văn miếu, nó chắp tay vái dài một cái rồi nói: Ông thông minh hơn người, nhưng đừng kiêu hãnh quá mà chết có ngày. Rồi nó nói một
tràng chữ nho: quan kỳ mâu tử, nhân yên sưu tai Quân, mục bất định tình, tha nhật nhược đắc chí, phi thương sinh chi phúc [6].
Năm Cảnh-Hưng 27, khoa thi Bính Tuất, Ngô Thi Sĩ và Lý Trần Quán cùng đi qua hồ trước Giám, con yêu chấp tay cung kính khi hai người đi qua. Lý Trần Quán đi trước, Ngô Thi Sĩ đi sau mấy bước. Lý đi khỏi, con yêu vẫn cung kính như cũ, lại cất tiếng hát nho nhỏ:
Hơn nhau, hơn một chữ thì,
Cuối thu ngựa lại chết vì chuột con.
Sau ông Lý Trần Quán đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức Thiêm Tri Lại Phiên rồi năm nhà Trịnh mất, chúa Trịnh bị bắt, ông tự chôn sống để chết theo chúa. Ngô Thi Sĩ cũng đỗ tiến sĩ nhưng đến năm Canh Tí (năm chuột) ông chết vì công việc của con ông làm. Tên chữ ông là Ngọ Phong, ngọ là năm ngựa.
Con yêu ấy báo tin cho ai đỗ ai hỏng rất đúng.. Vì vậy ai gặp nó có thể dựa vào những chuyện, đã xảy ra trước mà đoán biết qua loa vận mệnh mình. Nó ít khi chịu hiện cho lái buôn cùng người cày ruộng xem mà chỉ hiện cho học trò xem thôi. Có người nói phỏng rằng kiếp xưa có lẽ nó là một người đàn bà có học hoặc vợ một người học trò bất đắc chí nên khi làm yêu làm ma cũng có ý thiên với bọn học trò.
Có một bận, một người học trò gặp nó, thấy nó tươi cười liền hỏi:
- Cô ở luôn đây, cô thấy Đức Thánh [7] về bao giờ không?
- Không bao giờ Đức Thánh về đây cả. Có một lần, vào năm Cảnh Hưng 24, trước ngày tế Văn miếu một ngày, tôi có thấy thầy Tử Cống đi qua, nghé mắt vào cửa rồi lại đi ngay.
Té ra, cứ theo lời nói con yêu ấy, vua chúa và sĩ phu tế cúng Đứng Chí Thành bao năm mà ngài cũng chẳng thèm đoái hoài. Thầy Tử Cống chắc vì nhiều tiền nên có lẽ ngài sai sang hưởng lễ thay ngài đó; nhưng thấy miếu mạo đìu hiu quá, thầy cũng chẳng thèm vào nữa.
Phường Đồng Xuân gồm cả mấy dãy phố Hàng đường, Hàng Gạo, Cầu Đông, Cống Chéo, Hàng Giấy, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Phố Mới bây giờ. Giữa phường có một cái đình. Cạnh cái phương đình giữa sân, có một cây đề thật to. Thân cây, hai người ôm chưa xuể, tán cây vùng ra che khắp cái sân rộng ngót mẫu đất. Cái phương đình, nấp dưới tán cây ấy, luôn luôn được mát. Lại thêm nỗi, vì gốc cây có ma nên ít người lui tới. Ở chỗ mát, ít được có hơi người, những khe gạch khe cột rêu mọc xanh cả. Nền cái phương đình lát gạch bát tràng khổ dại. Một thứ gạch không rêu được nên vẫn giữ sắc nâu sẫm. Trông cái nền gạch vuông, khe mọc rêu ấy, tựa như bàn cờ kẻ xanh trên tấm gỗ xám xì. Bốn cái cột gạch giữ mái đình cũng đeo từng khoang rêu xanh đều đặn.
