← Quay lại trang sách

- IV - Hai ông đồ

THÔI bác, thi với cử làm cóc mốc gì nữa. Đời học trò của tôi thế là đủ lắm rồi. Tôi bắt đầu vác lều chiếu vào trường từ khoa Ất Mão từ năm tôi 21 tuổi. Tới nay trải qua hai đời vua, ba đời chúa, 15 khoa thi. Có đỗ thì cũng đã đỗ từ lâu rồi. Thôi tôi đành ở nhà làm ông đồ đến già vậy.

— Bác thi đâu đến 15 khoa.

— Tôi nói là trải 15 khoa chứ có thi đâu cả 15 khoa. Tôi nghỉ bảy khoa tất cả. Hai khoa vì có chế [1] thầy mẹ tôi ; hai khoa vì có chế ông bà tôi. Tôi là thừa trọng tôn nên phải thay thầy mẹ tôi mà thụ chế ba năm ; còn ba khoa khác vì ốm. Tức nhất là khoa Mậu-tí, khoa Ngô Thì Nhậm nó đỗ giải nguyên. Cả năm, khỏe như trâu chẳng sao cả, gần đến ngày thi thì ốm liệt giường liệt chiếu. Đầu bài khoa ấy, mình thuộc như cháo mà không đi thi thế mới oan ức làm sao! Thôi bác còn trẻ nên cố sức mà đi, tôi xin thóai thôi. Người ta hành, chỉ, tiến, thối [2] phải biết mới được. Tôi trên đầu điểm hai thứ tóc rồi, thi làm gì nữa cho nó nhục.

— Bác mới ngoài bốn mươi đã lấy gì làm già lắm. Thái Công 80 tuổi mới...

— Thôi, tôi xin ông. Ông đừng nói chữ nữa. Tôi không dám làm việc ông Thái Công.. Cái đó xin nhường người tài giỏi hơn tôi... đại khái như ông.

— Tôi nói đùa đó mà... Bác hãy cố đi khoa nữa. Tội gì mà chẳng đi. Khoa này là thịnh-khoa tháng mười thi hương, tháng một thi hội, may ra ông Cống tháng trước, ông Nghè tháng sau, tội gì mà chẳng thi để phí nửa đời người học hành đi hay sao?

—... Thi để những thằng học trò tôi, những thằng con bạn tôi nó đè quyển tôi ra nó chấm nữa hay sao? Cái may ông Cống ông Nghè chưa thấy đâu, nhưng cái nhục ấy thì thấy ngay đó. Còn một chuyện nữa, quan trọng hơn, khiến tôi không muốn thi nữa. Và có lẽ bác cũng không nên thi nữa.

— Chuyện chi thế?

— Chuyện hay lắm. Bác lại đằng tôi, tôi nói cho mà nghe. Đằng tôi tuy tre gianh sơ sài nhưng được cái kín đáo và tĩnh mịch hơn.

Đồ Đông Lạc bị khăn xéo rồi cùng bạn đồ Đông Xuân cùng đi. Hai người theo dẫy hàng Đào, hàng Ngang, qua cầu Đông Cống - Chéo rồi vào một xóm cạnh đình Đồng Xuân.

Cạnh đình phường Đồng Xuân, sát vách cái nhà thảo xá có một ngôi nhà bỏ hoang từ đời Vĩnh Hựu (1735 - 1740). Nhà ấy nguyên của một ông quan về đời vua Lê Gia Tông (1672 - 1675) Hi-Tông (1676 - 1705) Dụ-Tông (1706 - 1729). Ông quê ở vùng Sơn Nam Hạ, khi lên kinh làm quan, tậu một miếng đất ở đó làm nhà ở. Sau khi ông mất, nhà ấy vẫn cho người ta ở nhờ. Sau vì nhà ở cạnh cây đề có yêu nên không ai ở nhờ nữa mà chủ nhà có muốn bán cũng không được vì không ai dám mua.

Đồ Trạc ở Đồng Xuân sau một hồi thất điên bát đảo vì gia biến, vì thi cử, bán hết cả nhà ruộng, liền đến đó ở. Lúc ông đến ở, trong từ vợ con, ngoài đến xóm giềng làng nước ai cũng can ngăn. Nhưng ông cứ đến. Ông nói:

— Con yêu cây đề nếu có vật chết tôi lại càng hay. Đỗ sinh đồ đến mấy khoa liền thì giá có chết đi cũng rảnh. Vợ con bằng sợ yêu thì tôi đến đấy ở một mình. Nhà ngói sân gạch vườn sau ao trước để không như thế chẳng phí của lắm sao? Tội gì nhà như thế chẳng ở lại đi chui vào ở nhờ cái nhà gianh nhỏ hẹp như cái nhà bếp. Ma thiêng hay không là ở như người. Người mạnh thì ma yếu, người cứng bóng vía thì yêu nào cũng chẳng dám gần.