Chỗ ấy là chỗ con ma đình Đồng Xuân ở. Có lúc nó hiện ra ngồi trong phương đình, có lúc nó hiện ra đứng dưới gốc đề. Những đêm khuya thanh vắng, dưới ánh trăng mờ, dưới tán lá đề ngâm gió [8] rào rào như nước khe chảy xiết, thường thường ông thủ từ vẫn trông thấy nó đứng dưới gốc cây ngâm thơ đọc sách. Con yêu này tính chất cũng hơi giống con yêu hồ Giám. Cũng chỉ hay nói chuyện với học trò, cũng hay trêu người, cũng không làm hại một ai. Nó khác con yêu hồ Giám ở chỗ nó không cung kính một ai cả mà hễ nói thì tất nói câu sâu sắc chua chát. Gặp ai mà nó im quay mặt đi là người ấy khá giả đến nơi. Gặp ai nó nói mát cùng một câu là người ấy y như có việc bực mình xảy đến nay mai. Gặp ai nó vui cười chào hỏi là người ấy sau đấy năm chìm bảy nổi chẳng ra sao cả. Dường nó khinh người sắp giàu sang chẳng thèm hỏi tới mà nó coi người phong trần lạc phách là bạn cùng thuyền. Bởi thế, người đời ấy có câu ngạn ngữ:
Yêu Đồng Xuân cứ khinh
Tớ nhẹ đường công danh.
Yêu Đồng Xuân mà trọng
Trăm việc làm trăm hỏng.
Chỗ vườn hoa giáp bờ hồ Hoàn Kiếm và đường Francis Garnier, xưa kia là xóm An Trường của phường Hoàn Kiếm. Vào chỗ trước cửa nhà máy Điện trông sang có cái ngõ đi thẳng vào ngõ An Trường. Đường đầu cái ngõ ấy trông xế lên phía tòa Đốc Lý, bây giờ mấy cái tam quan chùa Tàu. Chùa ấy do người Tàu làm ra để ghi công ông Thiêm Đô Ngự Sử họ Phan đời Lê. Nguyên trước người ngoại quốc chỉ được lên đến Phố Hiến (gần Hưng Yên bây giờ) mà thôi. Trong bọn người Tàu sang ở ta có họ Phan ở Hồ Nam, Trong họ Phan có người vào làng ta, thi đỗ rồi làm quan đến Thiêm Đô Ngự Sử.Nhờ cái địa vị ấy ông mới xin được cho họ Phan ông lên ở kinh kỳ. Sau ơn ấy lan rộng dần dần, người khách mới lên Thăng Long buôn bán. Vì thế ông Thiêm Đô họ Phan mới có đền thờ kỷ công. Vì thế chùa ấy mới gọi là chùa Tàu.
Ở giữa sân chùa có một gốc liễu già. Thân cây sù sì hốc hác khiến người ta nhớ đến chuyện con ma liễu đòi uống rượu ăn chả ở bộ Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Tơ liễu về xuân buông thõng dài tử ngọn đến gần sát đất trông như người đàn bà rũ tóc hóng gió. Gốc liễu ấy lâu ngày thành tinh. Vì thế, lâu ngày, vì sợ tinh sợ yêu, chùa cùng bỏ hoang không ai nhìn nhận tới. Con yêu gốc liễu ấy yêu ác hơn hai con yêu trên kia. Hai con yêu trên kia người ta trông thấy, có người thế nọ, có người thế kia ; chứ ai vô phúc mà trông thấy con yêu gốc liễu thì ít nhất cũng ốm hàng tháng. Ai trao đổi lời nói với nó thì ít ra công việc cũng trắc trở hàng năm. Ai vô phúc tưởng nó là con gái mà trêu ghẹo bông đùa thì thế nào cũng mắc một tật nặng. Có người đi chơi về chiều qua xóm An Trường, gặp nó đi trên bờ ruộng. Người ấy tưởng là con gái nhà nào, xuống bờ ruộng đón rồi nắm lấy tay. Về nhà, cái bàn tay ấy sưng húp lên mất sáu bảy tháng. Lại có người vô phúc hơn, ôm nó vào lòng. Về nhà, phát bệnh suốt thân thể lúc nào sờ cũng lạnh ngắt như đồng. Như thế, được mười hôm rồi một hôm tự miệng thét vang nhà: « Nó lại ôm lấy tôi. Nó muốn ôm thì tôi cho nó xuống âm phủ mà ôm». Nói xong ngã vật ra, mồm mũi phun máu tươi ra được một lúc thì chết.