Thế rồi ông cứ đến ở một mình, mặc cho vợ con cứ ở nhờ cái nhà gianh con của người trong họ.

Từ ngày đến ở, ông vẫn cố ý rình mò xem con yêu cây đề nó như thế nào. Đêm đêm, ông vẫn mở cái cửa sổ ở sau nhà nhìn thẳng ra coi phương đình và cây đề.

Một tháng: không thấy gì,

Hai tháng: không thấy gì.

Ông thuật chuyện lại cho bà đồ nghe. Bà đồ khi đó tin rằng chồng mình bóng vía đủ cứng cáp để trấn áp yêu quái ma quỷ nên vững vào chỗ đó, cũng đem con cái đến ở cùng ông. Nhưng bà cùng con cái thầy tớ chỉ dám ở chiếc nhà ngang trông ra đường chứ không dám ở chiếc nhà trên, cách cây đề chỉ chừng hai trượng.

Từ ngày vợ con đến, ông lại để ý xem xét.

Một tháng: không thấy gì.

Một năm cũng không thấy gì.

Suốt ngày ông không đi đâu cả, trừ ra ngày nào trường quan Hoàng Bảo Triện Trần Danh Lâm [3] có kỳ nhật - khắc [4] hoặc bình văn [5] là hoặc ông đến rủ bạn ông, ông Đồ Đồng Lạc, hoặc ông Đồ Đông Lạc đến rủ ông đến làm bài nhật khắc hoặc nghe bình văn. Trong mười năm gần đây người ta cũng chỉ thấy ông chơi với ông Đồ Đông Lạc mà thôi.

Ông Đồ Đồng Lạc người vong niên hữu [6] của ông, kém ông mười tuổi. Hai người gặp nhau từ sau khoa Mậu-Tí. Khoa thi Mậu-Tí, đồ Đồng Xuân cùng đồ Đồng Lạc vào trường đều đóng ở một vi [7] giáp nhau. Sau khi cả hai người hỏng thi mới rủ nhau cùng đến tập bài quan Hoàng Bảo Triện.

— Tôi khoa nào cũng hỏng văn sách.

— Tôi cũng thế. Hễ văn sách tôi mà được cái thứ mảc [8] là tôi giật được Cống Sinh ngay. Hay là hai ta đến tập bài quan hoàng Bảo Triện. Văn sách nhà ấy thì thật là văn sách nòi.

Từ đó hai người thân nhau.

Ông đồ Đồng Lạc tên là Vũ Như Ngọc, vốn quê ở đất Kinh Bắc. Ông thân sinh về Thăng Long buôn bán nên thành người Thăng Long. Ông học giỏi lắm, khét tiếng cả một vùng. Ông học giỏi, có văn tài hoạt bát, làm bài nhanh nhưng học hành khi hơi lười vì ông cậy cái thông minh «qua mắt không quên» của ông. Bạn ông thì học chậm lắm, nhưng khi hơi chậm, văn bài làm khi thật quá, không được bỏng bay. Vì cậy tài lười học nên ông thi hỏng luôn hai khoa.

Từ ngày hai người chơi với nhau thì lạ thay! ông đồ Trạc Đồng Xuân cũng nhanh nhẹn hơn lên, văn bài cũng sắc sảo hơn lên, mà ông đồ Đồng Lạc thì cũng chăm học hơn lên.

Ông đồ Đồng Lạc thường nói đùa với bà con rằng:

— Sinh ra ta là cha với mẹ mà làm cho ta vui chuyện học là đồ Trạc Đồng Xuân.

Người đời bây giờ cũng có câu rằng:

Giỏi nhất đế đô:

Bác đồ Đồng-Lạc.

Học kêu như vạc:

Đồ Trạc Đồng Xuân.

Hôm ấy, ông đồ Đồng Xuân bất thần đến chơi đồ Đồng Lạc. Mọi khi không có kỳ bình văn hoặc nhật khắc là đố bác đồ Đồng Lạc rủ được ông đồ Đông Xuân đi chơi. Hôm ấy, thấy vô cố bạn đến chơi, đồ Ngọc lấy làm lạ lắm:

— Chả, bác cũng đi chơi phiếm nữa cơ đấy à? Hôm nay trường quan Hoàng có nhật khắc bình văn gì đâu!

— Bình thì làm trò gi!Nhật khắc thì làm trò nỡm gì! Đến bác nói chuyện phiếm chơi đó thôi.

Ông đồ Đồng Lạc ngắm kỹ bạn:

— Chi lạ thế bác? Sao bác hôm nay lại giở chứng giở thói ra thế? Hay là mười năm bạn với tôi, bây giờ bác lại bắt tính phiếm và lười của tôi như trước khi tôi bắt tính học kêu như vạc của bác?

— Thì thế sắp khác cả, học làm gì cho mệt.

Đồ Ngọc thấy bạn nói chạm cả đến hai chữ thì thế, chữ mà xưa nay đồ Trạc ít khi dùng đến, việc mà mười năm nay, đồ Ngọc không thấy bạn để tâm đến một chút nào. Bạn ông, con người chỉ biết học, chỉ biết có sách, chỉ biết có chờ khoa để đi thi, con người vẫn lấy câu: «Thành đỗ đã vua chúa xây, việc gì gái hóa lo ngày lo đêm!» làm câu xử thế châm ngôn, con người như thế mà nói đến thì thế âu cũng là một chuyện lạ lùng. Ông vừa giỡn vừa đáp bạn:

-Thì thế làm sao? Núi Thái Sơn sắp đỗ à? Lương mộc nát à?

— Đùa mãi. Tôi nói thật đấy. Tôi chán lắm; chán lắm.

— Chán gì? Tên mình Lễ-phiên vào sổ rồi. Quyển nộp rồi. Tháng sáu thi hương, tháng sau nữa thi hội.

— Bác làm như đỗ hương rồi ấy.

— Ấy phải thế cho nó phấn phát người lên chứ.

— Vâng. Bác phấn phát là phải, tôi thì xin lui. Khoa này tôi cáo ốm.

Đồ Ngọc càng sửng sốt:

— Bác làm tôi hoa cả mắt, choáng cả tai. Bác nói chi lạ thế? Bác cáo ốm không đi thi. Bác quẫn hay sao thế?

Câu chuyện cứ như thế mãi. Một người thi, cứ nói là không thi nữa mà không chịu nói rõ ràng hẳn cái cớ làm sao lại đổi ý kiến chóng như thế. Một bên, thấy bạn khác thường, cứ hết dò nét mặt lại đến hỏi phỏng, hết cớ nọ lại sang cớ kia. Chè chuyên đã đến năm ấm mà câu chuyện vẫn cứ nhùng nhằng mãi chưa thôi.

Đến lúc trời chiều xế bóng thì câu chuyện mới rõ thêm được một chút nữa - Đoạn vấn đáp sau cùng tác giả đã đem lên đầu chương trên kia. Nói đến chỗ cái nhục gặp những ông quan trường hậu tiến chấm bài, đồ Ngọc vẫn chưa tin hẳn là cái cớ chính nó làm cho bạn mình hốt nhiên có một cuộc lộn tùng phèo trong óc bạn.

Ông tự nghĩ: «Thế những khoa trước anh cũng đã từng bị bọn trẻ tuổi nó đè quyển ra nó chấm, sao anh không lấy làm nhục? Cái lòng tri-sỉ của anh này sao mà nẩy nở ra chậm thế? Quyết đó không phải cớ chính». Ông cố tìm cái cớ nó cắt nghĩa được cái giọng «thời thế» của bạn khi mới đến chơi mà vẫn chưa ra. Ông lại lo cho bạn hoặc mới mắc bệnh gì mà đâm ra mê lẫn.

Đến lúc bạn ông nói rằng ông cũng không nên thi nữa, ông lại càng lấy làm lạ quá nữa. «Ô hay! anh này dễ hóa điên thật». Giá bạn ông chẳng rủ ông đến chơi để nghe nốt câu chuyện hay hay mà quan trọng thì cũng phải theo gót bạn ngay vì ông vẫn tấm tức rằng không biết trước được sự biến đổi của người bạn mười năm.

Câu chuyện kể ra cũng hay hay thật, còn có quan trọng hay không thì tùy sự phán đoán của mỗi người.

Đêm hôm ấy là đêm hôm mười tám tháng chín. Trăng mọc khi khuya, mãi đến giờ Tuất mới lấp ló qua chùm lá đề mà soi vào khung cửa sổ.