Có hôm trái trời, người xóm An Trường trông thấy nó ngồi vắt vẻo đánh đu trên cành liễu. Có người đồn rằng nguyên kiếp trước nó là một người trinh nữ, đi qua bãi cỏ trước chùa bị một người hiếp hãm, tức quá và xấu hổ quá người trinh nữ cắn lưỡi chết. Vì bị chết một cách uất ức chua xót như thế, nên thành yêu, nó vẫn mang một mối căm hờn vô cùng với hết thảy đàn ông. Vì thế nên nó chỉ trêu đàn ông mà không bao giơ trêu đàn bà con gái cả.
☆
Con yêu cây bàng ở giữa Hàng Cân là con ma lành nhất. Nó làm ơn nhiều hơn là gây vạ. Ai mất mát việc gì đến khấn nó, hôm sau đồ vật mất sẽ tự nhiên thấy treo ở gốc cày bàng. Người có của khi ấy cứ việc đến lấy mang về. Có khi đồ vật treo xếp lủng củng cả ở thân cây gốc cây, đợi chủ nhân mất của đến lấy về. Kẻ nào đem lòng gian tà lấy của ấy thì hoặc ốm nặng, ốm nhẹ, ốm lâu, ốm chóng, hoặc có khi chết tùy theo giá cái vật kẻ ấy đã lấy và tùy theo đường dài ngắn từ nhà đứa ăn cắp thứ nhất đến gốc bàng, nghĩa là sự trừng phạt sẽ do theo giá vật ăn cắp và công con yêu đã khuân nó về.
Quãng thời gian đi từ năm đầu Cảnh -Hưng (1740) đến năm cuối Cảnh-Thịnh (1801), quãng thời gian sáu mươi năm ấy có thể gọi là quãng nối hai thời đại của nước ta. Trước năm 1740 là một thời: thời nước Nam trong cái vũ trụ Đông Á. Sau năm 1801 là một thời: thời nước Nam bắt đầu phải lôi kéo vào một cái vũ trụ mới, cái vũ trụ Năm Châu.
Ngọn đèn sắp tắt bao giờ cũng bùng lên sáng rực một hồi rồi mới lụn dần bấc mà tắt hẳn. Nước Nam của vũ trụ Đông-Á đến hồi 60 năm ấy cũng phấn phát hẳn lên để rồi bắt đầu suy nhược dần dần rồi tiêu ma cho đến ngày nay.
Nhà Trịnh, không hồi nào thịnh bằng đời Thánh Tổ Thịnh Vương Trịnh-Sâm. Song cái thịnh đó chỉ là cái thịnh báo trước cái suy vong sắp tới. Thịnh Vương nằm xuống thì kế đến loạn Kiêu-Binh, rồi kết cục nhà Trịnh kết thúc triều đại mình bằng việc chúa Đoan Nam Vương tự tử ở làng Nhật Chiêu. Nước Nam không hồi nào lắm việc, lắm nhân tài bằng hồi cuối Lê đầu Nguyễn, song anh hoa chỉ phát tiết hết ra ngoài hồi ấy để rồi cạn hết sinh khí, mòn hết da thịt, tiêu hết động lực để bước vào một hồi mới, hồi nhân tài không có một ai. Nước Nam không thời nào oanh liệt bằng hồi vua Thái Tổ Võ Hoàng Đế nhà Tây Sơn phá quân Tiêm, đuổi quân Tàu, nhưng chỉ oanh liệt một lần cuối cùng ấy nữa mà thôi, Võ Đế nằm xuống thì bọn Thái Phó Trần Quang Diệu, Tư Đồ Dũng làm đổ nát triều Tây Sơn. Nước Nam tới đó, ngoi ngóp sắp thở ra. Trong lúc gần hết sinh lực đó, tiếc đời oanh liệt của mình xưa, cố thu hết sinh khí còn dư, cựa một lần cuối cùng nữa. Cái cựa ấy đã kém sức lắm rồi. Vua Thế Tổ Cao-Hoàng nhà Nguyễn, người làm tiêu biểu cho sức mạnh cố gắng lần chót ấy, sự nghiệp cũng có vẻ khả quan...