Đồ Trạc, theo lệ mọi ngày, đem chiếc đèn dầu ra học. Ông ngồi tựa cửa sổ ghé sách vào ngọn đèn dầu chập ba sợi bấc mà xem. Thỉnh thoảng đến đoạn nào hay, hứng chí ông lại ngâm nga. Ông cứ ngồi hàng giờ ra với chồng sách bên cạnh nách, quyển sách cầm tay. Thỉnh thoảng ông lại đặt sách xuống, rặt điếu thuốc lào. Vừa rặt thuốc ông vừa ngâm nga đoạn sách ông vừa đọc. Hút xong điếu thuốc, ông lại lấy quyển sách khác trên chồng sách, bỏ quyển sách vừa xem vào chồng rồi lại ngồi hàng giờ như trước. Cứ thế: cứ hết mỗi quyển lại hút một điếu thuốc đổi sách, rồi lại cứ thế lúc ngân nga, lúc trầm ngâm, cho đến tận đêm khuya.

Hôm ấy, ông đọc sách hơi khuya hơn mọi ngày.

Trống canh ở Cửa Ô Quan Trưởng [9] đã điểm sang giờ Sửu. Ông vẫn còn ngồi xem sách.

Vào độ giữa giờ Sửu, ông thấy tiếng thở dài thật mạnh gần ông – Ngẩng đầu nhìn lên, ông thấy ngoài cái cửa sổ tròn có người con gái đứng ngắm vào cửa. Ông nhìn thật kỹ xem có phải mình hoáng mắt không. Thi rõ ràng người ấy đương nhìn ông mà tủm tỉm cười - Ông hỏi:

— Mày hẳn là con yêu cây Đề? Mày định nát tao chăng?

Tuy miệng ông nói thì cứng thế, nhưng trong bụng cũng hơi chờn chợn - Người con gái kia vẫn cười:

— Chi mà phải mày tao! Tôi coi bộ ông tử công phu học tập mà tôi thương!

— Thương với nhớ gì...

Tới đây lòng ông thấy núng – chứng cớ là ông không mày tao nữa mà tay ông thì sẽ lấy quyển Kinh Dịch mở ra. Ông mở quyển sách ấy vì ông tin rằng sách ấy ma sợ. Người con gái lại càng cười to:

— Ông đừng giở Kinh Dịch ra, vô ích. Tôi không sợ đâu! Ông sợ thì để tôi đi cho ông học.

Nói xong, người con gái quay lưng đi về phía chiếc phương đình. Được vài bước, y quay lại, nói thủng thỉnh:

— Quốc tương vương, quân diệc bất đệ Hưu dĩ đọc thư hách ngã dã [10].

Nói xong đi thẳng vào phương đình rồi biến mất. Ông nhìn theo mãi mới thôi. Đoạn ông gập sách lại, thở dài nhắc lại:

— Quốc tương vương... quốc tương vương… quân diệc bất đệ... diệc bất đệ, bất đệ, bất đệ…

Ông bấy giờ choáng váng cả người. Làm cho ông choáng váng không phải là những chữ quốc tương vương nhưng là hai chữ bất đệ. Bất đệ, ông bất đệ bao phen rồi, bạc đầu vì bất đệ rồi, nay lại bất đệ nữa thì đến bao giờ mới đệ?

Chúng ta bây giờ khó mà biết được cái khổ tâm và cái tâm lý của một người học trò hỏng thi về thời đại trước. Hỏng thi xưa kia như là một sự tai biến gì to tát có quan hệ đến thân danh tính mệnh người học trò chứ không như cái hỏng thi ngày nay.

Muốn cho độc giả lý hội gọi là cái tâm lý chết rồi ấy, tôi xin đan cử ra một việc mà mắt tôi đã được trông thấy hẳn hoi.

Việc ấy xảy ra khoảng cuối đời Duy Tân, vào một khoa thi hương ở trường thi Nam Định.

Bốn kỳ thi xong rồi, người ta chỉ còn đợi ngày xướng danh để xem 25 ông cử mới, dạ theo tiếng loa ở cửa trường thi và lĩnh mũ áo vào lạy tạ quan trường.

Một buổi sáng mùa đông, trời còn tối. Các ruộng chung quanh trường thi, nhất là các ruộng trước cửa trường thi, đều đã tấp nập những người nhà người đi thi, cùng người đi nghe và đi xem xướng danh. Dưới ánh sáng những ngọn đuốc mập mờ, người ta nhận thấy lạc vào một bể người.