Bốn con yêu hồi ấy cũng theo vận suy thịnh của việc dương mà thêm bớt sức thiêng. Thiêng và đúng mực hồi Thánh Tổ Thịnh Vương, nó đâm ra mê loạn hồi loạn Kiêu binh, rồi đâm ra dữ tợn hồi Quang Trung, rồi lại trở lại mê loạn ở hồi Cảnh Thịnh. Sau hồi Cảnh Thịnh, nó cũng còn thiêng nhưng chỉ là cái thiêng của con ma thường thường. Thế rồi vào khoảng giữa đời Gia Long thì nó mất thiêng dần dần cho đến mất hẳn. Kế nó, cô Quyền ở hàng Bông Hà Nội, chúa Liễu ở đền Sòng Thanh Hóa, cô Sấu Đồng Nai ở vùng Quảng Thuận cũng thiết phát được một đôi hồi.
Cô Quyền bị một ông quan làm mất thiêng.
Chúa Liễu bị vua Minh Mệnh đeo tràng hạt vào cổ bắt tu.
Cô Sấu Đồng Nai thì trốn lưỡi gươm Thượng Phuơng của vua Thiệu Trị mà mất tích.
Chúa Liễu làm chết một người lính trạm đem công văn từ Bắc vào Nam. Vua Minh Mệnh đem tràng hạt đeo vào cổ mà phán: ‘‘Muốn trẫm để cho dân gian thờ thì tu bớt đi.’’ Từ đó vâng mệnh vua, chúa tu rồi chúa cũng mất thiêng.
Cô Sấu Đồng Nai là một con Cá Sấu ở sông Đồng Nai hóa yêu. Một hôm y ngồi trên đình màn vua Thiệu Trị. Nhà vua trông thấy hỏi:
— Mi là oan hồn các cung nhân, các tông thất nữ [9] mi có muốn kêu gì thì phải xuống ngay!
Cô Sấu cười khanh khách trên đình màn:
— Trên ba thu, dưới lại ba thu,
Con mắt lóng lánh đã tu được nào!
Đó, bệ-hạ nhớ lấy nhé! Tôi là Cô Sấu Đồng Nai đây.
Nói rồi biến mất.
Vua Thiệu Trị giận lắm, sai người đem gươm Thượng phương [10] đi phá hết các miếu thờ Cô Sấu Đồng Nai. Từ đó cô cũng mất thiêng.
Bây giờ, không còn ma yêu nào nữa.
Bây giờ là thời đại của cơ khí, của vô tuyến điện, của phi cơ.
Chú thích:
[1] Tạ: cái nhà làm ở vườn hoa, phần nhiều không có tường, cửa.
[2] Đêm vô cố vào nhà người, không là chuyện dâm thì là chuyện trộm cắp.
[3] Xưa là người anh hung một thuở đó, mà nay còn ở đâu. Câu này ở bài phú Xích Bích của Tô Thức, hiệu Đông Pha.
[4] Où sont les neiges d’antan?( 1 câu trong bài thơ Ballade des Dames du temps jadis của thi sĩ François Villon).
[5] Même sexe.
[6] Cứ xem con người thì người thế nào hiện ra ngay không giấu được. Ông, con người không nằm yên trong mắt bao giờ. Sau này mà ông đắc chí không phải là phúc cho dân.
[7] Chỉ Khổng Phu Tử.
[8] Lá cây đề có người gọi là ‘‘ngâm phong diệp’’ vì hơi có gió là nó kêu rào rào.
[9] Chính đúng là tông thất. Vì vua Thiệu Trị húy là Miên Tông nên phải đọc và viết tránh đi là tôn thất.
[10] Thượng phương kiếm: Kiếm vua cầm, vua dùng.